Viết là một hành vi đòi hỏi nhiều nỗ lực. Đặc biệt là khi viết về các chủ đề Phật giáo, người viết bên cạnh kiến thức uyên bác và tham khảo công phu, cũng cần có tu chứng ở một mức độ nào đó. Do vậy, tôi đặc biệt quý trọng sách, cả kinh và luận.
Từ những ngày thơ ấu, tôi đã say mê đọc sách, nghiền ngẫm sách, dò tìm ý nghĩa và ghi nhớ một số chi tiết ưa thích trong sách. Với tôi, chữ có sức mạnh riêng, có sức sống riêng, có thể tự nhảy rời trên giấy để nói về một ý trong kinh, trong luận. Tôi đã say mê đọc cả Nam Tông và Bắc Tông, say mê đọc bất kỳ trang giấy nào có dòng chữ “Một thời tôi nghe” và say mê bất kỳ những giải thích về những lời dạy đó, dù là có nhiều khi mình chẳng hiểu bao nhiêu. Rồi vậy đó, tôi lớn dần theo những trang sách, trân trọng hít thở những dòng chữ trên giấy, và nhìn thấy chữ tan trong thân tâm mình, sảng khoái như khi uống ngụm trà buổi tối, an lạc như khi cảm thọ từng hơi thở hòa vào toàn thân mình.
Viết là một hành vi mệt nhọc, đầy hy sinh, và rất trí tuệ. Khi đọc bộ sách “Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam” của GS Lê Mạnh Thát, tôi kinh ngạc trước những nghiên cứu phi thường khi Giáo Sư dò ra rằng dân tộc mình đã từng có chữ viết tiếng Việt từ thời Hùng Vương, và cú pháp chữ Việt cổ thời đã được người xưa sử dụng khi soạn Lục Độ Tập Kinh, và nhiều khám phá chưa từng có tương tự. Tôi hình dung rằng GS Lê Mạnh Thát đã tìm tới các ngôi chùa rất xưa cổ, chụp hình các văn bản cổ trên giấy, trên gỗ và trên đá để về nghiên cứu và viết thành những cuốn sách kinh thiên động địa như thế. Tôi đã từng ước muốn sẽ viết một bài giới thiệu bộ sách đó nhưng rồi thôi, tự biết mình không đủ kiến thức để nói về một ngọn núi như thế.
Tôi tự biết mình có rất nhiều giới hạn, kém chữ Hán và không biết gì về chữ Nôm, dốt cả chữ Bắc Phạn (Sanskrit) và Nam Phạn (Pali)… Đã có lúc tôi tự nghĩ là phải học một cổ ngữ để đọc Kinh Phật, nhưng rồi lại thôi. Bởi vì, tự nghĩ cũng như một người Mỹ học tiếng Việt mười năm, mà bảo đọc Truyện Kiều… thì sẽ chẳng tới đâu, huống là mình chẳng còn bao nhiêu năm trên cõi đời này. Trừ phi, bản thân mình là một thiên tài về ngữ học; nhưng chuyện này thì nằm mơ cũng không thấy.
Do vậy, tôi biết ơn những người đã viết sách, dịch sách. Trong đó, hình ảnh tôi có về cụ Mai Thọ Truyền là một ông cụ tóc trắng với đôi mắt tinh anh, tôi từng gặp khi còn ngồi học ở Chùa Xá Lợi. Nhiều thập niên sau, đọc Tâm Kinh Việt Giải của cụ, mới thấy cụ hiện ra không còn ở sân chùa như ký ức, mà là trên những dòng chữ đã hiển lộ sáng ngời đôi mắt của cụ soi thấu ba cõi sáu đường.
Cũng như những thắc mắc không bao giờ có cơ hội để hỏi trực tiếp người viết. Trong bản dịch Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận của Ngài Huệ Hải, Thầy Thích Thanh Từ nhiều thập niên trước đã in là “Huệ Hải” và rồi ấn bản mấy năm gần đây in là “Tuệ Hải”… Hiển nhiên là cùng nghĩa, nhưng rất mực có tính “vùng, miền”… Có phải học trò của Thầy khi in lại đã hiệu đính cho phù hợp âm đọc người Bắc? Tôi mang ơn Thầy Thích Thanh Từ và cuốn sách này biết là bao nhiêu, cũng như nhiều sách khác của Thầy.
Và rồi một cuốn tuyệt vời mấy năm gần đây là Duy Ma Cật Sở Thuyết, do Thầy Tuệ Sỹ dịch và chú. Sách này là kinh, là văn, là thơ, là nhạc, và là tâm yếu Thiền Tông. Sách này là gậy đi đường của Bồ Tát Đạo, là bước đi của người cư sĩ trong đời ngũ trược, tuy nhìn thấy khắp thế gian chìm đắm trong bất tịnh nhưng chính trong cái được thấy, trong cái được nghe, trong cái được cảm thọ, trong cái được thấy nghe hay biết vẫn là ánh sáng cõi Phật rực rỡ. Tôi đọc và nhìn thấy hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ cao vời vợi giữa chất văn đầy thi tính, giữa các chú giải uyên bác dựa vào nhiều ngôn ngữ, và giữa tâm từ bi hiển lộ trên từng dòng chữ của Duy Ma Cật Sở Thuyết.
Bìa sách Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (trái) và Duy Ma Cật Sở Thuyết (phải).Và rồi hình ảnh Thầy Thích Minh Châu… Tôi biết ơn Thầy biết là bao nhiêu. Thầy đã dịch Tạng Kinh Pali, công trình lớn vô cùng tận. Hạnh phúc vô cùng là khi tôi đọc các bản dịch của Thầy Minh Châu, đối chiếu với các bản Anh dịch của nhiều Thầy khác, và khám phá ra cội gốc Thiền Tông trong Tạng Pali. Tôi tự nhủ, bản thân mình không biết tiếng Pali, nên cách hay nhất là đối chiếu bản Việt và nhiều bản Anh dịch.
Đôi khi tôi thắc mắc, nhưng không thể biết được hết chuyện của các ngài Thánh Tăng xa xưa. Khi đọc về Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất, một số tài liệu của quý Ngài Nam Tông cũng ghi nhận rằng các vị A La Hán đã có bất đồng về một số lời tụng lại trong Đại hội này.
Khi Ngài Purana và 500 vị sư tới trễ (thời xa xưa phải đi bộ), thì Đại hội hoàn tất việc tụng kết tập Kinh và Luật. Ngài Maha Ca-diếp yêu cầu Ngài Purana tụng theo kinh đã kết tập, nhưng Ngài Purana nói rằng bản thân Ngài Purana từng trực tiếp nghe Đức Phật dạy một số điều khác hơn, và Ngài Purana sẽ giữ những lời dạy đã nghe trực tiếp.
Đại sư Kurunegala Angirasa Thera viết trong một tài liệu về Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất: “Even among the prominent Arahants, there were conflicting views regarding certain matters. The view expressed by Elder Purana regarding the first Council bears testimony to this.” (Dịch: Ngay cả trong các vị A La Hán uy tín, cũng có quan điểm mâu thuẫn về một số vấn đề. Trưởng Lão Purana bày tỏ quan điểm về Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất là một minh chứng.) (1)
Như vậy, thời này, có bất đồng cũng là bình thường. Tuy nhiên, tôi nghĩ là các tư tưởng Đại Thừa đã có sẵn trong Tạng Pali. Đó là Trung Quán Luận, là Duy Thức, là Kinh Lăng Nghiêm, là Kinh Kim Cang, là Kinh Pháp Bảo Đàn, và nhiều kinh khác… Tôi rất mực hạnh phúc khi đọc các bản dịch của Thầy Minh Châu, khi đối chiếu các bản Anh dịch, và rồi nhận ra lời dạy của Thiền Tông, của Đại Thừa.
Đã từng có lúc, bổn sư của tôi là Hòa Thượng Tịch Chiếu (Chùa Tây Tạng Bình Dương) bảo tôi rằng con đừng đọc nữa.
Chỗ này nên cảnh giác: hoàn toàn không có nghĩa là rời bỏ chữ. Bởi vì chữ trong Kinh là lời Đức Phật dạy, sao lại bảo chớ đọc? Không đọc các bộ Nikaya, A Hàm, không đọc kinh và luận… thì đời chẳng còn gì là đáng nói. Thực ra, nói không đọc chỉ có nghĩa là, đừng vin vào các ký hiệu mà tìm ý nghĩa, đừng dính vào ngón tay mà không thấy được mặt trăng. Một lần, nhiều thập niên trước, Thầy Tịch Chiếu và tôi bước xuống bếp chùa. Gần bếp có pho tượng cao cỡ một mét, đúc hình một vị tiều phu, với chiếc rựa. Thầy Tịch Chiếu chỉ vào pho tượng và nói với tôi: “Đây là ông Phật đó.”
Phải nhiều năm sau, tôi mới nhận ra ý Thầy rằng không phải Phật là tượng gỗ, tượng đất sét, tượng tiều phu, hay tượng 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Nhưng chính rằng Phật đó chính là cái được thấy. Thầy từng dạy rằng tánh là vàng, nhưng hiển tướng vàng chính là khoen, xuyến, nhẫn, dây chuyền… Và như thế, Phật chính là tượng, là nhà, là bàn, là ghế, là vườn, là núi, là rừng… tất cả hiển lộ bình đẳng trong cái thấy. Và Phật cũng chính là tiếng chuông, tiếng chim hát buổi sáng, tiếng gió thổi qua cây… tất cả hiển lộ bình đẳng trong cái nghe. Và thế giới hiển lộ với chúng ta là “toàn tướng tức tánh, toàn tánh tức tướng” (Kinh Lăng Nghiêm: tất cả tướng là tánh, tất cả tánh là tướng) và là “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như lai” (Kinh Kim Cang: hễ thấy các tướng không phải là tướng, tức là thấy Như Lai)… Thấy được như thế, các bờ phân biệt biến mất, tất cả trước mắt, bên tai… trở thành cái Như Thị, cái không thể nói bằng lời, cõi tâm nó bật sáng như thế là nó như thế, biện biệt biến mất, thân tâm và thế giới không phải hai, không phải một, không phải nhiều, ngôn ngữ trong và ngoài vắng bặt…
Tôi đã cực kỳ hạnh phúc khi đọc trong Tạng Pali, tới Kinh SN 35.23 (Sabba Sutta: The All), bản dịch Thầy Minh Châu là:
“Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về tất cả. Hãy lắng nghe. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả? Mắt và các sắc; tai và các tiếng; mũi và các hương; lưỡi và các vị; thân và các xúc; ý và các pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là tất cả.” (2)
Như thế, Tất Cả, nghĩa là Bất Nhị. Không phải hai. Nhưng không nên nghĩ là một, cũng không nên nghĩ là nhiều.
Tôi nhận ra rằng việc phân chia tông phái có thể là từ các vị sư tới gặp Đức Phật và xin một lời dạy để về ngồi luôn nơi góc núi, ven rừng… Những kinh đó thường có những lời dạy mang phong vị rất Thiền Tông. Nhiều năm qua, tôi đã tìm đọc các kinh như thế từ bản dịch Tạng Pali của Thầy Minh Châu và các bản Anh dịch đối chiếu.
Tôi đã cực kỳ hạnh phúc khi dò ra một lời dạy trong Kinh Lăng Nghiêm, “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn; Tri kiến vô kiến, tức tư Niết Bàn…” (Thấy biết mà dựng lập thấy biết, chính là cội gốc vô minh; Thấy biết, không dựng lập thấy biết, tức khắc là Niết Bàn) cũng là lời dạy trong Kinh AN 4.24 và Kinh MN 140 ở Tạng Pali. Tôi đã dò tất cả các bản Anh dịch có thể tìm được, và cảm nhận sương khói Xứ Ma Kiệt Đà, nơi Đức Phật từng bước chân hoằng pháp, đang phả lên từng dòng kinh tiếng Việt và tiếng Anh.
Chính khi đó, trước mắt tôi hiện ra một hình ảnh trong Bá Trượng Ngữ Lục, trích:
“Sư làm thị giả cho Mã Tổ, mỗi khi thí chủ cúng dường trai phạn Mã Tổ, Sư vừa mở nắp đậy đồ ăn thì Mã Tổ liền lấy một miếng bánh thị chúng rằng: "Là cái gì?". Mỗi mỗi như thế trải qua ba năm.” (3)
Ngài Bá Trượng theo học Ngài Mã Tổ, và cứ ba năm liên tục, mỗi ngày, khi thí chủ cúng dường trai phạn, Ngài Mã Tổ cầm miếng bánh lên hỏi: Là cái gì?
Tuyệt vời là như thế. Mà hễ ai nói rằng là bánh, rằng không phải bánh, rằng đã là bánh, rằng đã không là bánh… thì đều là hỏng. Y hệt như khi Thầy tôi chỉ vào pho tượng và nói “Ông Phật đó kìa” -- và chính đó, cả thế giới thấy nghe hay biết trong dòng chảy xiết của vô thường trong cõi này không lìa tâm mà hiển lộ, nhưng cũng không thể gọi là tâm vì các pháp đều bất khả đắc…
Và gần đây, tôi rất mực hạnh phúc khi đọc trong một cuốn sách mới phổ biến, nhan đề “Niệm Định Tuệ Hữu Lậu Và Niệm Định Tuệ Vô Lậu” của Tỳ Kheo Thích Thắng Giải, nơi Chương 7, trích:
“Ngài Triệu Châu đã dạy cho người thị giả rằng: Này con, đây là lửa nhưng con đừng gọi là lửa, Thầy đã chỉ dạy cho con xong. Con có lãnh hội lời Thầy dạy không?” (4)
Tuyệt vời. Tôi, trong cương vị độc giả, đã rất mực vui mừng khi thấy tác giả ghi lại tích này. Lửa là cái được thấy, nhưng gọi là cái gì hay không là cái gì đều hỏng. Tuyển tập của Thầy Thích Thắng Giải rất công phu, dò và đối chiếu nhiều kinh Nam Tông và Bắc Tông, cũng như đã đối chiếu với trong Luận Thành Duy Thức (bản do Thầy Tuệ Sỹ dịch và chú)…
Chúng ta sẽ rơi vào vọng tưởng nếu gọi ngọn lửa của Ngài Triệu Châu là bất kỳ cái gì. Khi đã thấy thì không cần mượn tới chữ. Dù đó là lửa, hay nước, hay tôi, hay bạn, hay thế giới này… Hãy để các pháp hiển lộ như thế là như thế. Hễ mở miệng luôn luôn là trễ rồi… Đó là khi ngôn ngữ dứt bặt. Cũng y hệt tiếng đàn, có chẻ cây đàn ra trăm ngàn mảnh cũng không dò ra tiếng đàn nơi đâu. Tâm hiển lộ qua tiếng đàn, nhưng tìm bất cứ cái gì, dù là có tâm hay không tâm, dù là tiếng đàn hay không tiếng đàn… cũng đều là vọng tưởng. Hãy để nó như thế là như thế. Bởi vì tất cả những phản ứng nào của chúng ta khi thấy nghe hay biết đều là sản phẩm của ngũ uẩn quá khứ. Trong khi đó, Pháp Tánh đang trôi chảy qua thân tâm chúng ta luôn luôn mới lạ, luôn luôn là cái chưa từng được biết, luôn luôn là cái không lời, luôn luôn là cái vô ngằn mé.
Kinh MN 140, bản dịch Thầy Minh Châu, ghi lời Đức Phật:
“Này Tỷ-kheo, “Tôi là”, như vậy là vọng tưởng. “Tôi là cái này”, như vậy là vọng tưởng. “Tôi sẽ là”, như vậy là vọng tưởng. “Tôi sẽ không là”, như vậy là vọng tưởng. “Tôi sẽ có sắc”, như vậy là vọng tưởng. “Tôi sẽ không có sắc”, như vậy là vọng tưởng. “Tôi sẽ có tưởng”, như vậy là vọng tưởng. “Tôi sẽ không có tưởng”, như vậy là vọng tưởng. “Tôi sẽ không có tưởng, không không có tưởng”, như vậy là vọng tưởng…” (5)
Do vậy Thiền Tông không phải là ngồi, mà là đi đứng nằm ngồi đều nhận ra Pháp Tánh hiển lộ trong cái dòng chảy vô thường của tất cả, không trong và không ngoài tâm. Và Pháp là cái tức khắc, cái thấy được ở đây và bây giờ, cái chứng thực được, cái vượt thời gian.
Trong khi đó về ni giới, những vị nổi bật hiện nay tại California về viết sách và dịch sách là Ni Sư Thuần Bạch (học trò Thiền Sư Thích Thanh Từ) và Ni Sư Giới Hương (học trò Ni Trưởng Hải Triều Âm). Tất cả sách (sáng tác và dịch) của Ni Sư Thuần Bạch đều hỗ trợ tốt cho người tu Thiền, trong khi tất cả sách của Ni Sư Giới Hương cho độc giả một cái nhìn bao quát nhiều tông phái, qua nhiều thời kỳ, từ các bộ Kinh A Hàm cho tới Kinh Lăng Nghiêm, cũng như dịch sách của Ngài Đạt Lai Lạt Ma đời 14. Ni Sư Giới Hương cũng đang viết sách tiếng Anh.
Trong những ngày gần đây, bên cạnh tình hình sách về Phật giáo được viết và phát hành nhiều hơn, nổi lên một hiện tượng hiếm thấy: nữ cư sĩ Tâm Bảo Đàn (bút hiệu khác là Milam Sudhana) trước giờ chuyên dịch kinh sách, chủ yếu Phật Giáo Tây Tạng, vừa mới viết và ấn hành sách bằng Anh ngữ.
--- “The Eighteenth Aspirational Vow of Buddha Amitabha” bản Anh ngữ, và ấn bản Việt ngữ là Lời Nguyện Thứ Mười Tám của Đức Phật A Di Đà" – Nữ cư sĩ Tâm Bảo Đàn đã nghe lời giảng của Thầy Thích Tuệ Hải (trụ trì Chùa Long Hương, Đồng Nai) và đã chép xuống, cô đọng, dịch sang tiếng Anh. Nội dung Thầy Tuệ Hải nói rằng học kinh Đại Thừa theo nghĩa đen sẽ không nắm được kiến giải đúng đắn và thâm diệu của Kinh. Trong sách này Thầy Tuệ Hải chỉ cách hiểu và thực hành, sống ngay trong đời này sự hiện diện sinh động của A Di Đà – là tự tánh quang minh, là tuệ giác ngay nơi chúng ta – và qua đó đạt đến cảnh giới tâm Cực Lạc. Thầy Thích Tuệ Hải là học trò của Thầy Thích Thanh Từ.
--- “The Lama of Many Lifetimes: Touching the Living Heart of Garchen Rinpoche” Book Two – Đây là Tập 2 trong chuỗi 3 tập, tác giả Tâm Bảo Đản viết về bổn sư là Ngài Garchen Rinpoche. Chỉ có bản tiếng Anh, chưa có bản Việt. Sách này đang được dịch sang nhiều ngôn ngữ -- tiếng Việt, Tây Tạng, Trung Hoa, Pháp, Đức, Ba Lan, Nga, Tây Ban Nha. Sách in rất đẹp, giấy dày, văn phong tiếng Anh rất thơ mộng khi kể về thời trẻ của đại sư Garchen, đặc biệt kể về tâm từ bi của Ngài ngay cả đối với các chiến binh Trung Quốc thù địch. Sách này gồm 3 tập. Tập 3 chưa viết xong. Sách có thể tìm trên Amazon.
Hình trái là bìa sách “The Lama of Many Lifetimes” và bên phải là 2 bản Anh-Việt sách “The Eighteenth Aspirational Vow of Buddha Amitabha”Điều muốn nói ở đây là, một hiện tượng rất hiếm: Phật tử gốc Việt viết sách Phật giáo bằng tiếng Anh. Đây là nhu cầu lớn: Phật tử trẻ gốc Việt tại hải ngoại không biết tiếng Việt, và chỉ đọc về Phật pháp qua tiếng Anh. Nhiều em trong thế hệ trẻ mất hẳn sợi dây nối kết với Phật giáo trong VN. Khi nghe thế hệ lớn tuổi nói rằng Phật Giáo VN trong một thế kỷ qua nương tựa vào các cổ thụ như quý Thầy Tâm Minh Lê Đình Thám, Minh Châu, Thanh Từ, Trí Thủ, Thiện Siêu, Nhất Hạnh, Tuệ Sỹ, Đức Thắng, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, GS Lê Mạnh Thát… thế hệ trẻ không hình dung nổi cả một chân trời hoằng pháp rực rỡ như thế. Nếu có cơ duyên, các em sẽ gặp các sách tiếng Anh của Thầy Nhất Hạnh, nhưng đây không là toàn cảnh, và cũng không là chủ điểm. Sách tiếng Anh của Tâm Bảo Đàn (và của các tác giả tương tự trong tương lai) sẽ cho những người đọc ngoại ngữ cái nhìn bao quát hơn về PGVN.
Trong tình hình sách in nhiều như thế, các nhà báo có nhiệm vụ giới thiệu sách hẳn nhiên sẽ bận rộn. Tuy nhiên, chúng ta nên nhìn như thế này: nếu nhà báo này làm việc cho các báo ngoài đời, họ sẽ ưu tiên viết về các sách ngoài đời, vì phải chiều theo sở thích của đa số độc giả. Người điểm sách (reviewer) tuy công việc nhẹ hơn các chuyên gia, nhưng cũng cần nhiều kiến thức. Thí dụ, muốn viết về bộ sách Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam của GS Lê Mạnh Thát cũng cần có kiến thức về cổ sử VN và Trung Hoa, bên cạnh trình độ Phật học uyên bác.
Có một điểm cũng nên thấy: sáng tác văn học về Phật giáo phần lớn không hay bằng sáng tác văn học của các nhà văn, nhà thơ đời thường. May mắn, chúng ta còn có các nhà thơ xuất sắc như quý ngài Tuệ Sỹ và Minh Đức Triều Tâm Ảnh, cũng như còn có người viết nhận định và tùy bút tuyệt vời như hai cư sĩ Cao Huy Thuần và Đỗ Hồng Ngọc. Chỉ tiếc, tiểu thuyết và truyện ngắn hay cho Phật Giáo thì không nhiều.
Chính vì nhu cầu viết sách, đọc sách, giới thiệu sách Phật Giáo cần như thế, người viết xin đề nghị quý Tăng Ni Cư Sĩ hải ngoại nên tổ chức nhiều buổi Hội Sách (Book Fair) để khuyến tấn Phật tử (nhiều thế hệ) đọc sách và viết sách về Phật Giáo. Không hỗ trợ, mọi chuyện cuối cùng rồi sẽ chìm luôn. Thí dụ, một năm nên tổ chức ba buổi Hội Sách ở California, luân phiên ở San Jose, Quận Cam, San Diego.
Hiện thời, Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử Tâm Thường Định đang chuẩn bị thực hiện một Hội Sách vào tháng 10/2019 tại San Jose; dự kiến buổi này sẽ giới thiệu hơn 300 tác phẩm về Phật Giáo.
Trong một lá thư gửi một số tác giả và nhà xuât bản PG, cư sĩ Tâm Thường Định viết, trích:
“Nhằm tạo một cơ hội sinh hoạt chung để chia sẻ, truyền lửa cho nhau, và thảo luận một số đề tài liên quan đến công việc Hoằng pháp, Giáo dục, Văn học Nghệ thuật, Phật Giáo, và Ra Mắt Sách chung, một buổi sinh hoạt CÓ MẶT CHO NHAU 2 sẽ được tổ chức tại Tully Community Branch Library, 880 Tully Rd. San Jose, CA 95111, vào lúc 2:30--5:45 Chiều, Thứ Bảy, ngày 19 tháng 10, 2019.
Buổi sinh hoạt này gồm có các tiết mục như sau:
Book Fair và Ra Mắt Sách của NXB Lotus Media, Inc., Hương Tích Phật Việt, Viet Ananda Foundation, Hoa Đàm, Lotus Media, Tủ Sách Phổ Hoà, etc... trong đó có tác phẩm của Thầy Như Điển, Thầy Từ Lực, Thầy Nguyên Tạng, cư sĩ Thiện Quả, Nguyên Giác, Nguyên Minh, Như Hùng, Vĩnh Hảo, Trần Kiêm Đoàn, Trần Trung Đạo, Trưởng Nguyễn Hoàng Lãng Du, Htr. Tâm Thường Định, v.v…” (ngưng trích)
Thư Mời còn cho biết sẽ có phần hội luận, chia sẻ thao thức và kinh nghiệm hoằng pháp, cũng như giới thiệu các nhà xuất bản Phật học, trong khi phần thực tập Chánh niệm sẽ được xen kẽ trong chương trình.
Thư Mời cũng ghi thêm: “Sự hiện diện của quý Thầy Cô và quý vị là động lực lớn, là đạo tình đầm ấm, và là tấm lòng quý giá trên đời dành cho nhau. Mọi sự liên lạc, ủng hộ hay đóng góp xây dựng, xin email về Htr. tamthuongdinh@gmail.com; Cell: (916)-607-4066 hoặc cư sĩ Thiện Trí (408) 218-0747.”
Sau Hội Sách sẽ là chương trình tại Chùa Thiên Trúc, với cơm thân mật, trà đàm, trao đổi về việc Hoằng Pháp sắp tới…
Poster chính thức của chương trình Có Mặt Cho Nhau (lần 2) Nơi đây xin có lời ngợi ca tất cả những người đã viết sách, dịch sách, in sách, giới thiệu sách về các chủ đề Phật Giáo. Tất cả quý vị đều là những đi theo sự nghiệp của Ngài A Nan. Và Đức Phật đã dạy, rằng công đức bất khả tư nghì chính là bố thí pháp.
GHI CHÚ:
(1) Ven. Kurunegala Angirasa Thera, The Early Buddhist Councils And The Principal Schools And Sects Of Buddhism -
https://pgvn.org/pg_8564zb Trên trang Suttas.com cũng viết: “The chanting of Dhamma and Vinaya by the Five Hundred was not completely accepted by all monks. Venerable Purana and his 500 disciples arrived at Rajagaha and were met by elderly monks who asked him to submit and learn the texts. However, Venerable Purana would only bear in mind what he had heard in the Lord’s presence, directly from Him.” -
https://pgvn.org/pg_8074gy (2) Kinh SN 35.23:
https://pgvn.org/pg_5684dw (3) Bá Trượng Ngữ Lục:
https://pgvn.org/pg_5791bt(4) Tỳ Kheo Thích Thắng Giải, Niệm Định Tuệ Hữu Lậu Và Niệm Định Tuệ Vô Lậu:
https://pgvn.org/pg_0486sf (5) Kinh MN 140:
https://pgvn.org/pg_6712nc .