Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Cuộc sống là một sự liên kết nhiệm mầu mà chúng ta không bao giờ có thể tìm được hạnh phúc thật sự khi chưa nhận ra mối liên kết ấy.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu học Phật pháp »» Nhất sanh bổ xứ »»

Tu học Phật pháp
»» Nhất sanh bổ xứ

Donate

(Lượt xem: 9.185)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Văn học Phật giáo - Nhất sanh bổ xứ

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

“Nhất Sanh Bổ Xứ” là địa vị Đẳng giác Bồ-tát, chỉ còn một đời nữa sẽ rốt ráo thành Phật. Do chư đại Bồ-tát vẫn còn một phần Sanh Tướng Vô Minh chưa phá được nên gọi là “Nhất Sanh.” Phẩm vô minh còn sót lại này rất là vi tế và có thế lực lớn nhất, nên Bồ-tát phải trụ trong Trí Huệ Chân Thật (Bát-nhã vô tri) thì mới có thể phá được vọng tâm duy nhất còn sót lại sau cùng này. Sau khi phá được một phần vô minh còn sót lại thì Bồ-tát sẽ đắc Nhất Thiết Chủng Trí và đạt đến địa vị Diệu giác nên gọi là “Bổ xứ.” Như hiện tại, Ngài Di Lặc Bồ-tát là Nhất Sanh Bổ Xứ, chỉ còn một đời nữa thì Ngài sẽ thành Phật với danh hiệu là Di Lặc Tôn Phật.

Nếu xét địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ theo Mật tông, Bồ-tát từ Sơ địa lần lượt tăng trưởng tịnh Bồ-đề tâm cho đến khi hoàn mãn địa vị thứ mười thì gọi là Thập Ðịa. Khi ấy từ trong cảnh giới Nhất Thật, Bồ-tát phát sanh trọn vẹn hết thảy thứ công đức trang nghiêm và các tam muội đà-ra-ni để chuyển Pháp Tánh Sanh thành Pháp Tánh Vô Sanh, tức là đoạn một phẩm vô minh cuối cùng, đạt đến địa vị thứ mười một cuối cùng thì gọi là Như Lai Địa, tức là chỉ còn một đời nữa là sẽ thành Phật, nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ.

Nếu xét địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ theo Tịnh tông, chúng ta có thể căn cứ theo kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ mà biết rằng: Bồ-tát ở cõi nước Cực Lạc do được sống trong cõi Báo độ có sẵn đầy đủ vô lượng công đức trang nghiệm thù thắng không thể nghĩ bàn, được sự trực tiếp giáo hóa và gia trì của Phật A Di Đà nên có thể viên giải, viên tu và viên chứng hết thảy các thứ công đức trang nghiêm và các tam muội đà-ra-ni mà chẳng cần dụng công tu hành. “Chẳng cần dụng công” hay “vô công dụng đạo” ở đây có nghĩa là tất cả Phật sự đều quy về Phật tâm, từ Sai Biệt Trí quy về Căn Bản Trí mà đạt đến cảnh giới Nhất tâm hay Nhất Chân pháp giới. Do đó, người sanh về Cực Lạc đều tự nhiên được Bất Thoái Chuyển, chứng trọn vẹn địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ mà chẳng cần phải tu chứng lần lượt từ địa vị này đến địa vị kia như các Bồ-tát trong các cõi Phật phương khác. Ðiều này thể hiện Di Ðà Đại Nguyện vô cùng sâu xa, diệu đức khó thể suy lường. Vì thế, phẩm Quyết Chứng Quả Tối Cực của kinh này mới nói: “Nếu có thiện nam, nếu có thiện nữ, đã sinh sẽ sinh, thảy đều được trú trong Chánh Ðịnh Tụ, quyết định chứng đặng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tại vì sao thế? Nếu là Tà định và Bất Định Tụ, chẳng thấu triệt đặng, nhân tối cực đó.” Từ câu kinh văn này, chúng ta nhận biết, sự chứng đắc thứ tự từ Sơ địa cho đến Thập-địa của Bồ-tát chỉ là do Đức Thích Ca Như Lai ứng theo căn cơ của người trong cõi Sa-bà mà dạy như vậy mà thôi; chứ thật ra, trong các cõi Tịnh độ phương khác không bắt buộc phải giống như vậy. Người thật sự thấu triệt được nghĩa lý này đều là vì họ an trụ trong Chánh Định Tụ; ngược lại, nếu người trụ tâm trong Tà Định hay Bất Định Tụ thì chẳng thể thấu triệt được cái nhân tối cực đó.

Phẩm Nhất Sanh Bổ Xứ của kinh Vô Lượng Thọ cũng ghi: Người sanh về cõi ấy, ở yên trong cõi vui sướng, tâm thường an trụ trong Chánh Định Tụ, nên đều đạt địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ, thành bậc Ðẳng Chánh Giác. Thế nhưng, mỗi vị Bồ-tát tu thành Phật đều có nguyện lực khác nhau; chẳng hạn nếu Bồ-tát nào có thệ nguyện độ sanh sâu rộng, muốn mặc giáp hoằng thệ, trở vào các cõi uế độ để phổ lợi quần sanh, giáo hóa hữu tình, thì họ sẽ được nguyện lực của Phật Di Ðà gia trì để có thể tùy ý đi giáo hóa chúng sanh, không có điều gì mà chẳng được viên mãn. Ðấy chính là ý nghĩa của nguyện “Giáo hóa tùy ý” của Phật A Di Đà.

Chúng ta phải biết, tín tâm nơi Phật pháp là cội nguồn của Phật đạo, là mẹ của tất cả công đức. Vì thế, Bồ-tát cõi Cực Lạc dùng cái tâm thệ nguyện sâu rộng, cứng rắn hơn sắt đá của chính mình làm chiếc áo giáp trụ, xông vào trận chiến sanh tử để nói ra pháp môn Tịnh độ cực viên, cực đốn, siêu tình ly kiến mà hết thảy thế gian khó tin tưởng được nổi này, nhằm mục đích khai mở Phật tri kiến, khiến cho hết thảy chúng sanh phát khởi tín tâm nơi pháp môn Tịnh độ, quy y chiêm lễ, y theo giáo tu hành, hòng có thể thâm nhập vào trong tạng pháp của Như Lai mà được tự tại vãng sanh Cực Lạc, chứng ngay lên địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ, một đời thành Phật. Vì thế, kinh A Di Đà mới bảo: “Chúng sanh các ngươi nên tin ‘Kinh Khen Ngợi Công Ðức Chẳng Thể Nghĩ Bàn, Ðược Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm’ này và các ông đều nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói.” Chúng ta nên biết, kinh A Di Đà là tiểu bổn của kinh Vô Lượng Thọ; do đó, các bậc Đại sĩ cõi Cực Lạc khi hoằng hóa trong thập phương, đều lấy việc giảng thuyết kinh Vô Lượng Thọ làm đầu để giáo hóa để khiến hết thảy chúng sanh đều phát khởi lòng tin hiểu sâu xa pháp môn Tịnh độ, mà có thể tu hành đúng theo con đường chánh đạo mà Phật đã chỉ dạy cặn kẻ trong kinh này. Có hoằng pháp được như vậy thì mọi người mới có thể chánh nhân vãng sanh, rốt ráo thành Phật.

Người tu hạnh Bồ-đề thì ắt hẳn phải phát khởi từ Bồ-đề đại tâm, mà trong Bồ-đề hạnh thì “Nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật” là quan trọng bậc nhất. Do vậy, kinh này mới nói, ba bậc vãng sanh đều phải phát Bồ-đề tâm, một bề chuyên niệm A Di Đà Phật thì mới được vãng sanh. Cho nên, hết thảy trên từ chư đại Bồ-tát, dưới xuống đến phàm tình chúng sanh, dù là ở địa vị nào đi nữa, đều chẳng thể rời bỏ việc niệm Phật để thành tựu trọn vẹn muôn điều lành. Hơn nữa, các vị Đại sĩ cõi Cực Lạc đều tuân tu theo hạnh Phổ Hiền, mà Phổ Hiền hạnh đức lại chính là Mười Đại Nguyện Vương dẫn dắt chúng sanh cùng về Tây Phương Cực Lạc. Cho nên, các Ngài phát thệ nguyện sâu rộng, mặc giáp hoằng thệ, xông vào trong biển khổ sanh tử trong khắp các cõi uế độ trong mười phương thế giới để giáo hóa và dạy bảo chúng sanh cùng tu theo hạnh Phổ Hiền, cầu sanh Cực Lạc. Do được nguyện lực của Phật Di Ðà gia trì nên chư vị Bồ-tát ấy dù ở trong chốn sanh tử, nhưng vĩnh viễn thoát khỏi ác đạo. Lại do nương vào nguyện “Giáo hoá tùy ý” của Phật A Di Đà gia hộ nên các Ngài có thể tùy theo ý thích của mình mà tu tập, thuyết pháp, hoặc nghe pháp, hoặc hiện thần thông v.v... một cách tự tại, vô chướng ngại. Các Ngài ở trong các cõi uế độ tu tập như thế là để thành tựu hai hạnh tự lợi, lợi tha: Trước là để trang nghiêm Pháp thân của chính mình, sau là để giáo hoá chúng sanh.

Đối với các bậc Đại hạnh Bồ-tát đã chứng tịnh tâm kiên cố thì các cõi uế độ là nơi tu hành rất tốt, giúp họ đạt được Kim Cang định, mau chóng thành tựu Phật quả, nên kinh này nói: “Tu một ngày một đêm ở cõi này, thù thắng hơn là tu hành trong trăm năm ở cõi Cực Lạc hay các cõi Phật phương khác.” Đấy là do vì có uống khổ ăn độc tu hành thì mới có thể diệt được các lậu hoặc nơi tâm mình. Thế nhưng, phàm phu chúng ta vẫn còn quá nhiều tham đắm, vọng tưởng, phân biệt chấp trước, lại có rất nhiều chướng duyên, nên không có đủ sức tịnh tâm để tu khổ hạnh trong cõi uế độ. Vì vậy, chư Bồ-tát dạy chúng sanh chỉ phải nên cầu sớm được sanh về Cực Lạc mới có chỗ an toàn, thuận tiện, không gặp phải nhiều chướng nạn trong việc tu hành. Nói cách khác, chỉ khi nào chúng ta chứng được tịnh tâm kiên cố như các Đại hạnh Bồ-tát thì mới có thể phát nổi Nguyện Lực Hoằng Thâm vào chốn sanh tử để hành đạo Phổ Hiền, giáo hóa chúng sanh, khiến ai nấy đều phát tâm chí thành tin ưa cầu sanh Tịnh độ, một bề chuyên niệm A Di Đà Phật.

Từ trong kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta biết rằng, chư Bồ-tát cõi Cực Lạc thường luôn biến hóa đến đây để giúp chúng sanh phá mê khai ngộ mà nhận biết mọi thứ trên đời đều là do nhân duyên sanh, có sanh ắt có diệt. Tiếc thay, từ lũy kiếp đến nay chúng sanh thường luôn ôm chấp biết bao nhiêu sự đời, không chịu buông bỏ, tự mình tạo ra bao thứ khổ chướng như là phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng. Ba thứ chướng này chính là nguyên nhân xô đẩy chúng ta vào luân hồi vô tận; đã vậy mà lại còn hải hùng run sợ trước cái chết, chẳng dám mạnh dạng buông xả cái nghiệp báo thân này để một lòng niệm Phật cầu sanh Cực Lạc. Đấy chẳng phải là chướng càng sanh thêm chướng đó ư?

Điều trọng yếu của việc học Phật là phát sanh trí tuệ. Do nhờ có trí tuệ nên con người mới có thể chuyển hóa hoàn cảnh sống hiện tại của mình, chuyển ác thành thiện, chuyển họa thành phước, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh. Người hiểu biết Phật pháp, tức là người có trí tuệ thấy rõ cái chết chỉ là việc thay đổi thân tướng, giống như việc thay quần, đổi áo mà thôi; riêng Pháp tánh thì không bao giờ chết, nó thường hằng bất sanh bất diệt. Do đó, trong cuộc sống đời thường người học Phật phải nhận thức được thế nào là giả tướng, thế nào là thật tánh để có thể nương cảnh mà chuyển cảnh, đạt đến Nhất Tâm. Nhất Tâm có nghĩa là không còn tâm phân biệt đối lập nữa; tánh tướng, lý sự, nhân quả đều chỉ là một không hai. Một khi người niệm Phật đạt Nhất Tâm thì Chân tâm sẽ tự nhiên hiển lộ, ý niệm bổng dưng trở nên thuần thiện. Lúc ấy, y báo sẽ theo chánh báo ấy mà tự nhiên cùng chuyển biến một cách tối thắng. Trong cảnh giới Nhất Tâm, vạn sự vật trong cõi Sa-bà cùng với thất bảo trang nghiêm ở cõi Phật không hề khác nhau, trí huệ tự nhiên sáng ngời, rõ thông không ngằn mé, hết thảy các đức năng trong Tự tánh tự nhiên bộc phát ra. Lúc ấy, A Di Đà Phật chính là Chân tâm của ta, Chân tâm của ta chính là A Di Đà Phật, Tịnh độ là đây, đây cũng là Tịnh độ. Phẩm Thọ Lạc Vô Cực ghi: “Một mai khai thông triệt sáng, trong tướng tự nhiên, bản nhiên thanh tịnh, ánh sáng vô lượng, dung hóa tự nhiên, chuyển biến tối thắng. Uất Ðơn thành bảy báu, ngang trải thành vạn vật. Quang tinh minh đồng hiện, tốt lành thù đặc, không đâu sánh bằng. Hiển minh không trên dưới, thông suốt không ngằn mé, tự thân cần tinh tấn, nỗ lực tự cầu đạo, tất triệt để siêu thoát, vãng sinh về cõi nước, có vô lượng thanh tịnh, của Phật A Di Ðà. Dứt hẳn trong năm đường, nẻo ác tự đóng chặt.” Phẩm Thọ Mạng Đại Chúng Vô Lượng chép: “Thần trí thông triệt, oai lực tự tại, lòng tay nắm trọn tất cả thế giới.” Đấy chính là cảnh giới của người niệm Phật được Nhất Tâm; trong cảnh giới này họ có thể nương cảnh mà chuyển cảnh như trở bàn tay.

Trong cõi đời này, nếu chúng ta muốn được Nhất Tâm thì phải nỗ lực tu hành đúng theo lời chỉ dạy trong kinh Vô Lượng Thọ mà phát sanh trí tuệ biết rõ cách dụng tâm, dụng trí của chư Phật, Bồ-tát và biết cách niệm Phật như thế nào mới được Nhất Tâm. Chỉ khi nào tự mình thân chứng cảnh giới Nhất Tâm thì mới thật sự hiểu và thấy rõ chân tướng sự thật được nói trong kinh, tức là nhận thấy cái tướng thật của hoàn cảnh cuộc đời mà chúng ta đang sống và cảnh giới Tây Phương Cực Lạc có đúng như những gì mà Phật đã nói trong kinh hay không? Đây chính là chỗ cao minh của người học Phật. Nếu người niệm Phật mà tâm trí cứ xa rời kinh Phật thì rất dễ gặp phải chướng ma, tức là bị năm ấm ma của mình dẫn đi vào năm mươi cảnh ma, chẳng những tự mình chẳng thể nhận ra đó là cảnh ma, mà còn tưởng lầm đó là cảnh trời hay cõi Phật.

Phật không muốn chúng ta tu mù quáng mà bị lạc vào ma cảnh, nên Ngài muốn chúng ta phải thật sự học Phật, thật sự hiểu rõ đạo lý, thật sự tu hành theo kinh Vô Lượng Thọ để phát sanh trí tuệ chân thật, chứng nghiệm lời Phật dạy trong kinh là đúng với chân tướng của sự thật. Do đó, kinh Vô Lượng Thọ chính là cái địa bàn chỉ phương hướng để chúng ta dùng đó mà xem xét cảnh giới tu hành của chính mình là đúng hay sai. Giống như người vượt biển khơi mênh mông rộng lớn, nếu trên tay không có cái địa bàn chỉ hướng thì chắc chắn phải bị lạc đường. Vì để giúp đỡ chúng sanh hiểu rõ lời Phật dạy và biết cách tu hành cho khế hợp với lý đạo và căn cơ của mình, nên chư Bồ-tát cõi Cực Lạc không ngại khổ nhọc, mặc chiếc giáp hoằng thệ, xông nhập vào chốn sanh tử, cốt hầu là để diễn giải pháp yếu của Tịnh độ, giúp đỡ chúng sanh khiến họ không bị rơi vào sự hiểu biết sai lầm mà mất phần vãng sanh.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 1500 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Hương lúa chùa quê - Phần 2: Hồi ký của Hòa thượng Thích Như Điển


Hương lúa chùa quê - Phần 1: Hồi ký của Hòa thượng Thích Bảo Lạc


Chớ quên mình là nước


Rộng mở tâm hồn

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.97.9.173 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (203 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - ... ...