“Đức Thế Tôn đủ đầy diệu tướng,
Con nay xin thưa hỏi đôi lần.
Có Bồ Tát tên Quán Thế Âm,
Nhân duyên gì xưng danh hiệu ấy?”
Đức Thế Tôn đủ đầy diệu tướng,
Kệ đáp rằng: “Ông hãy lắng nghe,
Bồ Tát Quán Thế Âm hạnh nguyện,
Cũng rộng sâu như biển như trời.
Khéo hóa hiện nơi nơi, chốn chốn,
Trải bao đời không thể suy lường,
Đã kề cận muôn ngàn đức Phật,
Phát khởi lời nguyện lớn sạch trong.
Ta nay sẽ vì ông lược nói,
Dù nghe tên hay được thấy người,
Niệm tưởng hoài không để luống qua,
Liền diệt đi khổ nạn muôn phần.
Hoặc có người khởi tâm hãm hại,
Đem bỏ vào hầm lửa đốt thiêu.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Hầm lửa kia liền hóa ao lành.
Hoặc trôi dạt giữa vùng biển cả,
Gặp quỷ thần, rồng, cá khốn nguy;
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Sóng dữ kia chẳng thể hại mình.
Hoặc từ trên đỉnh núi Tu-di,
Bị kẻ ác đẩy xô rơi xuống.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Như mặt trời vững giữa hư không.
Hoặc bị kẻ ác tâm rượt đuổi,
Trốn chạy rơi từ núi Kim cang.
[12]Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Dù mảy lông chẳng tổn hại gì.
Hoặc gặp phải những phường giặc cướp,
Cầm gậy dao chỉ chực hại người.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Giặc cướp kia liền khởi lòng lành.
Hoặc bị nạn vua quan hãm hại,
Chịu thọ hình sắp phải đầu rơi.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Đao kiếm liền tự hủy hoại ngay.
Hoặc chịu những oan khiên tù ngục,
Phải gông cùm xiềng xích tay chân.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Liền tự nhiên được tháo gông cùm.
Hoặc bị những tà ma chú thuật,
Thuốc độc dùng làm hại đến thân.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Tai ách kia trả lại cho người.
Hoặc gặp phải nạn tai la-sát,
Với quỷ thần, rồng độc hiểm nguy.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Hết thảy đều chẳng hại đến thân.
Hoặc bị hại bởi loài thú dữ,
Lấy vuốt nanh đe dọa khiếp hồn.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Thú dữ kia liền phải chạy xa.
Hoặc có những rắn độc, bò cạp,
Khí độc phun như lửa khói xông.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Theo âm thanh liền tự phản hồi.
Hoặc gặp lúc gió giông sấm dậy,
Mưa ngập trời nước lũ trào dâng.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Ngay tức thời mây tạnh trời quang.
Chúng sanh gặp biết bao khổ nạn,
Bao hiểm nguy rình rập quanh mình.
Đức Quán Âm sức thần diệu trí,
Thường cứu nguy bạt khổ thế gian.
Đầy đủ sức thần thông biến hóa,
Lại rộng tu phương tiện trí minh.
Gần xa khắp mười phương cõi nước,
Chẳng nơi nào ngài chẳng hiện thân.
Các đường dữ súc sanh, ngạ quỷ,
Hoặc là nơi địa ngục khốn cùng.
Chịu những khổ sanh, già, bệnh, chết,
Quán Âm liền cứu vớt dần cho.
Dùng Chân quán cùng Thanh tịnh quán,
Lại thêm Quảng đại Trí tuệ quán,
Vận dụng vào Bi quán, Từ quán,
Nên thường nguyện, lại thường chiêm ngưỡng.
Hào quang thanh tịnh không cấu nhiễm,
Như mặt trời phá sạch tối tăm.
Thường trừ được nạn tai gió lửa,
Chiếu soi cùng chốn chốn thế gian.
Thể lòng bi, rền như sấm động,
Diệu ý từ, mây lớn chở che.
Đổ mưa pháp cam lồ khắp cõi,
Dập tắt liền phiền não lửa kia.
Tranh giành nhau đến trước cửa quan,
Hoặc giữa chốn trận tiền run rẩy.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Kẻ oán cừu tất cả lùi xa.
Này Diệu âm, này Quán thế âm,
Cùng Phạm âm, cùng Hải triều âm.
Lại thêm Thắng bỉ thế gian âm,
Người thế gian hãy thường nhớ niệm.
Khi niệm tưởng chớ sanh nghi ngại,
Bậc thánh thanh tịnh Quán Thế Âm.
Giữa những chốn nguy nan, ách nạn,
Thường vì người cứu độ chở che.
Đã thành tựu đủ đầy công đức,
Mắt thương thường quán sát chúng sanh.
Phước tích tụ vô biên như biển,
Do vậy nên kính lễ chí thành.”
Bấy giờ, Bồ Tát Trì Địa
[13] từ chỗ ngồi đứng dậy thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào được nghe phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm này, nói về công hạnh tự tại với sức thần thông thị hiện khắp mọi nơi, nên biết rằng công đức của người ấy thật không nhỏ.”
Khi Phật thuyết phẩm Phổ môn này, trong chúng hội có tám mươi bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không gì so sánh được.
_____________________________________
CHÚ THÍCH:[1] Đại Chánh tạng cho biết phần kệ trùng tụng trong phẩm này do ngài Xà-na-quật-đa (闍那崛多) dịch vào đời Tùy. (隋北天竺沙門闍那崛多譯重頌 - Tùy, Bắc Thiên Trúc Sa-môn Xà-na-quật-đa dịch trùng tụng) (ĐCT, T9, 262, tr.198b, d.11)
[2] Bồ Tát Vô Tận Ý (H. 無盡意, S. Akṣayamati), cũng được dịch là Vô Tận Tuệ (無盡慧) hay Vô Lượng Ý (無量意).
[3] Nguyên bản là “偏袒右肩 - thiên đản hữu kiên” (vạch trần vai bên phải). Đây là nghi thức bày tỏ sự tôn kính theo lễ nghi Ấn Độ thuở xưa.
[4] Bồ Tát Quán Thế Âm (H. 觀世音菩薩, S. Avalokiteśvara), dịch âm là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la (阿縛盧枳低濕伐羅), cũng dịch nghĩa thành các tên khác như Quang Thế Âm (光世音), Quán Tự Tại (觀自在), Quán Thế Tự Tại (觀世自在), Quán Thế Âm Tự Tại (觀世音自在), Hiện Âm Thanh (現音聲), Khuy Âm (闚音), thường gặp cách gọi tắt là Bồ Tát Quán Âm (觀音菩薩).
[5] Nguyên bản là “黑風 - hắc phong” (gió đen), chỉ cơn bão lớn kèm theo mây đen, mưa lớn, khiến trời đất tối đen không còn ánh sáng.
[6] Thương chủ: người cầm đầu, dẫn đầu một đoàn thương nhân cùng đi buôn đường xa.
[7] Chi tiết này cho thấy tháp Phật Đa Bảo vẫn còn, chứng tỏ phẩm kinh này phải nằm trước phẩm Giao phó về sau (Chúc lụy).
[8] Nguyên bản nói “墮落金剛山 - đọa lạc Kim cang sơn” có nghĩa là rơi xuống từ núi Kim cang, không phải từ trên cao rơi xuống núi này.
[9] Khổ kệ này đề cập đến 5 pháp quán mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã thành tựu, tương đương với 3 pháp quán không, quán giả và quán trung, được giải thích theo giáo lý tông Thiên thai bao gồm: 1. Chân quán (真觀): tức là pháp quán không, quán xét lý chân đế để đoạn trừ kiến hoặc và tư hoặc. 2. Thanh tịnh quán (清淨觀): tức là pháp quán giả. Sau khi dứt trừ kiến hoặc và tư hoặc, thân được thanh tịnh, tiếp tục quán giả để đoạn trừ trần sa hoặc. 3. Quảng đại trí tuệ quán (廣大智慧觀): tức pháp quán trung, do đã dứt trừ vô minh hoặc mà đạt được trí tuệ rộng lớn. 4. Bi quán (悲觀): vận dụng 3 pháp quán trên để quán xét chúng sinh, cứu giúp thoát khỏi khổ não. 5. Từ quán (慈觀): vận dụng 3 pháp quán trên quán xét chúng sinh, để ban cho sự an vui.
[10] Nguyên bản là “悲體戒 - bi thể giới”, chỉ thể tánh đại bi không ngăn ngại phân biệt, được phát sinh từ việc nghiêm trì giới hạnh thanh tịnh.
[11] Khổ kệ này nói về ngũ âm (5 loại âm thanh) mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã thành tựu. 1. Diệu âm (妙音): là âm thanh nhiệm mầu, vi diệu. 2. Quán thế âm (觀世音): là âm thanh quán xét thế gian, dùng trí tuệ vi diệu để quán xét chúng sanh, tầm thanh cứu khổ. 3. Phạm âm (梵音): là âm thanh thanh tịnh. 4. Hải triều âm (海潮音): là âm thanh thích hợp với thời điểm, ví như ngọn thủy triều lên xuống tùy thời điểm không bao giờ sai lệch; Bồ Tát cũng thuyết pháp đúng thời thích hợp để hóa độ chúng sanh, không sai lệch. 5. Thắng bỉ thế gian âm (勝彼世間音): là âm thanh vượt trội hơn tất cả âm thanh của thế gian.
[12] Nguyên bản nói “墮落金剛山 - đọa lạc Kim cang sơn” có nghĩa là rơi xuống từ núi Kim cang, không phải từ trên cao rơi xuống núi này.
[13] Bồ Tát Trì Địa (H. 持地菩薩, S. Dharaṇīndhara).