Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương

Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)

Trang chủ »» Danh mục »» »» Tu học Phật pháp »» Sự quán thấy của Đức Phật về sự vận hành của thế giới »»

Tu học Phật pháp
»» Sự quán thấy của Đức Phật về sự vận hành của thế giới



(Lượt xem: 19)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Văn học Phật giáo - Sự quán thấy của Đức Phật về sự vận hành của thế giới

Font chữ:

Các bài giảng trên đây (Bài 3) nêu lên quan điểm của Phật giáo về chủ đề dục tính trên phương diện tổng quát, liên quan đến những người tại gia cũng như xuất gia. Dưới đây (Bài 4) chúng ta sẽ tiếp tục trở lại với chủ đề này, nhưng tập trung nhiều hơn vào khung cảnh sinh hoạt của những người xuất gia. Thật vậy, dục tính là một chướng ngại to lớn đối với những người từ bỏ thế tục. Đức Phật ví những người tu hành dấn thân vào con đường gay go đó với những chiến binh xông vào một trận chiến thật hung hãn.

Trong trận chiến đấu hung hãn đó, có những chiến binh ngã gục, có những chiến binh mang thương tích, nhưng cũng có các chiến binh tạo được vinh quang và đứng vào hàng đầu trong trận chiến. Trên con đường tách ra khỏi thế tục cũng vậy, có những người tu hành bỏ cuộc, có những người chùn chân, nhưng cũng có những người tu hành đi trọn con đường mà mình đã chọn. Ba bài giảng sẽ được chọn nêu lên hai con đường song song đó của người tu hành và của người chiến binh. Dưới đây là bài giảng thứ nhất:

Bài giảng thứ nhất về thái độ của một chiến binh

Paṭhamayodhājīva Sutta – AN 5.75

Chữ Paṭhamayodhājīva, tựa bài giảng, là một từ ghép (Paṭhama+yodhā+jīva), chữ paṭhama có nghĩa là ‘thứ nhất’, chữ yodhā có nghĩa là ‘chiến binh’ hay ‘chiến sĩ’, chữ jīva có nghĩa là ‘sự sống’ hay ‘cuộc sống’. Bài giảng này như sau:

«Này các tỳ-kheo, trong thế giới có năm thể loại chiến binh. Vậy năm thể loại chiến binh ấy là những người như thế nào?
«Đấy là trường hợp một người chiến binh khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên] (khi quân địch xung trận thì sẽ khiến bụi đất bốc lên) thì chùn chân, nao núng, thiếu cương quyết, không đủ can đảm xông vào trận chiến. Này các tỳ-kheo, một số các chiến binh có thái độ như vậy. Đấy là thể loại chiến binh thứ nhất mà người ta nhận thấy trong thế giới.
«Này các tỳ-kheo, nhưng cũng có một số chiến binh chịu đựng được (không khiếp sợ) khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên], thế nhưng khi trông thấy đỉnh ngọn cờ của quân địch [nhô lên khỏi đám bụi mù] thì chùn chân, nao núng, thiếu cương quyết, không đủ can đảm xông vào trận chiến. Này các tỳ-kheo, một số các chiến binh có thái độ như vậy. Đấy là thể loại chiến binh thứ hai mà người ta nhận thấy trong thế giới.

«Này các tỳ-kheo, nhưng cũng có một số chiến binh chịu đựng được khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên] và đỉnh ngọn cờ của quân địch [nhô lên khỏi đám bụi mù], thế nhưng khi nghe thấy tiếng la hét (tumult / tiếng hô hào náo nhiệt) [của quân địch] thì chùn chân, nao núng, thiếu cương quyết, không đủ can đảm xông vào trận chiến. Này các tỳ-kheo, một số các chiến binh có thái độ như vậy. Đấy là thể loại chiến binh thứ ba mà người ta có thể nhận thấy trong thế giới.

«Này các tỳ-kheo, nhưng cũng có một số chiến binh chịu đựng được khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên], chịu đựng được khi trông thấy đỉnh ngọn cờ của quân địch [nhô lên khỏi đám bụi mù], chịu đựng được khi nghe thấy tiếng la hét [của quân địch], thế nhưng khi xáp trận thì lại bị thương và bỏ cuộc. Này các tỳ-kheo, một số các chiến binh có thái độ như vậy. Đấy là thể loại chiến binh thứ tư mà người ta có thể nhận thấy trong thế giới.

«Này các tỳ-kheo, nhưng cũng có một số chiến binh chịu đựng được khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên], chịu đựng được khi trông thấy đỉnh ngọn cờ của quân địch [nhô lên khỏi đám bụi mù], chịu đựng được khi nghe thấy tiếng la hét [của quân địch], và xông vào trận chiến xáp lá cà. Thắng trận, đạt được vinh quang, người chiến binh vượt lên hàng đầu trong cuộc chiến. Này các tỳ-kheo, một số các chiến binh có thái độ như vậy. Đấy là thể loại chiến binh thứ năm mà người ta có thể nhận thấy trong thế giới.

«Này các tỳ kheo, đấy là năm thể loại chiến binh mà người ta có thể nhận thấy trong thế giới.
«Cũng vậy, này các tỳ-kheo, trong cùng một tăng đoàn, người ta cũng nhận thấy có năm thể loại tỳ-kheo tương tự như năm thể loại chiến binh [trong thế giới]. Vậy năm thể loại tỳ-kheo ấy là những người như thế nào?

1- «Đấy là trường hợp một người tỳ-kheo, tương tự như một chiến binh khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên] thì chùn chân, nao núng, thiếu cương quyết, không đủ can đảm tiếp tục cuộc sống thánh thiện. Người tỳ-kheo thú nhận sự yếu đuối của mình đối với việc tu tập, buông bỏ việc tu tập và quay lại với cuộc sống thấp kém. Vậy đối với người tỳ-kheo thì đám bụi mù ấy là gì ? Này các tỳ-kheo, đấy là trường hợp một người tỳ-kheo nghe nói: ‘Nơi tỉnh lỵ này hay nơi ngôi làng kia, có một phụ nữ hay một cô gái dáng dấp khả ái, quyến rũ, dễ thương, da dẻ mịn màng như một đóa hoa sen. Sau khi nghe nói như thế thì người tỳ-kheo thối chí, nao núng, không đủ can đảm tiếp tục cuộc sống thánh thiện. Người tỳ-kheo thú nhận sự yếu đuối của mình đối với việc tu tập, từ bỏ việc tu tập và quay lại với cuộc sống thấp kém. Đấy là đám bụi mù đối với người tỳ-kheo.

«Này các tỳ-kheo, đối với một người tỳ-kheo thì cũng vậy, cũng chẳng khác gì với một chiến binh khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên] thì chùn chân, nao núng, thiếu cương quyết, không đủ can đảm xông vào trận chiến (trận chiến đối với người tu hành là phải giữ vững ý nguyện của mình, cuộc sống thánh thiện của mình, và kẻ thù trong trận chiến là sự thèm khát dục tính của mình, là sự thúc đẩy của bản năng truyền giống nơi con người của mình). Này các tỳ-kheo, có một số người có thái độ như vậy. Đấy là trường hợp của một số người tương tự như các chiến binh thuộc thể loại thứ nhất, mà người ta có thể nhận thấy trong số những người tỳ-kheo.

2- «Này các tỳ kheo, hoặc đấy là trường hợp một người tỳ-kheo, tương tự như một chiến binh chịu đựng được khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên], thế nhưng khi trông thấy đỉnh ngọn cờ của quân địch [nhô lên khỏi đám bụi mù] thì chùn chân, nao núng, thiếu cương quyết, không đủ can đảm tiếp tục cuộc sống thánh thiện. Người tỳ-kheo thú nhận sự yếu đuối của mình đối với việc tu tập, buông bỏ việc tu tập và quay lại với cuộc sống thấm kém. Vậy ngọn cờ ấy là gì ? Này các tỳ-kheo, đấy là trường hợp một người tỳ-kheo nghe nói: ‘Nơi tỉnh lỵ này hay nơi ngôi làng kia, có một phụ nữ hay một cô gái dáng dấp khả ái, quyến rũ, dễ thương, da dẻ mịn màng như một đóa hoa sen’. Sau khi trông thấy người phụ nữ ấy hay cô gái ấy thì người tỳ-kheo thối chí, nao núng, không đủ can đảm, không tiếp tục được cuộc sống thánh thiện. Đấy là ngọn cờ [nhô lên khỏi đám bụi mù] đối với người tỳ kheo.

«Này các tỳ-kheo, đối với một người tỳ-kheo thì cũng vậy, cũng chẳng khác gì với một chiến binh chịu đựng được khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên], thế nhưng khi trông thấy đỉnh ngọn cờ của quân địch [nhô lên khỏi đám bụi mù] thì chùn chân, nao núng, thiếu cương quyết, không đủ can đảm xông vào trận chiến (trong trường hợp đối với người tỳ-kheo thì trận chiến là con đường tu tập và quần áo phất phơ của người phụ nữ là đỉnh ngọn cờ nhô lên từ đám bụi mù trong trận chiến đó). Này các tỳ-kheo, có một số người có thái độ như vậy. Đấy là trường hợp của một số người tương tự như các chiến binh thuộc thể loại thứ hai, mà người ta có thể nhận thấy trong số những người tỳ-kheo.

3- «Này các tỳ-kheo, hoặc đấy là trường hợp người một tỳ kheo, tương tự như một chiến binh chịu đựng được khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên], chịu đựng được khi trông thấy đỉnh ngọn cờ của quân địch [nhô lên khỏi đám bụi mù], thế nhưng khi nghe thấy tiếng la hét của quân địch thì chùn chân, nao núng, thiếu cương quyết, không đủ can đảm tiếp tục cuộc sống thánh thiện. Người tỳ kheo thú nhận sự yếu đuối của mình đối với việc tu tập, từ bỏ việc tu tập và quay lại với cuộc sống thấp kém. Vậy các tiếng la hét ấy đối với người tỳ-kheo là gì ? Đấy là trường hợp một người tỳ-kheo tìm một nơi hoang vắng, dưới gốc một cội cây, hay trong một túp lều bỏ hoang (người tu hành vào thời bấy giờ thường tìm một nơi hoang vắng để dựng một túp lều tạm trú, sau đó thì tìm một nơi khác, bỏ lại túp lều cho những người tu hành khác) thế nhưng lại có một người phụ nữ đến gần, khúc khích cười (giggle / cười e thẹn, vui vẻ và khe khẽ ), gọi mình, [sau đó thì] cười thật dòn và trêu chọc mình. Trước tiếng cười khúc khích, cách gọi mình, tiếng cười dòn và cách trêu chọc mình, người tỳ-kheo nhụt chí, nao núng, thiếu cương quyết, không còn đủ can đảm tiếp tục cuộc sống thánh thiện. Người tỳ-kheo thú nhận sự yếu đuối của mình đối với việc tu tập, từ bỏ việc tu tập và quay lại với cuộc sống thấp kém. Đấy là tiếng la hét [của quân địch khi xông vào trận chiến] đối với người tỳ-kheo.

«Này các tỳ-kheo, đối với một người tỳ-kheo thì cũng vậy, cũng chẳng khác gì với một người chiến binh, chịu đựng được khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên], chịu đựng được khi trông thấy đỉnh ngọn cờ của quân địch [nhô lên khỏi đám bụi mù], thế nhưng khi nghe thấy tiếng la hét của quân địch, thì chùn chân, nao núng, thiếu cương quyết, không đủ can đảm xông vào trận chiến (tiếng la hét của quân địch đối với người chiến binh cũng tương tự như tiếng cười khúc khích hay tiếng cười dòn của người phụ nữ đối với người tỳ-kheo). Này các tỳ-kheo, có một số người có thái độ như vậy. Đấy là trường hợp của một số người tương tự như các chiến binh thuộc thể loại thứ ba, mà người ta có thể nhận thấy trong số những người tỳ-kheo.

4- «Này các tỳ-kheo, hoặc đấy là trường hợp người tỳ-kheo, tương tự như một chiến binh chịu đựng được đám bụi mù [bốc lên], chịu đựng được đỉnh ngọn cờ của quân địch [nhô lên từ đám bụi mù], chịu đựng được tiếng la hét của quân địch, thế nhưng khi xông vào trận chiến xáp lá cà thì lại bị thương và bỏ cuộc. Vậy đối với người tỳ kheo thì trận chiến xáp lá cà ấy là gì ? Này các tỳ-kheo, đấy là trường hợp một người tỳ-kheo tìm một nơi hoang vắng, dưới gốc một cội cây, hay một túp lều bỏ hoang, thế nhưng lại có một người phụ nữ tiến đến gần, ngồi sát bên cạnh, nằm sóng soài bên cạnh và ôm choàng lấy người tỳ-kheo. Không nghĩ gì đến việc tu tập, cũng không thừa nhận sự yếu đuối của mình, người tỳ-kheo vi phạm vào việc giao cấu tính dục. Đối với người tỳ-kheo thì đấy là trận chiến xáp lá cà.

«Này các tỳ-kheo, đối với một người tỳ-kheo thì cũng vậy, cũng chẳng khác gì một người chiến binh chịu đựng được khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên], chịu đựng được khi trông thấy đỉnh ngọn cờ của quân địch [nhô lên khỏi đám bụi mù], chịu đựng được khi nghe thấy tiếng la hét [của quân địch], thế nhưng khi xông vào trận chiến xáp lá cà thì bị thương và bỏ cuộc. Này các tỳ kheo, có một số người có thái độ như vậy. Đấy là trường hợp của một số người tương tự như những người chiến binh thuộc thể loại thứ tư, mà người ta có thể nhận thấy trong số những người tỳ-kheo.

5- «Này các tỳ-kheo, hoặc đấy là trường hợp một người tỳ-kheo tương tự như một chiến binh, chịu đựng được khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên], chịu đựng được khi trông thấy đỉnh ngọn cờ của quân địch [nhô lên khỏi đám bụi mù], chịu đựng được khi nghe thấy tiếng la hét của quân địch, chịu đựng được trận chiến xáp lá cà, đạt được chiến thắng, tạo được vinh quang, vượt lên hàng đầu trong trận chiến. Vậy sự vinh quang trong trận chiến ấy là gì ? Đấy là trường hợp một người tỳ-kheo tìm một nơi hoang vắng, dưới gốc một cội cây, hay trong một túp lều bỏ hoang, thế nhưng lại có một người phụ nữ tìm đến, ngồi sát bên cạnh, nằm sóng soài bên cạnh, ôm ghì lấy người tỳ-kheo. Khi người phụ nữ ngồi bên cạnh mình, nằm sóng soài bên cạnh mình, ôm ghì lấy mình, thì người tỳ-kheo gỡ người phụ nữ ra, thoát khỏi tay người phụ nữ và đi tìm một nơi khác, tùy theo ý mình. Người tỳ-kheo có thể tìm được một nơi hoang vắng: một khu rừng, một gốc cây, một ngọn đồi, một hang động, một nghĩa địa, một bụi rậm trong một khu rừng thưa, dưới bầu trời quang đãng hay bên cạnh một đống rơm.

Khi đi vào khu rừng, tìm được một gốc cây hoặc một túp lều bỏ hoang, thì người tỳ-kheo ngồi xuống, hai chân tréo vào nhau, giữ thân người thật thẳng và chủ yếu hơn cả là phải giữ tâm thức tỉnh táo.

1) Buông bỏ mọi sự thèm khát đối với thế giới, người tỳ-kheo an trú trong một tâm thức không thèm khát, loại khỏi tâm thức mọi sự thèm khát;

2) Buông bỏ mọi ác tâm và hận thù, người tỳ-kheo an trú trong một tâm thức không hận thù, làm ngập tràn tâm thức mình với các ước vọng mong sao tất cả chúng sinh đều được hạnh phúc, người tỳ-kheo loại khỏi tâm thức mình mọi ác tâm;

3) Buông bỏ sự uể oải và đờ đẫn (buồn ngủ), người tỳ-kheo thoát khỏi sự uể oải và đờ đẫn. Cảm nhận được ánh sáng, mang lại sự tỉnh giác, tạo được sự nhận định thật chăm chú. Nhờ vào sự nhận định thật chăm chú người tỳ-kheo loại bỏ được sự uể oải và đờ đẫn;

4) Buông bỏ sự xao động tâm thần và các mối quan tâm, người tỳ-kheo giữ được sự trầm tĩnh. Với một nội tâm đã được lắng xuống, người tỳ-kheo loại khỏi tâm thức mọi sự hoang mang (nghi ngờ). Vượt thoát mọi sự hoang mang, không phạm vào một sự nhầm lẫn nào đối với các thể dạng tâm thần thuận lợi, người tỳ-kheo loại ra khỏi tâm thức mình mọi sự hoang mang.

«Buông bỏ được năm thứ chướng ngại trên đây (kinh sách Hán ngữ gọi năm thứ chướng ngại là ‘ngũ triền cái’), [tức là] các thứ ô nhiễm tâm thần làm suy yếu khả năng nhận thức, người tỳ-kheo tách ra khỏi các sự thích thú dục tính, tách ra khỏi các thể dạng tâm thần bất thuận lợi, hòa nhập và an trú trong jhāna (thiền-na) thứ nhất: mang lại cho mình sự hứng khởi (rapture / phấn chấn) và thích thú, phát sinh từ sự buông bỏ, kèm với các tư duy được hướng dẫn (directed thought / sự suy nghĩ hướng vào các đối tượng rõ rệt) cùng với các sự thẩm định (evaluation / các sự đánh giá, hình dung. Nói chung, trong jhāna thứ nhất, người tỳ-kheo bắt đầu cảm nhận được sự phấn chấn và vui thích, thế nhưng vẫn còn suy nghĩ miên man, và đánh giá mọi thứ).

2) Với sự lắng xuống của các tư duy và các sự thẩm định, người tỳ-kheo hòa nhập và an trú trong jhāna thứ hai: mang lại cho mình sự tĩnh lặng trong nội tâm, cùng với sự hợp nhất của tâm thức, loại bỏ được các tư duy và các sự thẩm định, mang lại sự hứng khởi và thích thú phát sinh từ sự tập trung tâm thức.

3) Với sự lắng xuống (fading / tan biến) của sự hứng khởi, người tỳ-kheo tạo được sự thanh thản (equanimity / sự thăng bằng, sự bình lặng trong nội tâm), một tâm thức tròn đầy (mindfulness / chánh niệm) và sự tỉnh giác (alert / sự cảnh giác, sự tỉnh táo) [tuy nhiên] vẫn còn cảm nhận được sự thích thú trên thân thể. Người tỳ-kheo hòa nhập và an trú trong jhāna thứ ba, và đối với các vị cao quý (các vị sáng suốt, các người tu hành kinh nghiệm và thành đạt) thì họ cho rằng ‘người tỳ-kheo ấy, với sự thanh thản và một tâm thức tròn đầy (chánh niệm) đã đạt được một sự thích thú vững vàng’.

4) Với sự buông bỏ mọi sự thích thú và cả đớn đau – nhờ vào sự tan biến của các sự hứng khởi (elation / sự phấn chấn) phát sinh trước đó – người tỳ kheo hòa nhập và an trú trong jhāna thứ tư: mang lại cho mình thể dạng tinh khiết (purity / sự trong sáng) phát sinh từ sự thanh thản (equanimity / sự thăng bằng và tĩnh lặng) cùng với một tâm thức tròn đầy (mindfulness / chánh niệm), không thích thú cũng không đớn đau.

«Với một tâm thức tập trung, tinh khiết, rạng ngời, không vấy bẩn, không ô nhiễm, dễ uốn nắn, mềm dẻo, thăng bằng, không xao xuyến (imperturbability / điềm tĩnh), người tỳ-kheo tập trung và hướng sự hiểu biết của mình vào cách làm chấm dứt mọi thứ ô nhiễm tâm thần. Người tỳ-kheo nhận biết được đúng những gì đang xảy ra: ‘Đây là khổ đau’. Người tỳ-kheo nhận biết đúng được những gì đang xảy ra:’ Đây là nguyên nhân mang lại khổ đau’. Người tỳ-kheo nhận biết được đúng những gì đang xảy ra: ‘Đây là sự chấm dứt của khổ đau’. Người tỳ-kheo nhận biết […]: ‘Đây là con đường mang lại sự chấm dứt của khổ đau’. Người tỳ-kheo nhận biết[…]: ‘Đây là sự xuất hiện của các thứ ô nhiễm tâm thần’. Người tỳ-kheo nhận biết được […] ‘Đây là sự chấm dứt của các thứ ô nhiễm tâm thần’. Người tỳ-kheo nhận biết được […]: ‘Đây là con đường mang lại sự chấm dứt của các thứ ô nhiễm tâm thần’. Khi đã trông thấy được đúng như thế, hiểu được đúng như thế, thì tâm thức của người tỳ kheo sẽ loại bỏ được các sự ô nhiễm tâm thần liên quan đến dục tính, tâm thức của người tỳ-kheo sẽ loại bỏ được các sự ô nhiễm tâm thần liên quan đến sự hiện hữu, tâm thức của người tỳ-kheo sẽ loại bỏ được các sự ô nhiễm tâm thần liên quan đến sự u mê (vô minh). Nhờ vào sự giải thoát, sự hiểu biết sẽ hiển hiện: ‘Tôi đã được giải thoát’. Người tỳ-kheo hiểu được: ‘Sự sinh đã chấm dứt, cuộc sống thánh thiện đã thực hiện được, những gì cần phải làm đã hoàn tất, không còn một sự hiện hữu nào khác [liên quan với mình] trong thế giới này. Đấy là sự chiến thắng trong cuộc chiến.

« Này các tỳ kheo, cũng tương tự như một người chiến binh không hề nao núng khi trông thấy đám bụi mù [bốc lên], không hề nao núng khi trông thấy ngọn cờ của quân địch [nhô lên khỏi đám bụi mù], không khiếp sợ khi nghe thấy tiếng la hét của quân địch, xông vào trận chiến, đánh xáp lá cà, mang lại chiến thắng, tạo được vinh quang, vượt lên hàng đầu trong trận chiến. Này các tỳ-kheo, có một số người có thái độ như vậy. Đấy là những người tương tự như những người chiến binh thuộc thể loại thứ năm, mà người ta có thể tìm thấy trong số những người tỳ kheo».

Tiếp theo dưới đây là bài giảng thứ hai về vấn đế dục tính đối với người tỳ-kheo. Bài giảng này mang cùng một cấu trúc với bài giảng trên đây:

Bài giảng thứ hai về thái độ của một chiến binh

Dutiyayodhājīva Sutta - AN 5.76

Chữ dutiya có nghĩa là ‘thứ hai’. Bài giảng này như sau:

«Này các tỳ-kheo, có năm thể loại chiến binh trong thế giới. Vậy họ là những ai?

«Đấy là trường hợp của một chiến binh – cầm kiếm, mang khiên, đeo cung tên – xông vào trận chiến. Giữa trận chiến, người chiến binh vùng vẫy và phấn đấu, thế nhưng trong lúc đang vùng vẫy và phấn đấu thì bị quân địch hạ thủ, kết liễu đời mình. Có một số chiến binh trong trường hợp như thế. Đấy là thể loại chiến binh thứ nhất mà người ta có thể nhận thấy trong thế giới.
«Sau đó là trường hợp của một chiến binh – cầm kiếm, mang khiên, đeo cung tên – xông vào trận chiến. Giữa trận chiến, người chiến binh vùng vẫy và phấn đấu, thế nhưng trong lúc đang vùng vẫy và phấn đấu thì bị quân địch gây thương tích. Người chiến binh được mang về giao cho những người thân thuộc trong gia đình [chăm sóc], thế nhưng trước khi gặp được các người thân thuộc thì người chiến binh qua đời. Có một số chiến binh trong trường hợp như thế. Đấy là thể loại chiến binh thứ hai mà người ta có thể nhận thấy trong thế giới.

«Sau đó là trường hợp của một chiến binh – cầm kiếm, mang khiên, đeo cung tên – xông vào trận chiến. Giữa trận chiến, người chiến binh vùng vẫy và phấn đấu, thế nhưng trong lúc đang vùng vẫy và phấn đấu thì bị quân địch gây thương tích. Người chiến binh được mang về giao cho những người thân thuộc trong gia đình [chăm sóc], thế nhưng sau đó thì qua đời. Có một số chiến binh trong trường hợp như thế. Đấy là thể loại chiến binh thứ ba mà người ta có thể nhận thấy trong thế giới.

«Sau đó là trường hợp của một chiến binh – cầm kiếm, mang khiên, đeo cung tên – xông vào trận chiến. Giữa trận chiến, người chiến binh vùng vẫy và phấn đấu, thế nhưng trong lúc đang vùng vẫy và phấn đấu thì bị quân địch gây thương tích. Người chiến binh được mang về giao cho những người thân thuộc trong gia đình [chăm sóc], sau đó thì bình phục. Có một số chiến binh trong trường hợp như thế. Đấy là thể loại chiến binh thứ tư mà người ta có thể nhận thấy trong thế giới.

«Sau đó là trường hợp của một chiến binh – cầm kiếm, mang khiên, đeo cung tên – xông vào trận chiến. Đạt được chiến thắng, người chiến binh vượt lên hàng đầu trong trận chiến. Có một số chiến binh trong trường hợp như thế. Đấy là thể loại chiến binh thứ năm mà người ta có thể nhận thấy trong thế giới.

«Đấy là năm thể loại chiến binh mà người ta có thể nhận thấy trong thế giới. Cũng vậy, này các tỳ-kheo, trong số những người tỳ-kheo người ta cũng nhận thấy có năm thể loại tương tự như năm thể loại chiến binh. Vậy họ là những ai?

1- «Đấy là trường hợp một người tỳ-kheo sống nhờ vả vào một ngôi làng hay một thành phố. Sáng sớm mặc áo trong, khoác thêm áo ngoài, ôm bình bát, đi vào làng hay vào thành phố để khất thực – [thế nhưng] thân xác, ngôn từ và tâm thức bất cẩn (unprotected / thiếu kỷ cương, không được giữ gìn cẩn thận), không tạo được một tâm thức vẹn toàn (unestablished mindfulness / không tạo được một tâm thức tròn đầy và trong sáng / chánh niệm), không chủ động được các giác quan của mình. Người tỳ-kheo trông thấy một phụ nữ ăn mặc hở hang hoặc nửa thân người để trần (half-naked / nửa thân người để hở). Trước cảnh tượng một người phụ nữ ăn mặc hở hang hoặc nửa thân người để trần, thì [ý nghĩ] dâm đãng (lust / dâm dục) tàn phá tâm thức người tỳ-kheo. Người tỳ-kheo vi phạm vào việc giao cấu tính dục, thế nhưng không [nghĩ rằng là mình phải] từ bỏ việc tu tập, cũng không thú nhận sự yếu đuối của mình. Đấy là những người tương tự như những người chiến binh thuộc thể loại thứ nhất, mà người ta có thể nhận thấy trong số những người tỳ-kheo..

2 - «Sau đó là trường hợp một người tỳ-kheo sống nhờ vả vào một ngôi làng hay một thành phố. Sáng sớm mặc áo trong, khoác thêm áo ngoài, ôm bình bát, đi vào làng hay vào thành phố để khất thực – [thế nhưng] thân xác, ngôn từ và tâm thức bất cẩn (unprotected / thiếu cảnh giác, không được giữ gìn cẩn thận), không tạo được một tâm thức vẹn toàn (unestablished mindfulness / không tạo được một tâm thức tròn đầy và trong sáng), không kiểm soát được các giác quan của mình. Người tỳ-kheo trông thấy một phụ nữ ăn mặc hở hang hoặc nửa thân người để trần. Trước cảnh tượng một người phụ nữ ăn mặc hở hang hoặc nửa thân người để trần, thì [ý nghĩ] dâm đãng (lust / dâm dục) tàn phá tâm thức người tỳ-kheo. Tâm thức bị tàn phá bởi [các ý nghĩ] dâm dục, người tỳ-kheo đốt cháy thân xác và cả tâm thức mình. Ý nghĩ sau đây hiện lên với người tỳ-kheo: ‘Tôi nên quay về tịnh xá và nói với các tỳ-kheo khác: ‘Tôi bị tấn công bởi dục tính, ngã gục vì dục tính. Tôi không còn tiếp tục cuộc sống thánh thiện được nữa’. Người tỳ-kheo bèn quay về tịnh xá, thế nhưng trước khi về đến tịnh xá và còn đang trên đường, thì người tỳ-kheo [tự mình] thú nhận về sự yếu đuối của mình trong việc tu tập, [quyết định] từ bỏ việc tu tập và quay lại với cuộc sống thấp kém. Ta bảo với các các tỳ-kheo rằng con người ấy (người tỳ-kheo ấy) cũng chẳng khác gì với người chiến binh – cầm kiếm, mang khiên, đeo cung tên – xông vào một trận chiến thật hung hãn. Người chiến binh vùng vẫy và phấn đấu. Thế nhưng trong khi vùng vẫy và phấn đấu thì bị quân địch gây thương tích. Người chiến binh được mang về giao cho những người thân thuộc trong gia đình [chăm sóc], thế nhưng trước khi đến nơi và còn đang trên đường, thì người chiến binh qua đời. Có một số người trong trường hợp như thế. Đấy là những người giống như những người chiến binh thuộc thể loại thứ hai, mà người ta có thể nhận thấy trong số những người tỳ-kheo .

3- «Sau đó là trường hợp một người tỳ-kheo sống nhờ vả vào một ngôi làng hay một thành phố. Sáng sớm mặc áo trong, khoác thêm áo ngoài, ôm bình bát, đi vào làng hay vào thành phố để khất thực – [thế nhưng] thân xác, ngôn từ và tâm thức bất cẩn (unprotected / thiếu cảnh giác), không tạo được một tâm thức vẹn toàn (mindfulness / chánh niệm) không kiểm soát được các giác quan của mình. Người tỳ-kheo trông thấy một phụ nữ ăn mặc hở hang hoặc nửa thân người để trần. Trước cảnh tượng một người phụ nữ ăn mặc hở hang hoặc nửa thân người để trần, thì [ý nghĩ] dâm đãng tàn phá tâm thức người tỳ-kheo. Tâm thức bị tàn phá bởi [các ý nghĩ] dâm đãng, người tỳ-kheo đốt cháy thân xác và cả tâm thức mình. Ý nghĩ sau đây hiện lên với người tỳ-kheo: ‘Tôi nên quay về tịnh xá và nói với các tỳ-kheo khác: ‘ Tôi bị tấn công bởi dục tính, ngã gục vì dục tính. Tôi không còn tiếp tục cuộc sống thánh thiện được nữa’. Khi về đến tịnh xá thì người tỳ-kheo ấy nói với các tỳ-kheo khác [trong tăng đoàn]: ‘Này các bạn, tôi bị sự dâm đãng tàn phá, bị sự dâm đãng đánh gục. Tôi không còn tiếp tục cuộc sống thánh thiện được nữa. Tôi thú nhận sự yếu đuối của tôi đối với việc tu tập, tôi từ bỏ việc tu tập, tôi sẽ quay lại với cuộc sống thấp kém’.

«Các bạn đồng hành với người tỳ kheo trong cuộc sống thánh thiện bèn khuyên nhủ và thuyết giảng cho người tỳ kheo như sau: ‘Này bạn, Đấng Thế Tôn bảo rằng các thú vui dục tính mang lại rất ít thỏa mãn, nhưng thật nhiều khổ đau, thật nhiều tuyệt vọng, cùng các thứ bất lợi to lớn nhất. Đấng Thế Tôn so sánh các sự thích thú dục tính với chuỗi nối kết gồm các khúc xương (các khúc xương nối kết với nhau tạo thành một bộ xương người, và trong trường hợp này là ‘bộ xương’ của người phụ nữ ăn mặc hở hang), mang lại thật nhiều khổ đau, thật nhiều tuyệt vọng, cùng các thứ bất lợi to lớn nhất. Đấng Thế Tôn so sánh các thú vui dục tính với một đống thịt…, với một bó đuốc bện bằng cỏ khô…, với một hố than hồng…, với quả của một cội cây (phải trèo lên cao để hái)…, với một lò sát sinh…, với các chiếc lao và các thanh kiếm…, với nọc của các loài rắn độc…, mang lại thật nhiều khổ đau, thật nhiều tuyệt vọng và những điều bất lợi to lớn nhất. Này bạn, hãy tìm sự thích thú trong cuộc sống thánh thiện. Không nên thú nhận sự yếu đuối của bạn đối với việc tu tập, không nên từ bỏ việc tu tập, không nên quay lại với cuộc sống thấp kém’.

«Dù được các bạn đồng hành trong cuộc sống thánh thiện khuyên nhủ và thuyết giảng như thế, nhưng người tỳ-kheo vẫn [khăng khăng] nói lên: ‘Dù Đấng Thế Tôn bảo rằng các thú vui dục tính mang lại rất ít thỏa mãn, nhưng thật nhiều khổ đau, thật nhiều tuyệt vọng, cùng các thứ bất lợi to lớn nhất, thế nhưng tôi không còn tiếp tục cuộc sống thánh thiện được nữa. Tôi thú nhận về sự yếu đuối của tôi đối với việc tu tập, tôi xin từ bỏ việc tu tập, tôi sẽ trở lại với cuộc sống thấp kém’. Ta nói với các tỳ-kheo là con người ấy nào có khác gì với một người chiến binh – cầm kiếm, mang khiên, đeo cung tên – xông vào giữa trận chiến. Trong trận chiến, người chiến binh vùng vẩy và ra sức. Thế nhưng trong khi vùng vẩy và ra sức, thì người chiến binh bị quân địch gây thương tích. Người chiến binh được đưa về giao cho các người thân thuộc trong gia đình [chăm sóc], và dù được các người thân thuộc chăm sóc thế nhưng người chiến binh sau đó cũng đã qua đời vì các vết thương của mình. Có một số người trong trường hợp như thế. Đấy là những người tương tự như những người chiến binh thuộc thể loại thứ ba, mà người ta có thể nhận thấy trong số những người tỳ-kheo.

4 - «Sau đó là trường hợp một người tỳ-kheo sống nhờ vả vào một ngôi làng hay một thành phố. Sáng sớm mặc áo trong, khoác thêm áo ngoài, ôm bình bát, đi vào làng hay vào thành phố để khất thực, [thế nhưng] thân xác, ngôn từ và tâm thức bất cẩn (unprotected / thiếu cảnh giác), không tạo được một tâm thức vẹn toàn (mindfulness / chánh niệm) không kiểm soát được các giác quan của mình. Người tỳ-kheo trông thấy một phụ nữ ăn mặc hở hang hoặc nửa thân người để trần. Trước cảnh tượng một người phụ nữ ăn mặc hở hang hoặc nửa thân người để trần, thì [ý nghĩ] dâm đãng tàn phá tâm thức người tỳ-kheo. Tâm thức bị tàn phá bởi [các ý nghĩ] dâm đãng, người tỳ-kheo đốt cháy thân xác và cả tâm thức mình. Ý nghĩ sau đây hiện lên với người tỳ-kheo: ‘Tôi nên quay về tịnh xá và nói với các tỳ-kheo khác: ‘ Tôi bị tấn công bởi dục tính, ngã gục vì dục tính. Tôi không còn tiếp tục cuộc sống thánh thiện được nữa’. Khi về đến tịnh xá thì người tỳ-kheo ấy nói với các tỳ-kheo khác: ‘Thưa các bạn, tôi bị sự dâm đãng tàn phá, bị sự dâm đãng đánh gục. Tôi không còn tiếp tục cuộc sống thánh thiện được nữa. Tôi xin thú nhận sự yếu đuối của tôi đối với việc tu tập, tôi từ bỏ việc tu tập. Tôi sẽ quay lại với cuộc sống thấp kém’.

«Các bạn đồng hành với người tỳ kheo trong cuộc sống thánh thiện bèn khuyên nhủ và thuyết giảng cho người tỳ kheo như sau: ‘Này bạn, Đấng Thế Tôn bảo rằng các thú vui dục tính mang lại rất ít thỏa mãn, nhưng thật nhiều khổ đau, thật nhiều tuyệt vọng, cùng các thứ bất lợi to lớn nhất. Đấng Thế Tôn so sánh các sự thích thú dục tính với chuỗi nối kết gồm các khúc xương nối lại với nhau, mang lại thật nhiều khổ đau, thật nhiều tuyệt vọng, cùng các thứ bất lợi to lớn nhất. Đấng Thế Tôn so sánh các thú vui dục tính với một đống thịt…, với một bó đuốc bện bằng cỏ khô…, vói một hố than hồng…, với quả trên một cành cây (phải trèo lên cây để hái)…, với một lò sát sinh…, với các chiếc lao và các thanh kiếm…, với nọc độc của các loài rắn…, [là các thứ] mang lại thật nhiều khổ đau, thật nhiều tuyệt vọng và các điều bất lợi to lớn nhất. Này bạn, hãy tìm sự thích thú trong cuộc sống thánh thiện. Không nên thú nhận sự yếu đuối của bạn đối với việc tu tập, không nên từ bỏ việc tu tập, không nên quay lại với cuộc sống thấp kém’

«Dù được các bạn đồng hành trong cuộc sống thánh thiện khuyên nhủ và thuyết giảng như thế, thế nhưng người tỳ-kheo vẫn cứ [khăng khăng] đáp lại: ‘Dù Đấng Thế Tôn bảo rằng các thú vui dục tính mang lại rất ít thỏa mãn, nhưng thật nhiều khổ đau, thật nhiều tuyệt vọng, cùng các thứ bất lợi to lớn nhất, thế nhưng tôi không còn tiếp tục cuộc sống thánh thiện được nữa. Tôi thú nhận sự yếu đuối của tôi đối với việc tu tập, tôi xin từ bỏ việc tu tập, tôi sẽ trở lại với cuộc sống thấp kém’. Ta nói với các tỳ-kheo là cá nhân ấy (con người ấy, người tỳ-kheo ấy) nào có khác gì với một người chiến binh – mang kiếm, cầm khiên, đeo cung tên – xông vào giữa một trận chiến. Trong trận chiến, con người ấy (người chiến binh ấy) vẩy vùng và ra sức. Thế nhưng trong khi vẩy vùng và ra sức, thì người chiến binh bị quân địch gây thương tích. Người chiến binh ấy được đưa về cho những người thân thuôc trong gia đình chăm sóc và chữa chạy, [sau đó thì] các vết hương lành hẳn. Có một số người trong trường hợp như thế. Đấy là những người tương tự như những người chiến binh thuộc thể loại thứ tư, mà người ta có thể nhận thấy trong số những người tỳ-kheo.

5- «Sau đó là trường hợp một người tỳ-kheo sống nhờ vả vào một ngôi làng hay một thành phố. Sáng sớm mặc áo trong, khoác thêm áo ngoài, ôm bình bát, đi vào làng hay vào thành phố để khất thực – [thế nhưng] thân xác, ngôn từ và tâm thức được bảo vệ cẩn thận, tạo được một tâm thức tròn đầy (chánh niệm), kiểm soát được các giác quan của mình (không để cho lục giác tạo ra các sự đòi hỏi). Khi trông thấy một hình tướng bằng mắt thì người tỳ kheo không bám víu vào bất cứ một chủ đề nào cả (không hình dung, diễn đạt những gì mà mình trông thấy qua khả năng thị giác của mình) – [điều đó có nghĩa là] nếu người tỳ-kheo dừng lại [với hình tướng mà mình trông thấy], không chủ động được khả năng thị giác [của mình] – thì các đặc tính xấu xa và tồi tệ, chẳng hạn như sự thèm khát và khổ đau, sẽ có thể tấn công mình. Người tỳ-kheo luyện tập sự kiềm chế. Người tỳ kheo canh chừng chức năng thị giác của mình. Người tỳ-kheo thành công trong việc kiềm chế chức năng thị giác của mình.

«Khi nghe thấy một âm thanh bằng tai […] (lặp lại như câu trên đây, nhưng đã được cắt bớt để tránh sự dài dòng)

«Khi ngửi thấy một mùi bằng mũi […]

«Khi nếm thấy một vị bằng lưỡi […]

«Khi nhận biết một sự đụng chạm trên thân thể […]

«Khi nhận biết một ý nghĩ bằng khả năng tri thức (intellect / khả năng hiểu biết, chức năng nhận biết), thì người tỳ-kheo không bám víu vào bất cứ một chủ đề nào cả (không diễn đạt bất cứ gì liên quan đến ý nghĩ ấy) – nếu người tỳ-kheo dừng lại [với ý nghĩ ấy của mình], không chủ động được khả năng tri thức của mình – thì các sự xấu xa và tồi tệ, chẳng hạn như sự thèm khát và khổ đau, sẽ có thể tấn công mình. Người tỳ-kheo luyện tập sự kiềm chế. Người tỳ-kheo canh chừng chức năng tri thức của mình. Người tỳ-kheo thành công trong việc kiềm chế chức năng tri thức của mình.

«Sau khi khất thực và ăn xong thì người tỳ-kheo tìm một nơi thanh vắng: một khung cảnh hoang vu, dưới chân một gốc cây, một triền núi, một thung lũng, một hang động bên sườn đồi, một nghĩa địa, một nơi quang đãng, hay bên cạnh một đống rơm. Sau khi tìm được một nơi thanh vắng như thế thì người tỳ kheo ngồi xuống dưới một gốc cây hay trong một túp lều bỏ hoang, hai chân tréo vào nhau, giữ lưng thật thẳng, và [sau đó] chủ yếu hơn hết là phát huy một tâm thức tròn đầy (mindfulness / chánh niệm / thể dạng tâm thức vững vàng, tinh khiết, nguyên vẹn, không xao động).

«Buông bỏ mọi sự thèm khát (covetousness / bám víu, ham muốn, tham lam) đối với thế giới này, người tỳ-kheo an trú trong môt tâm thức không thèm khát. Người tỳ kheo loại bỏ khỏi tâm thức mọi sự thèm khát. Buông bỏ mọi ác tâm và giận dữ, người tỳ kheo an trú trong một tâm thức không ác tâm, đầy lòng thương cảm ước mong mang lại mọi điều an vui cho tất cả chúng sinh. Người tỳ-kheo loại bỏ khỏi tâm thức mọi ác tâm và giận dữ. Buông bỏ sự lười biếng và đờ đẫn (drowsiness / uể oải), người tỳ kheo an trú trong một tâm thức không lười biếng, không đờ đẫn, chú tâm, tỉnh táo, trong sáng. Người tỳ-kheo loại bỏ khỏi tâm thức mọi sự lười biếng và đờ đẫn. Buông bỏ mọi sự bồn chồn (restlesness / bất an) và lo lắng (anxiety / lo âu), người tỳ kheo an trú trong một tâm thức bình lặng, lắng sâu. Người tỳ-kheo buông bỏ mọi sự bồn chồn và lo lắng. Buông bỏ mọi sự hoang mang (uncertainty / bất định, mơ hồ), vượt thoát mọi sự hoang mang, người tỳ-kheo an trú trong các phẩm tính thuận lợi, không một mảy may hoang mang.

«Buông bỏ được năm thứ chướng ngại (ngũ triền cái) trên đây, tức là các thể dạng tệ hại trong tâm thần làm suy yếu sự nhận định – và nhờ vào sự lánh xa dục tính, sự lánh xa các thể dạng bất thuận lợi – người tỳ-kheo hòa nhập và an trú trong jhāna thứ nhất, kèm với các ý nghĩ được hướng dẫn (directed thought / sự suy nghĩ hướng vào các đối tượng rõ rệt) cùng các sự thẩm định (evaluation / sự đánh giá, sự hình dung).

«Với một tâm thức tập trung, tinh khiết và trong sáng, không vấy bẩn, không khuyết điểm, mềm dẻo, dễ uốn nắn, vững vàng, không lay chuyển, người tỳ kheo hướng thẳng vào sự hiểu biết về sự tuôn trào (effluent / sự hình thành và tạo tác, phản ảnh nguyên lý tương liên tương kết và tương tạo). Người tỳ kheo nhận biết, đúng với sự hiển hiện là như thế: ‘Đây là khổ đau… Đây là nguồn gốc mang lại khổ đau… Đây là sự chấm dứt của khổ đau…Đây là con đường đưa đến sự chấm dứt của khổ đau… Đây là các sự tuôn trào (các hậu quả phát sinh từ sự níu kéo)… Đây là nguồn gốc của các sự tuôn trào… Đây là sự chấm dứt của các sự tuôn trào… Đây là con đường đưa đến sự chấm dứt của các sự tuôn trào’. Khi con tim của người tỳ-kheo nhận biết đúng như thế, trông thấy đúng như thế, thì sẽ thoát ra khỏi sự tuôn trào của dục tính, thoát ra khỏi sự tuôn trào của sự hình thành, thoát ra khỏi sự tuôn trào của u mê. Qua sự thoát khỏi đó sự hiểu biết sẽ hiện ra. Đấy là sự ‘Giải thoát’. Người tỳ-kheo nhận thấy: ‘Sự sinh đã chấm dứt, cuộc sống thánh thiện đã tròn đầy, công việc (task / nhiệm vụ, những gì cần phải làm) đã hoàn tất. Không còn bất cứ gì dính dáng với thế giới này nữa’.

«Này các tỳ-kheo, ta bảo với các tỳ-kheo rằng con người đó (người tỳ-kheo đã đạt được sự giải thoát đó) nào có khác gì một người chiến binh – mang kiếm, cầm khiên, đeo cung tên – xông vào giữa trận chiến, đạt được chiến thắng, tạo được vinh quang, vượt lên hàng đầu trong trận chiến. Có những con người trong trường hợp như thế (chiến thắng được bản năng dục tính của mình). Đấy là những người tương tự như những người chiến binh thuộc thể loại thứ năm, mà người ta có thể nhận thấy trong số những người tỳ kheo».

Vài lời ghi chú

Hai bài thuyết giảng trên đây nêu lên các hình ảnh ẩn dụ mang tính cách tương đồng thật mạnh:

- người tu hành đương đầu với sự cám dỗ của một người phụ nữ, người chiến binh đương đầu với sự sợ hãi khi trông thấy đám bụi mù bốc lên.

- người tu hành trông thấy một người phụ nữ ăn mặc hở hang, người chiến binh trông thấy đỉnh ngọn cờ của quân địch nhô lên khỏi đám bụi mù.

- người tu hành nghe thấy tiếng cười khúc khích của người phụ nữ, người chiến binh nghe thấy tiếng la hét của quân địch khi xông vào trận chiến.

Lục giác luôn tạo ra cho chúng ta một cuộc chiến mà chúng ta phải đương đầu. Chúng ta có thể ngã gục, mang thương tích, nhưng cũng có thể tạo được vinh quang, vượt lên hàng đầu trong cuộc chiến đó. Thế nhưng dù đạt được vinh quang và được xếp vào hàng đầu trong trận chiến, thì đấy cũng chỉ là những sự thích thú và vinh quang hời hợt và tạm thời, mang lại từ sự vinh quang trong một trận chiến xáp lá cà. Riêng những người tu tập, ngoài những sự thích thú và vinh quang đó, còn có thể đạt được những gì siêu việt hơn như thế rất nhiều.

Đức Phật cho biết, ngoài những sự thích thú và vinh quang trong thế giới này, người tu hành còn đạt được các sự thành đạt khác, sâu xa, bình lặng, vững chắc và trong sáng hơn nhiều, đó là bốn thể dạng lắng sâu trong thiền định. Các thể dạng lắng sâu trong tâm thức đó không những giúp người tu hành khắc phục và khống chế được sự cám dỗ và thu hút của dục tính – tương tự như người chiến binh không khiếp sợ trước đám bụi mù tạo được vinh quang trong trận chiến – mà còn giúp mình thoát ra khỏi nguyên lý tương liên chi phối sự vận hành của thế giới.

Trên phương diện giảng dạy, hai bài giảng AN 5.75 và AN 5.76 trên đây có thể xem là hai bài giảng trong số các bài giảng đẹp nhất trong kinh điển Pali. Hai bài giảng này không những nêu lên các hình ảnh ẩn dụ thật mạnh mà còn hướng người tu hành vào các thể dạng lắng sâu trong thiền định, vượt xa hơn, sâu sắc hơn và thanh thoát hơn so với sự vinh quang và các sự thích thú tính dục trong thế giới này. Hai bài giảng thật cân đối, phong phú và đầy đủ từ nội dung đến hình thức.

Điểm đáng lưu ý sau cùng là hai bài giảng nêu lên trường hợp của các người tỳ-kheo nam giới đối với sự quyến rũ dục tính, nhưng dường như trong kinh điển Pali không thấy nói đến trường hợp ngược lại, tức là thái độ và hành vi của những người phụ nữ xuất gia trước sự khuyến dụ và tấn công của nam giới. Phải chăng là vào thời đại của Đức Phật, không mấy người phụ nữ từ bỏ gia đình để bước vào cuộc sống khất thực không nhà. Chúng ta sẽ trở lại với chủ đề này trong một dịp khác, Dưới đây chúng ta tiếp tục trích dẫn một bài giảng khác về dục tính trong khung cảnh tương liên và tương tác giữa người đàn bà và người đàn ông.

Bài thuyết giảng về sự lệ thuộc

Saññoga Sutta - AN 7.48

Chữ saññoga, tựa của bài giảng, có nghĩa là ‘sự lệ thuộc’, nêu lên sự tương kết và ràng buộc giữa nam tính và nữ tính, phản ảnh một hình thức nô lệ nào đó giữa người đàn bà và người đàn ông. Sự nô lệ đó hiện lên với người tu hành khi phải đương đầu với sự tấn công của dục tính, và cũng hiện lên với người chiến binh khi phải đương đầu với đám bụi mù đang bốc lên. Sự đương đầu đó tạo ra một trận chiến thật gay go và hãi hùng cho cả hai, cho người tu hành cũng như người chiến binh. Thế nhưng thật hết sức bất ngờ, trận chiến đó lại hiện ra bên trong con người của họ, bên trong tâm thức của chính họ. Bài giảng này như sau:

«Này các tỳ-kheo, ta sẽ giảng cho các tỳ-kheo một bài giảng Dhamma (Đạo Pháp) liên quan đến sự lệ thuộckhông lệ thuộc [giữa một người đàn bà và một người đàn ông]. Vậy hãy lắng nghe ta sẽ giảng».

«Vâng, thưa Thế Tôn».

Thế Tôn thuyết giảng như sau: «Từ bên trong chính mình, người phụ nữ quan tâm đến các tính năng (faculties / bản năng, phẩm tính, các chức năng) nữ tính của mình, các cử chỉ của mình, kiểu cách của mình, dáng điệu (pose / điệu bộ) của mình, các sự thèm muốn của mình, âm giọng của mình, sự duyên dáng của mình. Người phụ nữ bị khích động bởi các thứ ấy, say mê các thứ ấy. Khi bị khích động bởi các thứ ấy, say mê các thứ ấy, thì người phụ nữ bám víu vào những gì thuộc bên ngoài con người của mình, ước ao đạt được các sự thích thú và vui sướng phát sinh từ sự lệ thuộc đó của mình (tức là sự lệ thuộc vào bản năng nữ tính của mình). Khi say mê và bị trói buộc bởi nữ tính, thì người phụ nữ trở thành kẻ nô lệ cho người đàn ông. Đấy là trường hợp cho thấy một người phụ nữ không vượt thoát được nữ tính của mình.

«Từ bên trong chính mình, người đàn ông quan tâm đến các tính năng nam giới của mình, các cử chỉ nam giới của mình, cung cách hành xử nam giới của mình, dáng dấp nam giới của mình, các sự thèm muốn nam giới của mình, âm giọng nam giới của mình, sự khả ái nam giới của mình. Người đàn ông bị khích động bởi các thứ ấy, say mê các thứ ấy. Khi bị khích động bởi các thứ ấy, say mê các thứ ấy, thì người đàn ông bám víu vào những gì bên ngoài chính mình, ước ao đạt được các sự thích thú và vui sướng phát sinh từ sự lệ thuộc đó của mình (sự lệ thuộc vào bản năng nam giới của mình). Khi say mê và bị trói buộc bởi nam giới, thì người đàn ông bám víu vào người đàn bà (để bổ khuyết và làm thỏa mãn bản năng nam giới của mình). Đấy là trường hợp cho thấy một người đàn ông không vượt thoát được nam giới (nam tính) của mình.

«Đấy là cách tạo ra sự lệ thuộc (sự ràng buộc, sự nô lệ) [giữa người đàn bà và người đàn ông](nữ tính cần đến nam tính từ bên ngoài nó để bổ khuyết và đáp ứng sự đòi hỏi từ bên trong chính nó, ngược lại nam tính cũng cần đến nữ tính từ bên ngoài nó để bổ khuyết và đáp ứng sự đòi hỏi từ bên trong chính nó. Sự liên hệ mang tính cách lưỡng cực đó phản ảnh thật rõ nét nguyên lý tương liên và tương tác. Ngày nay chúng ta gọi sự liên kết dục tính hai chiều đó là bản năng truyền giống, đưa đến sự hình thành của toàn thể nhân loại trên hành tinh này. Sự hiện hữu của nhân loại là kết quả phát sinh từ nguyên lý tương liên và tương tác là như vậy).

«Vậy sự không lệ thuộc là gì? [Đấy là trường hợp] một người phụ nữ, từ bên trong chính mình, không quan tâm đến các tính năng nữ tính của mình […], sự duyên dáng của mình (lặp lại như câu trên đây, nhưng đã được cắt bớt để tránh sự dài dòng). Người phụ nữ không bị kích thích bởi các thứ ấy, không say mê các thứ ấy […]. Từ bên trong chính mình, người phụ nữ không quan tâm đến các tính năng nam giới, […], các sự khả ái nam giới. Người phụ nữ không bị khích động bởi các thứ ấy, không say mê các thứ ấy […], không muốn bị lệ thuộc vào những gì bên ngoài chính mình, không ước mong các sự thích thú và vui sướng phát sinh từ sự lệ thuộc ấy của mình. Khi nào không còn say mê, không còn bị trói buộc bởi nữ tính, thì người phụ nữ sẽ không còn bị nô lệ bởi người đàn ông. Đấy là [trường hợp] một người phụ nữ vượt thoát được nữ tính của mình.

«Từ bên trong chính mình, một người đàn ông không quan tâm đến tính năng nam giới của mình […], sự khả ái của mình. Người đàn ông không bị kích thích bởi các thứ ấy, không say mê các thứ ấy […]. Người đàn ông không muốn bị trói buộc bởi những gì từ bên ngoài chính mình, cũng không ước mong đạt được các sự thích thú và vui sướng phát sinh từ sự lệ thuộc đó của mình. Khi nào thoát khỏi sự thích thú, không còn bị nô lệ bởi nam tính của mình, thì người đàn ông sẽ không còn bám víu vào người đàn bà. Đấy là [trường hợp] một người đàn ông vượt thoát được nam tính của mình.

«Đấy là [trường hợp] không có sự lệ thuộc [xảy ra]. Và đấy là bài giảng Dhamma (Đạo Pháp) về sự lệ thuộckhông lệ thuộc [giữa người đàn bà và người đàn ông] ».

Vài lời ghi chú

Bài giảng nêu lên một sự ứng dụng rút tỉa từ nguyên lý tương liên tương tác và tương tạo do điều kiện mà có, và trong trường hợp này thì nguyên lý đó tạo ra các tác động trong lãnh vực nữ tính và nam tính. Và thật ra thì cũng chỉ có vậy – khi cái này có thì cái kia có – mà toàn thể nhân loại đã được sinh ra trên hành tinh này, tạo ra các mối dây liên hệ vô cùng phức tạp từ trong gia đình, xã hội, chủng tộc, quốc gia. Sự liên hệ đó lại tiếp tục tương tác với các yếu tố vật lý trong môi trường bên ngoài, tạo ra một sự chuyển động thường xuyên của toàn thể địa cầu này trong không gian và xuyên qua cả thời gian. Qua một góc nhìn khác thì chúng ta cũng có thể bảo rằng sự chuyển động đó là công trình tạo tác của nguyên lý tương liên (Paṭiccasamuppāda), nhưng không hề là tác phẩm của một Đấng Thiêng liêng nào cả.

Người chiến binh trước khi xông vào đám bụi mù thì phải hóa giải sự sợ hãi bên trong chính mình. Người tu hành cũng vậy, nếu muốn làm dừng lại nguyên lý tương liên trong lãnh vực dục tính, thì trước hết phải hóa giải bản năng nam tính hay nữ tính từ bên trong con người của mình. Đối với những người bình dị như chúng ta thì chỉ cần suy nghĩ như thế này:

‘Cái này có, cái kia có’: Nữ tính có, sự trói buộc với nam tính có, quần áo, phấn son, giải phẩu thẩm mỹ, các thứ phụ tùng trên người… có, khổ đau có.

‘Cái này không có, cái kia không có’: Nữ tính không có, sự trói buộc với nam tính không có, quần áo, phấn son, giải phẩu thẩm mỹ, các thứ phụ tùng trên người… không có, khổ đau không có.

‘Cái này có, cái kia có’: Nam tính có, sự trói buộc với nữ tính có, quần áo, thể dục thẩm mỹ, sự kiêu hãnh, phong cách nam giới… có, khổ đau có.

‘Cái này không có, cái kia không có’: Nam tính không có, sự trói buộc với nữ tính không có, quần áo, thể dục thẩm mỹ, sự kiêu hãnh, phong cách nam giới… không có, khổ đau không có.

‘Cái này có, cái kia có: Sự trói buộc giữa nữ tính và nam tính có, đam mê có, tình yêu lứa đôi có, sinh con đẻ cái có, giận hờn có, ghét bỏ có, đánh nhau có, phụ bạc có, ly dị có, thất tình có, tự tử có…, khổ đau có.

‘Cái này không có, cái kia không có’: Sự trói buộc giữa nữ giới và nam giới không có, sự đam mê không có, […], khổ đau không có.

‘Cái này có, cái kia có’: Bản năng truyền giống có, sự tương liên tương tác và tương tạo (Paṭiccasamuppāda) giữa nữ tính và nam tính… có, khổ đau có.

‘Cái này không có, cái kia không có’: Bản năng truyền giống không có, sự tương liên tương tác và tương tạo giữa nam tính và nữ tính… không có, khổ đau không có.

Tóm lại sự hóa giải các tác động của nguyên lý tương liên chi phối người đàn ông và người đàn bà phải chăng là cách làm dừng lại khổ đau, ít nhất là trong lãnh vực dục tính? Thế nhưng điều đó quả khó thực hiện, bởi vì từ xưa đến nay, dù là đối với những người bình dị hay vua chúa ngày xưa hoặc các lãnh tụ chính trị ngày nay – tất nhiên là ngoại trừ một số người tu hành – thì việc chủ động bản năng dục tính dường như vẫn còn là cả một sự thách đố. Thương yêu, cưới hỏi, hạnh phúc lứa đôi, phản bội, ghen tuông, thất tình, tự tử, mãi dâm, ấu dâm, đồng tính luyến ái… vẫn còn là các động cơ thúc đẩy một phần lớn sự sinh hoạt xã hội, mang lại cho con người ‘rất ít thích thú nhưng thật nhiều khổ đau’. Thế nhưng, tiếc thay – tất nhiên là còn tùy vào quan điểm của mỗi người – sự hóa giải các tác động dục tính đó cũng có thể đưa đến một xã hội ‘tẻ nhạt’ hơn chăng?

Bures-Sur-Yvette, 30.10.25

Hoang Phong

    « Xem chương trước       « Sách này có 1530 chương »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Vô niệm (Pháp bảo Đàn kinh)


Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa


Bức Thành Biên Giới


Đừng đánh mất tình yêu

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.143 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...