Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương

Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm

Trang chủ »» Danh mục »» »» Lịch sử Phật giáo Việt Nam »» Xem đối chiếu Anh Việt: VỊ TRÍ CỦA HT TUỆ SỸ TRONG DÒNG SỐNG CỦA ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC »»

Lịch sử Phật giáo Việt Nam
»» Xem đối chiếu Anh Việt: VỊ TRÍ CỦA HT TUỆ SỸ TRONG DÒNG SỐNG CỦA ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC

(Lượt xem: 62)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục   

       

Font chữ:
Font chữ:

VỊ TRÍ CỦA HT TUỆ SỸ TRONG DÒNG SỐNG CỦA ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC

Thuyết trình tại Đại Hội Kỳ III của Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN - Ngày 18 tháng 12 năm 2025

Kính bạch chư Tôn Trưởng Lão Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Đại Đức và Quý Ni Trưởng, Ni Sư, Sư Cô.
Kính thưa Quý Cư sĩ và Đồng Hương, Phật Tử

"Mái Chùa Che Chở Hồn Dân Tộc"

Cố Đại lão Hòa thượng Thích Mãn Giác, tức nhà thơ Huyền Không, để lại nhiều thi phẩm, nhưng có một câu thơ chắc đa số Phật tử đều biết: “Mái chùa che chở hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của tổ tông”. Bài thơ Nhớ Chùa được Thầy viết năm 1949 tức cách đây 76 năm nhưng khi nghe hai câu thơ này hình ảnh ngôi chùa tưởng chừng như vẫn còn đâu đó trong tâm tưởng của mỗi người con Phật hôm nay. 

Trên tầm vóc dân tộc, hai câu thơ nói lên sự gắn bó của Đạo Phật Việt Nam và Dân Tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam và Phật Giáo Việt Nam là kết quả của một nhân duyên kỳ diệu trong thế giới con người. Trải qua mấy ngàn năm, sự thịnh suy của Phật Giáo gắn liền với sự thịnh suy của dân tộc. Đó không phải là một sự khoa trương mà đã được chứng minh rất rõ qua những chặng đường lịch sử.

Phật giáo không chủ trương độc tôn thống trị và cũng chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam, Phật giáo đã đóng một vai trò như thế. Trong thời Lý Trần, nhiều thiền sư trong đó có Thiền sư Vạn Hạnh, đã tham gia vào việc trị nước chăn dân, và hầu hết vua không những đều là Phật tử mà còn là tổ của các Thiền tông lớn, nhưng không phải vì thế mà Phật giáo trở thành lực lượng thống trị xã hội. Trái lại, các tôn giáo khác tại Việt Nam vẫn tồn tại và có ảnh hưởng quan trọng trong mọi sinh hoạt văn hóa xã hội, thương yêu và gắn bó với nhau.

Các nhà vua Phật tử thời Lý, thời Trần với quyền hạn tuyệt đối, nhưng thay vì xây dựng những đền chùa nguy nga bằng mồ hôi nước mắt của nhân dân, các ngài đã để lại cho chúng ta ngày ngay những tổ đình uy nghiêm, tôn kính nhưng với một kiến trúc vô cùng khiêm nhượng. Những ngôi chùa như Trấn Quốc, Chùa Láng thời nhà Lý hay Chùa Dâu đại trùng tu thời nhà Trần v.v… đều rất đơn giản. Việt Nam không có Angkor Wat như Cambodia. Việt Nam không có Bagan như Miến Điện. Việt Nam không có Sewu Temple như Nam Dương. Lý do các vì vua Phật tử Việt Nam là những vì vua nhân từ, lãnh đạo một đất nước vừa nghèo khó, vừa phải lo chống đỡ các triều đại Bắc phương không ngừng xâm lấn. Các ngài biết đặt sự an lạc của dân tộc lên trên sự hưng thịnh riêng của một tôn giáo. Việt Nam không có nô lệ để xây đền Angkor Wat mà chỉ có đồng bào cùng máu huyết. Nhiều câu chuyện cảm động về cách trị nước của vua Trần Nhân Tông vẫn còn ghi trong sử sách.

Do đó, dù đứng từ góc cạnh nào, không ai có thể phủ nhận vai trò và sự đóng góp của Phật giáo vào dòng sống của dân tộc Việt. Đạo Phật là một tôn giáo rất đặc biệt trong nền văn minh nhân loại vì đáp ứng được các khao khát, xoa dịu được sự khổ đau của con người theo từng thời đại không phân biệt màu da hay sắc tộc.

Kinh điển giống nhau nhưng đạo Phật mang sắc thái riêng khi đến mỗi quốc độ để từ đó có Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Việt Nam. Đạo Phật Việt Nam hòa tan trong tâm hồn mỗi con người. Tinh thần Phật giáo bàng bạc trong lời ru của mẹ, lời dạy bảo của cha. Một câu thơ, câu văn được các tác giả viết ra đã có tư tưởng Phật giáo dù tác giả không phải là một tín đồ Phật giáo.

Khi dừng chân tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ đem lại cho con người những phương tiện cần thiết để đạt đến giải thoát, an lạc như tại nhiều nơi khác mà còn dung hóa và dung hợp một cách hài hòa vào dòng sống dân tộc, góp phần quan trọng trong việc xây dựng nền tảng văn hóa, đạo đức của dân tộc và là thành lũy tinh thần để bảo vệ Việt Nam.

Đạo Phật Dưới Thời Kỳ Thực Dân

Sau nhiều trăm năm bị đóng khung trong tứ thư ngũ kinh Nho giáo rồi Trịnh Nguyễn phân tranh, dân tộc Việt Nam lại phải đối diện với Thực dân xâm lược. Ông bà chúng ta bàng hoàng trước sức mạnh cơ khí vượt trội quá xa của Thực dân. Thân xác người dân Việt gục xuống như rơm rạ trước họng súng đại bác từ các tàu chiến của Liên quân Pháp-Tây Ban Nha đậu ngoài cửa biển Đà Nẵng đầu tháng 9, 1858. Sau bao nhiêu hy sinh máu đổ đầu rơi, Việt Nam hoàn toàn bị Pháp thực dân hóa qua “Hòa ước Patenôtre”, 1884.

Giống như số phận dân tộc Việt, Phật Giáo Việt Nam chưa kịp bước ra khỏi vòng cương tỏa của tư tưởng Nho Giáo đã bị rơi vào vòng nô lệ của Thực Dân. Nhiều chùa chiền bị chiếm đoạt, tàn phá.

Nhưng sự xâm thực lớn không phải là xâm thực vật chất mà là xâm thực tinh thần. Bài học Ấn Độ cho thấy cuộc chinh phạt của Hồi Giáo bắt đầu từ văn hóa. Song song với cuộc viễn chinh Ấn Độ của tướng Hồi Giáo Muhammad bin Qasim năm 711, các ấn bản của Kinh Quran cũng có mặt tại Ấn. Trước đó, nhiều tác phẩm Hồi Giáo cũng đã được đưa vào Ấn Độ qua nhiều ngã. Vó ngựa của đoàn quân Hồi Giáo cũng tàn phá hầu hết các cơ sở, tu viện Phật Giáo như đại học Nalanda, Sarnat, nơi Đức Phật Chuyển Pháp Luân và nhiều tu viện lớn khác. Những kẻ xâm lược dù đến từ Tây phương hay Áp Rập đều biết rằng, để chinh phục và nô lệ một dân tộc, trước hết phải xóa bỏ các giá trị tinh thần đã hun đúc nên dân tộc đó. Tại Việt Nam cũng thế, Thực Dân Pháp đã phần nào thành công khi đưa hệ ý thức thực dân vào nhận thức của nhiều người Việt.

Trong tiểu luận Sự biến Lương Sơn viết ngày 27 tháng 10 năm 2003, Hòa thượng Tuệ Sỹ nhắc đến việc Phật Giáo Việt Nam phải bị chi phối bởi Dụ số 10 vì “Chính quyền thực dân Pháp không coi Phật giáo Việt nam lúc bấy giờ là tôn giáo theo định nghĩa kinh điển.”

Hòa thượng quy trách nhiệm cho Thực Dân Pháp là đúng. Vua Bảo Đại, người ký tên ban hành Dụ số 10, nhưng như ông thú nhận trong hồi ký chính trị Con Rồng An Nam, nhà vua đã dành hết thời gian từ tuổi thơ cho tới tuổi thanh niên tại Pháp trong các trò chơi quần vợt, đua ngựa, và gần như không biết gì về tình hình chính trị tại Việt Nam. Theo lời Vua Bảo Đại, nguồn thông tin duy nhất của ông và Việt Nam là vài lá thư với bà nội và thân mẫu ông. Ông thú nhận ngay cả khi cuộc Khởi Nghĩa Yên Báy bùng nổ và thất bại với hàng trăm người bị xử tử và hàng ngàn người bị lưu đày ông cũng không biết. Khi các sinh viên Việt Nam du học tại Pháp rải truyền đơn phản đối các biện pháp dã man của Pháp đối với các liệt sĩ Yên Báy ông có thấy nhưng không hiểu lý do.

Dụ số 10 suốt hơn 70 năm qua được đem ra thảo luận và tranh cãi nhưng có một điểm mà các bên dù bênh vực hay chống đối đều không thể phủ nhận rằng dưới mắt Thực Dân Pháp, Phật Giáo Việt Nam chỉ là một hội như hàng trăm hội khác.

Hành Trình Về Nguồn Qua Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo

Việt Nam trở thành một thuộc địa của Pháp nhưng tinh thần Việt Nam được hun đúc suốt nhiều ngàn năm không vì thế mà mất đi. Dòng văn hóa vẫn tiếp tục chảy dù phải chảy qua những vách đá cheo leo và có khi phải nhỏ từng giọt xuống trái tim người yêu nước. Làm thế nào để vượt qua được những chướng ngại của thời đại là một câu hỏi lớn vang lên theo mỗi bước thiền hành, vọng lên trong những giờ suy niệm về tương lai dân tộc và đạo pháp của chư tổ Phật Giáo ngày đó.

Những người Việt yêu nước, trong đó có các bậc cao tăng Phật Giáo trong cuối thập niên 1920 đứng trước hai chọn lựa, (1) ủng hộ việc đi vay mượn các chủ thuyết ngoại lai, mượn súng đạn của ngoại bang về để “giải phóng dân tộc”, thực chất là thay một hình thức nô lệ này bằng hình thức nô lệ khác, (2) nâng cao nhận thức văn hóa, xã hội, chính trị phù hợp với hướng đi thời đại kết hợp với phát huy nội lực dân tộc để tự khai hóa chính mình thay vì bị thực dân “khai hóa”.

Để tồn tại, vượt qua và vươn lên, chư tổ Phật giáo chọn con đường thứ hai. Con đường đó không phải tìm đâu khác, không vay mượn của ai khác mà trở về và phát huy những uyên nguyên của dân tộc và bản thể của đạo Phật. Nội dung của hành trình về nguồn đó chính là phong trào chấn hưng Phật giáo bắt đầu vào những năm cuối của thập niên 1920. Chấn hưng Phật giáo cũng có nghĩa chấn hưng nội lực dân tộc.

Con đường thứ hai cũng là con đường thời đại. Giống như ngài Anagarika Dharmapala (1864-1933), nhà văn và nhà đấu tranh cho nền độc lập Tích Lan, các bậc cao tổ Khánh Hòa, Giác Nguyên, Khánh Anh, Giác Tiên, Phước Huệ, Tố Liên, Trí Hải… của Việt Nam đã rời thiền phòng để chống gậy trúc đi vào lòng đất nước. Các ngài lắng nghe nỗi đau của dân tộc, đánh thức tinh thần yêu nước, độc lập tự chủ trong lòng mỗi người dân Việt để qua đó phục hưng dân tộc bằng phương tiện giáo dục bởi vì chỉ nâng cao nhận thức mới có thể chuyển hóa các nguồn bạo lực Tây phương.

Cũng trong cùng thời gian, Gia đình Phật Hóa Phổ tiền thân của Gia đình Phật tử Việt Nam ra đời. Tổ chức Gia Đình Phật Tử, người con trung kiên của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, tiền thân của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, cũng đã từ ánh sáng của tinh thần chấn hưng Phật Giáo đó mà lớn lên. Những người con Phật Việt Nam, những anh chị trưởng mang trên vai sứ mệnh của người huynh trưởng thời đại Chấn Hưng Phật Giáo và Phục Hưng Dân Tộc, hăng hái lên đường.

Nhưng tại sao phong trào chấn hưng Phật Giáo lại diễn ra trong phần tư đầu của thế kỷ 20?

Phần tư đầu của thế kỷ 20 nguồn phát triển văn minh và dân chủ của nhân loại từng bước chuyển trục sang Á Châu. Các tư tưởng tự do dân chủ được thắp lên từ những con người yêu chuộng tự do dân chủ như Tôn Dật Tiên với Cách Mạng Tân Hợi (1911), Mahatma Gandhi với phong trào độc lập Ấn Độ (1915), Phan Bội Châu với Việt Nam Quang Phục Hội (1912) v.v.. Hòa nhịp theo cuộc vận hành đầy lạc quan đó, các tổ chức Phật giáo quốc tế như Liên hữu Phật giáo Thế giới (The World Fellowship of Buddhists), Hội đồng Tăng già Phật giáo Thế giới (The World Buddhist Sangha Council, WBSC) và nhiều tổ chức Phật giáo Quốc tế khác cũng lần lượt ra đời trong nửa đầu của thế kỷ 20.

Con đường chấn hưng Phật giáo như chư tổ vạch phù hợp với sinh khí mới tại Á Châu là con đường đích thực dù cần nhiều thời gian và đầy khó khăn đang chờ đợi.

Thống Nhất Phật Giáo

Các hội đoàn Phật giáo như Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học do Hòa thượng Khánh Hòa thành lập vào năm 1930, Hội Tăng Già Bắc Việt do Hòa thượng Tố Liên thành lập năm 1950, và nhất là Tổng hội Phật giáo Việt Nam được thành lập tại Huế năm 1951. Sớm hay muộn các hội Phật giáo đó cũng sẽ kết hợp thành một giáo hội thống nhất. Qua những chặng thời gian và những khoảng không gian, dòng sông Phật giáo Việt Nam có những tên gọi khác nhau nhưng cũng chỉ là một dòng sông thống nhất khởi nguồn từ Luy Lâu trong đầu thế kỷ thứ hai.

Nổi bật trong các cuộc vận động thống nhất Phật Giáo là sự ra đời của Tổng hội Phật giáo Việt Nam sau hội nghị từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 5 năm 1951 tại Huế. Kết quả của 5 ngày thảo luận, đại hội đã bầu ra Ban Trị Sự Trung Ương do Hòa thượng Tường Vân Thích Tịnh Khiết lãnh đạo. Ngài cũng là Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN 13 năm sau đó.

Các tạp chí Phật học như Pháp Âm, Quan Âm, Tam Bảo, Tiếng chuông sớm, Duy tâm, Tiến hóa và nhà xuất bản là Phật học Tùng thư do ông Đoàn Trung Còn thành lập năm 1932.

Sau nhiều thăng trầm, gian khó và hy sinh, cuộc hành hương về nguồn cội vẫn tiếp tục và dẫn đến sự ra đời của GHPGVNTN vào tháng Giêng, 1964 tại Chùa Xá Lợi, Sài Gòn.

GHPGVNTN 1964

“Thống Nhất” 1964, không chỉ là một tập hợp mang tính hình thức của 11 giáo phái ký tên trong Hiến chương 1964 mà là bước phát triển cao hơn của một truyền thống đã có từ nhiều ngàn năm. GHPGVNTN, do đó, là tiến trình tự nhiên và tự nguyện của Phật giáo Việt Nam phù hợp với dòng chảy của văn minh thế giới trong hậu bán thế kỷ 20.

Được thành lập trong một giai đoạn lịch sử đầy ngộ nhận, GHPGVNTN dễ được hiểu như là kết quả của một biến cố chính trị. Thưa không. Biến cố có thể là “điểm vỡ” để GHPGVNTN được hình thành nhưng các giá trị hàm chứa trong Hiến chương 1964 của GHPGVNTN không đơn giản chỉ là kết quả của việc đổi thay một chế độ.

Tiến trình từ khi phong trào chấn hưng Phật Giáo bắt đầu trong thập niên 1920 cho thấy dù có hay không có biến cố 1963, Phật Giáo Việt Nam vẫn thống nhất tại miền Nam và chờ điều kiện thuận lợi để thống nhất cả nước.

Đạo ca với ca từ “Phật Giáo Việt Nam thống nhất Bắc Nam Trung từ nay” của Huynh trưởng Nhuận Pháp Lê Cao Phan được chọn làm đạo ca Phật Giáo Việt Nam từ 1951 chứ không phải 1964. Đạo kỳ là cờ Phật Giáo Thế Giới ngũ sắc do Hội nghị Phật giáo thế giới tổ chức phê chuẩn tại Colombo, thủ đô Sri Lanka từ ngày 25-5 đến 8-6-1950. Hòa thượng Tố Liên đại diện cho Phật Giáo Việt Nam.

GHPGVNTN là căn nhà chung của Đạo Phật tại Việt Nam, là nơi giữ gìn các giá trị tinh thần, các truyền thống văn hóa, lịch sử hai ngàn năm của Phật giáo Việt Nam. Dù bụi phủ, dù rêu phong căn nhà GHPGVNTN vẫn là căn nhà chính danh và chính thống của mọi người con Phật Việt Nam.

Lịch sử của GHPGVNTN từ khi ra đời tháng Giêng, 1964 cho tới khi Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ chính thức đảm nhiệm chức vụ Chánh Thư Ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống đã trải qua không biết bao nhiêu gian khó. Một cuốn sách hay cả bộ sách dày cũng không viết hết hành trình giáo hội đã đi qua.

“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”

Sau 1975, ngoài GHPGVNTN, tại Việt Nam còn ra đời một “giáo hội” khác, được đảng CSVN chỉ đạo thành lập năm 1981 và đặt tên là “Giáo Hội Phật giáo Việt Nam” (GHPGVN) với phương châm “Đạo Pháp, Dân Tộc và chủ nghĩa Xã Hội”. Với phương châm đó, “GHPGVN” lệ thuộc hoàn toàn vào đảng CS. Nói một cách dễ hiểu, đảng CS còn “GHPGVN” còn và đảng CS mất GHPGVN sẽ mất.

Lịch sử thế giới cận đại cho thấy, ngày nay không còn ai nhắc hay muốn nhắc đến các giáo hội Chính thống Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo do các đảng CS Liên Xô hay Đông Âu thành lập trong thời kỳ CS. Các giáo hội có mặt trước 1917 tại LX và trước 1945 tại các nước Đông Âu vẫn tồn tại một cách chính danh, vẫn âm thầm chảy trong lòng dân tộc của các quốc gia này. Sau 1991, khi phong trào CS Châu Âu sụp đổ, các giáo hội chính danh đã được phục hoạt như chúng ta đang thấy ngày nay.

“GHPGVN” từ khi được thành lập ngày 7 tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ Hà Nội và được xếp vào một trong 37 thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. “Giáo Hội” này chỉ là một đoàn thể xã hội giống như các đoàn thể khác trong mặt trận như Hội Người cao tuổi Việt Nam, Hội Châm cứu Việt Nam, Hội nghề cá Việt Nam, Hội Làm vườn Việt Nam, Hội kế hoạch hoá gia đình Việt nam v.v…

Một tôn giáo có lịch sử hai ngàn năm và đã đóng góp một phần không nhỏ cho mảnh đất hình chữ S này còn tồn tại trên bản đồ thế giới, bị đặt vào vị trí ngang hàng với một hội làm vườn, cắt cỏ nhưng không một lãnh đạo Phật Giáo nào phàn nàn hay thắc mắc.

Phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” của “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” cũng không đại diện cho truyền thống của một tôn giáo đã gắn liền với dòng sinh mệnh Việt Nam mà chỉ nói lên sự sợ hãi, phụ thuộc, nô lệ vào ý thức hệ CS. Đảng CS và dân tộc Việt Nam không có liên quan gì với nhau, không đồng hành về tương lai mà cũng chưa hề đồng hành trong quá khứ.

Phản biện của Hòa Thượng Tuệ Sỹ

Hòa thượng Tuệ Sỹ cũng trong tiểu luận Sự biến Lương Sơn khẳng định rằng “GHPGVN” chỉ được xem như là một hội giống như Hội Châm cứu Việt Nam, Hội nghề cá Việt Nam, Hội Làm vườn Việt Nam và điều đó cho thấy “Việt nam thực sự không có tổ chức tôn giáo nào chính thức được gọi là Giáo hội của Phật giáo Việt nam, ngoại trừ Giáo hội Phật Giáo Việt nam Thống nhất tồn tại như một cơ cấu tôn giáo đúng nghĩa trước 1975, mà đến nay vấn đề hợp pháp của nó đang là điểm tranh luận và cũng là điểm thách thức mang tính pháp quy đối với Pháp luật của Nhà nước Việt nam.”

Hòa thượng Tuệ Sỹ cũng phản biện lý luận của nhà nước CS cho rằng GHPGVNTN 1964 là “tổ chức bất hợp pháp”.

Hòa thượng viết “Nếu đó là một tổ chức, hay một hiệp hội, được thành lập chỉ sau ngày Cộng sản chiến thắng miền Nam mà chưa được thừa nhận theo bất cứ thủ tục pháp định nào, như thế có thể gọi là bất hợp pháp. Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất được thành lập trước khi nước Việt nam Cộng hòa sụp đổ, đã sở hữu hợp pháp rất nhiều cơ sở văn hoá, giáo dục, từ thiện, tôn giáo, trên toàn miền Nam.” Sau khi cưỡng chiếm miền Nam “Nhà nước đó chưa hề có văn bản chính thức nào tuyên bố huỷ bỏ sự tồn tại của Giáo hội Phật Giáo Việt nam Thống nhất.”

Ngay cả trong trường hợp một vài thành viên trong hội đồng giáo phẩm GHPGVNTN tham gia “giáo hội nhà nước” cũng không có nghĩa GHPGVNTN chính thức tham gia. Các ngài đó chỉ tham gia với tư cách cá nhân. Lý do, Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN chưa hề ủy nhiệm một thành viên nào thay mặt cho GHPGVNTN tham gia thành lập một hội đoàn có tên là “GHPGVN”.

Vị trí truyền thừa của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ

Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN viên tịch ngày 22 tháng 2, 2020. Trong di chúc, ngài ủy thác quyền điều hành Viện Tăng Thống cho Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ: “đứng đầu vào vị trí của Viện Tăng Thống bảo đảm tiếp tục sứ mệnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong tương lai. Tôi hoàn toàn tin tưởng và ủy thác trọng trách này cũng như trao toàn quyền cho Hòa thượng Tuệ Sỹ điều hành mọi hoạt động của Giáo Hội.” (Quyết Định Số T4/QĐ/TT/VTT của Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN)

Tại sao Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ đặt sinh mệnh của GHPGVNTN trên vai Hòa thượng Tuệ Sỹ mà không giao phó cho ai khác?

Phải chăng vì không có một tôn đức nào uyên thâm gần hết các lãnh vực nội điển và ngoại điển như Hòa thượng Tuệ Sỹ?

Phải chăng không có một tôn đức nào khác có tinh thần uy dũng và đức độ được quốc tế và đa số đồng bào Việt Nam kính trọng như Hòa thượng Tuệ Sỹ?

Đó là câu hỏi chúng ta thường đọc, thường nghe từ tháng 2, 2020 đến nay và cũng là câu trả lời của phần đông chúng ta mỗi khi được hỏi.

Thế nhưng, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ có thể không nghĩ giống như đa số chúng ta mà đã nghĩ sâu hơn.

Tinh hoa và trí tuệ bộc phát trong những ngày tháng cuối đời giúp ngài nhìn lại con đường giáo hội đã đi qua và thấy rõ hơn con đường trước mắt mà đạo Phật Việt Nam phải hướng tới.

Ngài trao trọng trách cho Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ bởi vì, ngoài cơ sở pháp lý là Hiến chương GHPGVNTN và bên cạnh sự thông minh, uyên bác nhiều lãnh vực, Hòa thượng Tuệ Sỹ trước hết vẫn là con người văn hóa và có một tầm nhìn rất xa về tương lai Dân tộc và Phật giáo.

Chính Hòa thượng Quảng Độ cũng nhìn lại bản thân để thấy chặng đường mình đã đi. Hòa thượng Quảng Độ không thể tự trách mình được vì ngày đó Ngài ở Thái Bình trong một ngôi chùa nhỏ. Dĩ nhiên trong không gian rất hẹp nên Ngài không thấy được tất cả những biến đổi diễn ra trên thế giới. Nhưng với điều kiện của Hòa thượng Tuệ Sỹ, với căn cơ xuất sắc và tầm nhìn của Hòa thượng Tuệ Sỹ thì giao lại cho một người có tầm nhìn xa vì tương lai của Giáo hội và tương lai đất nước.

Những điều đó nằm ngay trong đáy lòng của Hòa thượng Quảng Độ khi thấy lại, rõ ràng chúng ta cần một lãnh đạo Giáo hội nhưng Ngài đó phải vượt qua được thời đại của mình. Nếu chúng ta không vượt qua được bản thân của mình hay vượt qua thời đại của mình để hướng dẫn cả Giáo hội hướng tới một cánh cửa mới của thế giới đang mở ra thì sẽ rất khó khăn cho Giáo hội.

Là một bậc cao tăng dâng hiến cả cuộc đời cho Đạo pháp và Dân tộc, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ biết cuộc vận động chấn hưng Phật giáo từ thập niên 1920 chưa dừng lại mà là một tiến trình liên tục và phải bắt đầu ngay từ nền móng. Giống như các bậc cao tăng trăm năm trước, HT Quảng Độ biết Phật Giáo Việt Nam phải trở về với bản thể của đạo Phật.Bản thể của đạo Phật không gì khác hơn là Tam tạng. Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ý thức được sự quan trọng của công trình phiên dịch bởi vì chính ngài từng là Tổng Thư ký mang trọng trách điều hành công việc hàng ngày của Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng trước 1975.

Xin nhắc lại. Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng được thành lập sau phiên họp ba ngày từ 20 đến 22 tháng 10, 1973. Kết quả, một Ban Phiên dịch được bầu ra. Trưởng ban là Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh và Tổng Thư ký là Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ. Trong số 18 bậc tôn đức thành viên Ban Phiên Dịch có một vị tăng sĩ chỉ mới 28 tuổi. Vị tăng sĩ trẻ đó là Đại đức Thích Tuệ Sỹ.

Trong Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng Thống, Hội đồng Viện Hóa Đạo, Tổng vụ Hoằng Pháp, Ban Giáo sư Phật khoa của Viện Đại học Vạn Hạnh còn có hàng trăm cao tăng thạc đức xứng đáng được cung thỉnh vào Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng. Tuy nhiên Hội đồng đề cử Đại đức Tuệ Sỹ bởi vì Thầy không chỉ là một giáo sư Đại học Vạn Hạnh mà còn đại diện cho tương lai của Phật giáo tại Việt Nam. Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Tuệ Sỹ một cánh cửa mới sẽ mở ra để GHPGVNTN bước đi cùng thời đại.

Hòa thượng Tuệ Sỹ biết mình thân đang mang trọng bệnh. Khó khăn duy nhất mà Thầy không thể vượt qua là thời gian. Vì không có đủ thời gian để làm hết những điều mình mong muốn nên Hòa thượng ưu tiên hóa những đề án, những công việc phải làm. Hòa thượng cặm cụi ngày đêm soạn thảo từng thông tư, chủ trì nhiều phiên họp, gọi thỉnh mời chư tôn đức tăng ni ở khắp các múi giờ trên thế giới để cùng ngồi lại. Tất cả chỉ vì một mục đích như ngài viết trong Thông Bạch Thỉnh Cử Hội đồng Hoằng pháp: “mang ngọn đèn chánh pháp đến những nơi tăm tối, cho những ai có mắt để thấy, dựng dậy những gì đã sụp đổ, dựng đứng những gì đang nghiêng ngả.”

Đúng như niềm mong ước của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Hòa thượng Tuệ Sỹ đã lãnh đạo và phối hợp chư tăng ni trong và ngoài nước để thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào ngày 10 tháng 05 năm 2021. Hội Đồng Hoằng Pháp “mở ra cánh cửa cho những ai đang tìm kiếm sự an lạc tĩnh lặng của nội tâm; cứu mình, giúp người, xoa dịu và hàn gắn những đổ vỡ chia ly của gia đình, xã hội; góp phần giải quyết những khổ đau triền miên của nhân sinh, kiến lập thế giới hòa bình, nhân ái.”

Mục đích và chủ trương ngắn gọn như thế nhưng hàm chứa cả một tầm nhìn bao la và sâu xa của Hòa thượng Chánh Thư ký Viện Tăng Thống GHPGVNTN Thích Tuệ Sỹ.

Nội dung Phật chất chứa đựng trong Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (tu chính ngày 12.12.1973) hoàn toàn không thay đổi nhưng đưa đến cho mọi người ở mọi nơi bằng những phương tiện nhanh chóng chưa từng có nhờ kết quả của cuộc cách mạng tin học cuối thế kỷ 20.

Trong “thế giới phẳng” ngày nay, khoảng cách không gian và thời gian không còn là những trở ngại mà là những tiện nghi cần được tận dụng. Kết quả thấy rõ, chỉ trong vòng chưa tới hai năm Tạng Thanh Văn 29 cuốn trong Tam Tạng Kinh Điển đã được ấn hành và công bố. Hiện nay con số đã lên đến 44 cuốn.

Thành tựu đầy khích lệ đó nhờ nhiều yếu tố. Bên cạnh sự hướng dẫn tinh thần của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ và chư tôn đức trưởng lão còn có sự đóng góp của nhiều tăng sĩ, cư sĩ Phật giáo thuộc thế hệ trẻ xuất gia tu học hay thành tài sau 1975 và hành đạo tại nhiều quốc gia trên thế giới. Các bậc tăng tài trẻ đó đến với GHPGVNTN bằng con đường thời đại rộng mở thay vì những lối hẹp không còn thích hợp với kỷ nguyên toàn cầu hóa thông tin.

Kỳ diệu thay! Sau gần nửa thế kỷ ngưng trệ vì nhiều lý do và 17 trong số 18 bậc tôn đức trưởng lão trong Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng được thành lập năm 1973 đã viên tịch nhưng những lời dạy của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni vẫn tiếp tục chảy vào dòng văn hóa Việt Nam và dòng văn minh nhân loại.

Sáu mươi năm trước, các tôn đức trưởng lão đã ý thức được tầm quan trọng của thế hệ tăng sĩ tương lai khi mời Đại đức Tuệ Sỹ chỉ mới 28 tuổi vào Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng. Sáu mươi năm sau, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư Ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống GHPGVNTN, đã “nối lại và mở rộng con đường của 25 thế kỷ truyền trì đạo lý giải thoát giác ngộ bằng phương tiện và kỹ thuật hiện đại, sao cho những thế hệ tương lai có thể tiếp nhận Phật pháp một cách hiệu quả và thích hợp nhất hầu áp dụng vào cuộc sống đầy biến động và thay đổi từng ngày của ngôi làng thế giới.”

Kẻ trước người sau nhưng không ai đến trễ để đóng góp vào sự nghiệp hiển dương ánh sáng từ bi và trí tuệ của đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni. Thời gian và phương tiện khác nhau nhưng cùng một tâm nguyện hoằng pháp độ sanh.

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ cũng biết việc mở cánh cửa, dựng lối vào cũng chỉ là phương tiện, đào tạo tăng tài để bước vào cánh cửa đó mới chính là mục tiêu quan trọng của GHPGVNTN hôm nay và mai sau. Một căn nhà đẹp bao nhiêu nhưng không được gìn giữ, sửa sang, một ngày cũng dột nát và sụp đổ. Truyền thống nếu không biết phát huy thì sớm hay muộn cũng sẽ trở thành một thói quen lạc hậu.

Lá thư “Thư gửi các tăng sinh Thừa Thiên-Huế” của Hòa thượng là lá thư ngắn nhưng được trích dẫn nhiều nhất trong 20 năm qua. Lý do, đó là lời căn dặn chân thành của Hòa thượng đến thế hệ tăng sĩ trẻ: “Người xuất gia, khi cất bước ra đi, là hướng đến phương trời cao rộng; tâm tính và hình hài không theo thế tục, không buông mình chìu theo mọi giá trị hư dối của thế gian, không cúi đầu khuất phục trước mọi cường quyền bạo lực. Một chút phù danh, một chút thế lợi, một chút an nhàn tự tại; đấy chỉ là những giá trị nhỏ bé, tầm thường và giả ngụy, mà ngay cả người đời nhiều kẻ còn vất bỏ không tiếc nuối để giữ tròn danh tiết.”

Tất cả rồi sẽ phôi phai nhưng những lời vàng ngọc đó sẽ là hành trang đầy ắp tình thương và Phật chất để các thế hệ tăng sĩ mang theo trong lý tưởng cứu đời. Một giáo hội, trong trường hợp này là GHPGVNTN, thuận với lòng người, hợp với nhu cầu của đất nước và hướng đi của thời đại, sẽ tồn tại mãi mãi cùng dân tộc.

Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là ba bậc tôn đức khai sáng một thời đại mới của Phật giáo Việt Nam. Nhìn lại những năm tháng đầy đau thương, chịu đựng trong lao tù mà các tôn đức phải trải qua thật không khỏi đau lòng.

Dù bao nhiêu đau thương, chịu đựng dòng Suối Từ kỳ diệu Phật Giáo Việt Nam vẫn chảy. Mỗi thời kỳ đều có những bậc cao tăng thạc đức đứng ra chèo lái con thuyền đạo pháp. Những chịu đựng hy sinh của các ngài sẽ không rơi vào quên lãng mà đã nở thành những bông Hoa Đàm làm đẹp con đường hoằng dương Chánh Pháp của đức Thế Tôn.

Nhiều người lo lắng, một mai khi các bậc cao tăng thạc đức có liên hệ với GHPGVNTN viên tịch, các thế hệ tăng sĩ và Phật tử sau này sẽ không biết gì về GHPGVNTN. Không đúng. Lịch sử nhân loại đã chứng minh, bạo lực có thể thay đổi một thể chế nhưng không thể xóa đi một nền văn hóa và GHPGVNTN là một phần không thể thiếu của nền văn hóa Việt Nam.

GHPGVNTN, một giáo hội chính danh đại diện cho hai ngàn năm Phật Giáo Việt Nam đã vượt qua bao nhiêu chướng ngại từ bên ngoài và cả bên trong, sẽ tiếp tục tồn tại cùng dân tộc.

Hôm nay, Hòa thượng Tuệ Sỹ không còn trực tiếp dẫn dắt chúng ta nhưng đã để lại một nền móng vô cùng vững chắc, sinh động và thích nghi với thời đại. Hành trạng của quý ngài vẫn in dấu sâu đậm trong lòng Dân Tộc và Đạo Pháp. Tác phẩm của các ngài viết, những lời dặn dò của các ngài sẽ còn mãi mãi. Tiếng dương cầm vẫn réo rắt chảy theo dòng Suối Từ Bi. Đời người “như sương mai, như ánh chớp, mây chiều” nhưng ngọn lửa tin yêu và hy vọng không bao giờ tắt cho đến khi nào dân tộc Việt Nam còn tồn tại trên mặt đất này.

Xin cám ơn chư tôn đức tăng ni và quý đạo hữu đã nghe bài thuyết trình này.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Thị Nghĩa Trần Trung Đạo



none

    « Xem chương trước       « Sách này có 1547 chương »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...