Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 9 »»
» Tải tất cả bản dịch (file RTF)
» Hán văn » Phiên âm Hán Việt
» Càn Long (PDF, 1.4 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.76 MB) 
Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@pgvn.org
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.
KINH VĂN
Phẩm Từ lòng đất phóng lên, thứ mười lăm
Giải thích tên phẩm
[Đức Như Lai] là bậc thầy tôn nghiêm dạy đạo cao quý [nên chư Bồ Tát] tận tụy hết lòng kính phụng. [Vì vậy,] khi Như Lai ban ra một lời, khắp bốn phương [chư Bồ Tát từ trong lòng đất] đều phóng vọt lên, cho nên gọi tên là phẩm “Từ lòng đất phóng lên”.
[Đức Như Lai] trong ba đời giáo hóa hoằng đạo, ân huệ lớn lao khôn cùng, như một vầng trăng chiếu soi thành muôn bóng,[74] không ai suy lường nổi; nay triệu vời [chư Bồ Tát] quá khứ để chỉ bày [giáo pháp] hiện tại, rộng truyền kinh điển để làm lợi ích [thính chúng] đương thời; cho nên gọi tên là phẩm “Từ lòng đất phóng lên”.
Hư không tịch tĩnh an nhiên, vốn không có [thời điểm] trước sau sớm muộn, do kẻ mê bám chấp hình tích nên khuất lấp bản nguyên; nay quy tụ hình tích xưa để chỉ rõ việc hiện nay, phá chỗ gần để hiển lộ việc xa, cho nên gọi tên là phẩm “Từ lòng đất phóng lên”.
Thị hiện đạo trường tịch diệt, [đức Thế Tôn như] người cha trẻ; an trụ cõi Thường tịch quang, [chư Bồ Tát như] những đứa con già;[75] chỉ ra [ công năng của] liều thuốc [chánh pháp][76] để chúng sanh đều được biết, cho nên gọi tên là phẩm “Từ lòng đất phóng lên”. Đại lược là như thế.
[Phần kệ tụng trong] kinh văn nói:
“Các vị này từ đâu?
Nhân duyên gì quy tụ?”
Nay sẽ dùng những nghĩa như trên để giải thích phẩm này. Hiển lộ nhân duyên của bốn pháp tất đàn để giải thích, cho nên gọi tên là phẩm “Từ lòng đất phóng lên”.
Từ đây trở về cuối là phần thứ hai của đoạn lớn [trong toàn bộ kinh], mở bày chỗ hình tích gần đây (cận tích) của quan hệ thầy trò, hiển lộ chỗ bản nguyên xa xưa (viễn bản) của quả vị Phật. Kinh văn phần này lại chia làm 3 phần. Thứ nhất là từ trên cho đến câu “các ông nhân đó sẽ tự mình được nghe”. Đây là thuộc về phần mở đầu. Thứ hai là từ câu “Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ Tát Di-lặc” cho đến hết 19 khổ kệ do Bồ Tát Di-lặc nói ra trong phẩm Phân biệt công đức. Đây là thuộc phần chánh thuyết. Thứ ba là từ sau phần kệ tụng nói trên cho đến hết 11 phẩm rưỡi cuối kinh. Đây là thuộc phần lưu thông. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, những Bồ Tát từ các cõi nước phương khác đến, nhiều hơn số cát của tám con sông Hằng, đều đứng lên giữa đại chúng, cùng chắp tay đảnh lễ thưa với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu Thế Tôn cho phép chúng con sau khi Phật diệt độ được ở thế giới Ta-bà siêng năng tinh tấn, bảo vệ giữ gìn, tụng đọc, sao chép, cúng dường kinh điển này, thì chúng con sẽ giảng thuyết rộng kinh này ở đây.”
Khi ấy, đức Phật bảo các vị Đại Bồ Tát: “Thôi đi, các thiện nam tử! Không cần đến các ông hộ trì kinh này. Vì sao vậy? Thế giới Ta-bà của ta đã sẵn có những Bồ Tát nhiều như số cát của sáu mươi ngàn con sông Hằng, mỗi vị Bồ Tát ấy đều có số quyến thuộc cũng nhiều bằng số cát của sáu mươi ngàn con sông Hằng. Sau khi ta diệt độ, tất cả những vị này sẽ bảo vệ giữ gìn, tụng đọc, giảng rộng kinh này.”
Phần thứ nhất chia thành 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nói việc [các Bồ Tát từ trong lòng đất] phóng vọt lên; tổng đoạn thứ hai nêu nghi vấn [của đại chúng].
Tổng đoạn thứ nhất lại chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất nói các vị Bồ Tát phương khác xin được rộng truyền kinh này; đoạn thứ hai nêu việc Như Lai không cho phép; đoạn thứ ba nêu việc các Bồ Tát [từ trong lòng đất] phóng vọt lên.
Các vị Bồ Tát phương khác nghe [dạy rằng] việc rộng truyền kinh điển này được phước đức lớn lao, cho nên đều muốn phát nguyện ở lại cõi này để rộng truyền kinh. Do đó mà thưa thỉnh xin được phép làm.
Đức Như Lai ngăn lại việc này có 3 ý nghĩa. Thứ nhất, các Bồ Tát [đến từ] phương khác mỗi người đều đã có phần trách nhiệm riêng, nếu ở lại cõi này thì phải bỏ đi lợi ích ở cõi kia. Thứ hai, các Bồ Tát từ phương khác đến kết duyên với cõi Ta-bà này hãy còn mới mẻ cạn cợt, tuy có ý muốn rộng truyền kinh điển nhưng lợi ích sẽ không được lớn lao. Thứ ba, nếu cho phép các Bồ Tát phương khác rộng truyền kinh này thì không thể gọi lên các Bồ Tát từ phương dưới, như vậy thì không phá được hình tích [gần], không làm hiển lộ được [bản nguyên] xa xưa. Đó là 3 ý nghĩa của việc Như Lai ngăn lại không cho phép [các Bồ Tát phương khác rộng truyền kinh này].
Đức Như Lai gọi [các Bồ Tát từ] phương dưới lên cũng có 3 ý nghĩa. Thứ nhất là nghĩa chính đệ tử của Phật nên rộng truyền giáo pháp của Phật. Thứ hai là vì có nhân duyên sâu rộng nên có thể làm lợi ích rộng khắp cõi này, cũng làm lợi ích khắp các cõi của phân thân Phật, cũng làm lợi ích cho khắp các cõi nước phương khác. Thứ ba là có thể giúp khai mở phá trừ hình tích gần đây, hiển lộ bản nguyên xa xưa.[77] Do các ý nghĩa ấy nên ngăn cản các Bồ Tát phương khác mà gọi lên các Bồ Tát từ phương dưới.
KINH VĂN
Khi đức Phật vừa nói lời này, mặt đất ở khắp các cõi nước trong thế giới Ta-bà đều chấn động nứt ra, rồi từ trong lòng đất có vô số ngàn muôn ức vị Đại Bồ Tát đồng thời phóng vọt lên. Các vị Bồ Tát này đều có thân màu vàng ròng, đủ ba mươi hai tướng tốt, tỏa hào quang vô lượng, trước đó đều an trụ trong khoảng hư không bên dưới cõi Ta-bà. Các vị nghe âm thanh thuyết pháp của đức Phật Thích-ca Mâu-ni nên từ phương dưới hiện lên.
Mỗi một vị Bồ Tát ấy đều là bậc thượng thủ dẫn dắt đại chúng. Số lượng các vị Bồ Tát dẫn theo quyến thuộc nhiều như số cát của sáu mươi ngàn con sông Hằng [đã là rất nhiều], huống chi những vị dẫn theo quyến thuộc như số cát của năm mươi ngàn con sông Hằng [lại càng nhiều hơn nữa]; huống chi những vị dẫn theo số quyến thuộc như số cát của bốn mươi ngàn, ba mươi ngàn, hai mươi ngàn hoặc mười ngàn con sông Hằng [lại càng nhiều hơn nữa]; cho đến những vị dẫn theo số quyến thuộc như số cát của một sông Hằng, nửa sông Hằng, hoặc chỉ một phần tư, hoặc chỉ một phần trong ngàn muôn ức vô số phần cát sông Hằng [lại càng nhiều hơn nữa]; huống chi là những vị dẫn theo ngàn muôn ức vô số quyến thuộc, hoặc một tỷ, hoặc mười triệu, một triệu cho đến chỉ có mười ngàn, một ngàn, hoặc một trăm cho đến chỉ mười người; hoặc chỉ dẫn theo năm, bốn, ba, hai, một người đệ tử, hoặc những vị chỉ đi một mình, ưa thích hạnh xa lìa [lại càng nhiều hơn nữa. Sự so sánh như trên là vô lượng vô biên, dùng các phép tính toán thí dụ đều không thể biết được.[78]
Đoạn thứ ba từ câu “Khi đức Phật vừa nói ra lời này”, nêu việc các Bồ Tát [từ trong lòng đất] phóng vọt lên, chia làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là mô tả của người chép kinh; thứ hai là nêu việc [các Bồ Tát] thưa hỏi vấn an. Mỗi tiểu đoạn này đều có 5 phân đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất có 5 phân đoạn. Thứ nhất là nêu việc [các Bồ Tát từ trong lòng đất] phóng vọt lên. Thứ hai là mô tả thân tướng của các Bồ Tát ấy. Thứ ba là nêu trụ xứ trước đây của các Bồ Tát. Thứ tư là nêu việc các vị nghe lời [Phật Thích-ca] truyền gọi. Thứ năm là mô tả về quyến thuộc của các vị Bồ Tát này.
Nói về trụ xứ [phương dưới] tức là cõi Thường tịch quang. Thường là nghĩa đức “thường”; tịch là nghĩa đức “lạc”; quang là nghĩa hai đức “ngã” và “tịnh”. Đó là 4 đức của tạng pháp sâu kín. Trụ xứ của các vị Bồ Tát này chính là dùng pháp không trụ mà trụ nơi tạng pháp sâu kín. Nói phương dưới là hàm nghĩa đáy sâu của tánh pháp, là địa vị cùng cực của tông chỉ diệu huyền, cho nên nói là phương dưới. Ở bên dưới thì không thuộc bên này, giữa không trung thì không thuộc bên kia, không thuộc bên này cũng không thuộc bên kia, đó là trung đạo. Ra khỏi lòng đất mà không ở bên trên, cũng không ở mặt đất, không trên không dưới, trụ giữa không trung cũng là trung đạo.
Về nguyên do [các Bồ Tát] hiện đến, đó là nghe lời Phật truyền gọi mà đến, vì rộng truyền chánh pháp mà đến, vì phá sự bám chấp [vào hình tích gần đây] mà đến, vì hiển lộ bản nguyên [xa xưa] mà đến. Những nghĩa ấy đều giống như đã nói ở trước.
Về việc [các Bồ Tát] dẫn theo quyến thuộc, nếu thường tình thế gian thì cho rằng dẫn theo [số quyến thuộc] như số cát của sáu muôn, năm muôn con sông Hằng là nhiều, chỉ ba muôn, hai muôn là ít; những vị đi một mình là lẻ loi đơn độc. Nhưng nếu y theo hàm ý của kinh văn mà xét thì [số Bồ Tát dẫn theo quyến thuộc như số cát của] sáu muôn, năm muôn sông Hằng là ít, số [Bồ Tát] đi một mình là nhiều. Bởi vì kinh văn [có hàm ý nói] “những vị chỉ đi một mình, ưa thích hạnh xa lìa lại càng nhiều hơn nữa”.[79]
Nếu theo ý nghĩa pháp môn mà xét thì hết thảy đều là công đức của bậc đạo sư, có thể dẫn dắt đại chúng đến bảo sở, tức là giải thoát rốt ráo, nên biết rằng một mình không phải riêng lẻ mà [như số cát của] sáu muôn [sông Hằng] cũng không phải là nhiều.
[Ý nghĩa của] một tức là một đạo thanh tịnh, hai tức là định và tuệ, ba tức là giới, định và tuệ, bốn tức bốn đế, năm tức năm loại mắt, sáu tức sáu ba-la-mật. Mỗi một ba-la-mật đều đủ mười pháp giới, mỗi pháp giới đều có mười [pháp giới]. Mười tức có trăm, trăm tức đủ ngàn. Mười điều thiện tức có [đủ muôn điều thiện]. Một ba-la-mật có đủ muôn công hạnh, sáu ba-la-mật tức sáu mươi ngàn pháp môn. Nhiều không phải là nhiều, một không phải là ít. Không phải nhiều, không phải ít nhưng là nhiều, là ít. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Các vị Bồ Tát ấy sau khi từ lòng đất phóng lên rồi, mỗi vị đều đến chỗ tháp bảy báu của đức Như Lai Đa Bảo và đức Phật Thích-ca Mâu-ni trên hư không, cùng hướng về hai vị Thế Tôn, cúi đầu áp mặt đảnh lễ dưới chân các ngài, lại cũng đảnh lễ chư Phật ở các tòa sư tử dưới những cội cây báu. [Sau đó các vị] đi nhiễu quanh về bên phải [hai đức Thế Tôn] ba vòng rồi chắp tay cung kính, dùng những cách xưng tán khen ngợi của hàng Bồ Tát để xưng tán. Rồi các vị cùng đứng sang một bên, hân hoan chiêm ngưỡng hai đức Thế Tôn.
Từ lúc các vị Bồ Tát từ trong lòng đất phóng vọt lên rồi dùng đủ các pháp xưng tán để ngợi khen xưng tán Phật, thời gian trải qua đến năm mươi tiểu kiếp. Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni vẫn ngồi an tịnh, cả bốn chúng trong pháp hội cũng đều lặng yên an tịnh. Do thần lực của Phật nên đại chúng chỉ cảm thấy như trải qua nửa ngày. Bấy giờ, cũng do thần lực của Phật, bốn chúng đều nhìn thấy các vị Bồ Tát này biến hiện đầy khắp hư không trong vô số trăm ngàn muôn ức cõi nước.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Các vị Bồ Tát ấy sau khi từ lòng đất phóng lên…”, nêu việc [các Bồ Tát] thưa hỏi vấn an [đức Phật] , chia làm 5 phân đoạn. Thứ nhất, [các vị Bồ Tát] dùng ba nghiệp [thân, khẩu, ý] cúng dường Phật; thứ hai, trình bày lời thưa hỏi vấn an; thứ ba, Phật đáp lời cho biết Phật an vui; thứ tư, [các Bồ Tát] đọc kệ vui theo; thứ năm, đức Như Lai khen ngợi.
Phân đoạn thứ nhất, [các Bồ Tát dùng] ba nghiệp cúng dường. “Thời gian trải qua đến 50 tiểu kiếp”, lại nói “bốn chúng đều nhìn thấy”, đó là nghĩa che khuất đi thời gian dài mà hiển thị thời gian ngắn. Lại nhờ vào thần lực [của Phật] mà nhìn thấy [không gian] nhỏ hẹp trở thành rộng lớn khắp cùng. Cả hai việc như vậy đều là không thể nghĩ bàn.
[Các vị Bồ Tát] lễ bái, nhiễu quanh Phật là [cúng dường bằng] thân, theo đúng pháp xưng tán là [cúng dường bằng] khẩu, chiêm ngưỡng Phật là [cúng dường bằng] ý.
Năm mươi tiểu kiếp lại khiến cho cảm thấy như nửa ngày, đó là thời gian không thể nghĩ bàn. Chỗ thấy của đức Như Lai vốn không có hai tướng phân biệt, các vị Bồ Tát đến từ phương dưới lúc nào cũng chiêm ngưỡng xưng tán Phật, đức Như Lai lúc nào cũng lặng yên thọ nhận sự xưng tán ấy, người thấu hiểu thì biết thời gian ngắn tức là dài, gọi là 50 tiểu kiếp; người mê hoặc thì đối với thời gian dài mà cho là ngắn, gọi là chỉ như nửa ngày. Đây là vì [phân biệt rõ] bản nguyên với hình tích mà bày ra để dẫn dắt. Khi đức Như Lai chưa nói ra thì mê mờ không thấy bản nguyên, bám chấp hình tích; lúc Phật đã khai mở chỉ bày thì thấu hiểu được [hình tích] gần đây, rõ biết [bản nguyên] xa xưa, cũng là cái biết không thể nghĩ bàn thứ nhất.
Bốn chúng nhìn thấy chư Bồ Tát biến hiện khắp nơi, đó cũng là việc không thể nghĩ bàn. Vì thường thì chỗ thấy của phàm phu (nhục nhãn) cũng như chư thiên (thiên nhãn) đều có giới hạn, không thể nhìn thấy quá xa, nhưng nay lại thấy được “đầy khắp hư không”. Thấy mưa to thì biết là có rồng lớn, thấy hoa sen tươi tốt thì biết là hồ nước sâu, thấy [chư Bồ Tát] ứng hiện đầy khắp hư không thì biết là chân thật đầy khắp pháp giới.
KINH VĂN
Trong số các vị Bồ Tát này có bốn vị Đạo sư, vị thứ nhất tên là Thượng Hạnh, vị thứ hai là Vô Biên Hạnh, vị thứ ba là Tịnh Hạnh và vị thứ tư là An Lập Hạnh. Bốn vị Bồ Tát này là những bậc thầy dẫn dắt, mỗi vị đều đứng ra trước đại chúng, cùng chắp tay chiêm ngưỡng Phật và thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Ngài có được ít bệnh não và thường an vui chăng? Những chúng sinh cần hóa độ có dễ giáo hóa chăng? Có làm cho Thế Tôn phải mệt nhọc chăng?”
Bấy giờ, bốn vị Đại Bồ Tát [muốn lặp lại ý nghĩa thưa hỏi nên] đọc kệ rằng:
Thế Tôn có an vui?
Có ít bệnh não chăng?
Việc giáo hoá chúng sinh,
Có mệt nhọc hay chăng?
Lại nữa, các chúng sinh,
Giáo hóa dễ dàng chăng?
Có khiến đức Thế Tôn,
Phải sinh nhọc nhằn chăng?
Phân đoạn thứ hai nêu việc các Bồ Tát thưa hỏi vấn an lại có 2 tiểu ý.] Thứ nhất, nêu tên 4 vị đạo sư; thứ hai, trình bày lời thưa hỏi vấn an. Phần thưa hỏi vấn an lại chia làm hai, gồm văn trường hàng và kệ tụng. Phần văn trường hàng cũng chia làm hai. Thứ nhất thưa hỏi Như Lai có được an vui, thứ hai thưa hỏi chúng sanh có dễ hóa độ. Đại lược là như vậy.
Chỉ nêu tên 4 vị, là nêu ý [Như Lai] đã dự định sẽ “khai, thị, ngộ, nhập” [đưa thính chúng thể nhập] 40 quả vị, cũng như trong kinh Hoa Nghiêm chỉ nêu 4 vị Pháp Tuệ, Đức Lâm, Kim Tràng, Kim Tạng để thuyết giảng về 40 quả vị. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
Bấy giờ đức Thế Tôn ở giữa đại chúng Bồ Tát đáp lại rằng: “Đúng vậy, đúng vậy. Này các thiện nam tử! Như Lai an vui, ít bệnh não, các chúng sanh đều được hóa độ dễ dàng không mệt nhọc. Vì sao vậy? Những chúng sanh này từ nhiều kiếp quá khứ đến nay vẫn thường được ta giáo hóa, lại cũng từng cúng dường tôn kính chư Phật quá khứ, trồng các căn lành. Những chúng sanh như vậy vừa được nhìn thấy thân ta, nghe tiếng thuyết pháp của ta thì đều tin nhận rồi thể nhập trí tuệ Như Lai, chỉ trừ những ai trước đây đã tu học theo Tiểu thừa. Nhưng những người đã học Tiểu thừa thì hôm nay ta cũng khiến cho được nghe kinh [Pháp hoa] này rồi thể nhập trí tuệ Phật.”
Phân đoạn thứ ba, đức Như Lai đáp lời thưa hỏi vấn an [của các Bồ Tát], có 2 ý. Thứ nhất, Như Lai an vui; thứ hai, chúng sanh dễ hóa độ. Hai việc này thành tựu tương quan, vì được an vui nên chúng sanh dễ hóa độ, vì chúng sanh dễ hóa độ nên được an vui. Thứ hai, chúng sanh dễ hóa độ, phân thành hai tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất là những chúng sanh căn tánh nhanh nhạy, phước đức sâu dày, từ nhiều kiếp quá khứ đến nay thường được giáo hóa bằng giáo pháp Đại thừa, cho nên vừa nhìn thấy thân Phật liền tiếp thụ giáo pháp Hoa nghiêm, thể nhập trí tuệ Phật, như trái cây đã chín mùi nên dễ rụng. Đó là những chúng sanh dễ hóa độ.
Tiểu ý thứ hai là những chúng sanh căn cơ trì độn, phước đức mỏng manh cạn cợt, từ nhiều kiếp quá khứ đến nay không được thọ nhận sự giáo hóa bằng Đại thừa. [Phật] vì những người này nên khai mở sự trì độn, thuyết dạy giáo pháp tu tập từng bước theo thứ lớp như Tạng giáo, Phương đẳng, Bát-nhã… để điều phục họ. [Hôm nay Phật] cũng khiến cho những chúng sanh này được nghe kinh Pháp hoa, thể nhập trí tuệ Phật. Nếu so với những chúng sanh thuộc hạng trước thì có khó hóa độ hơn, nhưng đối với Phật vẫn là rất dễ, vì Phật rõ biết phương tiện thích hợp để đạt được kết quả giáo hóa, vỗ về tùy bệnh cho thuốc, đến khi đạt ngộ thì trí tuệ tương đồng. Nay lược nêu 10 điều để giải thích về phương tiện thích hợp của Phật.
Thứ nhất, có chỗ thấy ban đầu hoặc chỗ thấy ngày nay.
Thứ hai, [thuyết pháp] có khai có hợp hoặc không khai không hợp.
Thứ ba, có rộng về chiều dọc hoặc lược về chiều ngang.
Thứ tư, có một bản nguyên nhiều hình tích hoặc nhiều hình tích chung cùng một bản nguyên.
Thứ năm, có giảng giải thêm hoặc không giảng giải thêm.
Thứ sáu, có cõi nước biến hiện hoặc cõi nước không biến hiện.
Thứ bảy, có nhiều nơi chốn hoặc không nhiều nơi chốn.
Thứ tám, có bác bỏ hoặc không bác bỏ.
Thứ chín, có chỉ thẳng làm rõ pháp chân thật hoặc khai mở trừ bỏ pháp quyền thừa để hiển bày pháp chân thật.
Thứ mười, có căn cơ nhanh nhạy sớm thuần thục hoặc căn cơ trì độn chậm thuần thục.
Thứ nhất, chỗ thấy lúc Phật mới thành đạo gọi là chỗ thấy ban đầu; trên pháp tòa giữa hội Pháp hoa lâu xa về sau mới chỉ bày chân thật gọi là chỗ thấy ngày nay.
Thứ hai, như mặt trời vừa lên, trước hết soi chiếu trên núi cao, tức là [thuyết kinh Hoa nghiêm dạy thẳng] pháp đốn ngộ, không khai không hợp; vì những người chưa thể nhập được nên khai mở pháp đốn mà nói pháp tu tập dần dần theo thứ lớp. [Dùng năm thời thuyết giáo như] năm vị của sữa để điều phục dần dần khiến quay về thể nhập pháp đốn ngộ.
Thứ ba, bậc đốn ngộ trực nhập pháp giới nên nói là rộng về chiều dọc, không qua thời gian; không trải qua các pháp phương tiện, cho nên nói là lược về chiều ngang, [tức nhất thời chứng ngộ]. Nay trải qua [năm thời thuyết giáo như] năm vị của sữa, tức là rộng về chiều ngang, [trải qua thời gian mới chứng ngộ], khi được thể nhập trí tuệ Phật cũng là rộng về chiều dọc.
Thứ tư, [ví như đóa hoa sen chỉ] một đài hoa là một bản nguyên, nở ra ngàn cánh sen là nhiều hình tích. Những hình tích ấy đều không khác với các kinh điển, nên nói là cùng một bản nguyên; bản nguyên ấy không giống như kinh điển nên gọi là riêng khác.
Thứ năm, [giảng giải thêm là như] thêm vào 4 vị Bồ Tát để thuyết giảng 40 quả vị; như Phật tự thuyết ra các nghĩa “khai, thị, ngộ, nhập” thì không thêm vào người khác.
Thứ sáu, thế giới Hoa Tạng[80] nên cõi nước không biến hiện; hai lần biến đổi mặt đất nên gọi là cõi nước biến đổi.
Thứ bảy, [như Phật thuyết kinh Hoa nghiêm có] tám pháp hội ở bảy nơi là nhiều nơi chốn; [pháp hội Pháp hoa] từ núi Kỳ-xà-quật mở rộng khắp hư không nên không nhiều nơi chốn.
Thứ tám, trừ bỏ hóa thành, đổi khách lạ [thành con trong nhà], cho nên nói là bác bỏ; không có những việc như vậy là không bác bỏ.
Thứ chín, theo đường lớn thẳng tắt [Đại thừa] nên gọi là chỉ thẳng làm rõ pháp chân thật; giảng rõ pháp Thanh văn là khai mở trừ bỏ pháp quyền thừa để hiển bày pháp chân thật.
Thứ mười, căn cơ nhanh nhạy, cơ duyên thuần thục nên ngay ban đầu [sau khi Phật thành đạo] đã thể nhập trí tuệ Phật; căn cơ trì độn đợi sau mới thuần thục nên hôm nay [trong hội Pháp hoa] thể nhập trí tuệ Phật.
Nhân duyên thích hợp [của chúng sanh] không giống nhau nên chỉ lược nói mười trường hợp khác biệt [như trên], nhưng hạt giống trí tuệ trong khắp pháp giới đều bình đẳng không khác biệt. Do vậy, Kinh văn nói: “Vừa được nhìn thấy thân ta, nghe tiếng thuyết pháp của ta thì đều tin nhận rồi thể nhập trí tuệ Như Lai, chỉ trừ những ai trước đây đã tu học theo Tiểu thừa. Nhưng những người đã học Tiểu thừa thì hôm nay ta cũng khiến cho được nghe kinh [Pháp hoa] này rồi thể nhập trí tuệ Phật.” Chỗ này đã nói rất rõ ràng, không nên nghi ngờ.
Các bậc thầy nhìn thấy nhân duyên khác biệt liền theo nhân duyên khác biệt đó mà giảng giải mê mờ, không biết rằng như vậy ngược lại càng thêm xa cách đạo. Nếu rõ biết lẽ thật vốn đồng thì ngàn bánh xe đi chung đường vẫn theo cùng một dấu vết, trí tuệ Phật vốn không có khác biệt.
Các nhà cựu giải cho rằng: “Hoa nghiêm giảng nghĩa rốt ráo, ví như trọn chữ,[81] là pháp thường trụ. Pháp hoa giảng nghĩa không rốt ráo, ví như chưa trọn chữ, là pháp không thường trụ.”
Nay dùng chính kinh văn phần này để giải thích. Nếu như thể nhập [trí tuệ Phật] ngay ban đầu [sau khi Phật thành đạo][82] là nghĩa rốt ráo, còn đến ngày nay [khi nghe kinh Pháp hoa] thể nhập trí tuệ Phật là không rốt ráo, vậy thì sự thể nhập lúc ban đầu đó là trí tuệ Phật, còn ngày nay thể nhập thì không phải trí tuệ Phật hay sao? Còn nếu như trí tuệ Phật vốn đã là như nhau, thì nghĩa rốt ráo cũng giống nhau không khác. Với các nghĩa “trọn chữ” hay “thường trụ” cũng đều như vậy. Đại lược là như thế.
Phái Địa luận cho rằng Hoa nghiêm là tông chỉ viên mãn, còn Pháp hoa không phải tông chỉ chân thật. Nay cũng dùng Kinh văn phần này để giải thích [như trên].
KINH VĂN
Bấy giờ, các vị Đại Bồ Tát liền nói kệ rằng:
“Lành thay, thật lành thay!
Đức Thế Tôn Đại Hùng!
Khi những chúng sanh ấy,
Dễ dàng được hóa độ,
Có thể thưa hỏi Phật,
Về trí tuệ sâu xa,
Rồi tin theo, thực hành,
Chúng con đều vui theo.”
Phân đoạn thứ tư, các Bồ Tát nghe Phật đáp lời sinh lòng vui theo. Về người thưa hỏi thì trong kinh Hoa nghiêm là bốn vị Đại sĩ. Trong kinh Pháp hoa này, ngài Xá-lợi-phất thưa thỉnh 3 lần đều là thưa hỏi. Về việc thưa hỏi thì chính là hỏi về trí tuệ Phật.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Như Lai ngợi khen các vị Đại Bồ Tát thượng thủ rằng: “Lành thay, lành thay, các thiện nam tử! Các ông có thể đối với [việc làm của] đức Như Lai sinh lòng vui theo.”
Phân đoạn thứ năm, đức Như Lai nhắc lại và khen ngợi. [Nội dung nhắc lại] rất khác so với nội dung thưa hỏi. Các Bồ Tát [đọc kệ] vui theo vì những người thưa hỏi đều là hàng Bồ Tát “có thể thưa hỏi Phật, về trí tuệ sâu xa”, và những người được giáo hóa thì sau khi nghe [Phật thuyết giảng] “rồi tin theo thực hành”, do vậy nên nói “chúng con đều vui theo”. Nhưng trong lời đức Như Lai nhắc lại thì nói rằng “với việc làm của đức Như Lai sinh lòng vui theo”, tức là nói về người giáo hóa.
Vậy ý nghĩa [khác biệt] này là thế nào? Vì những người thưa hỏi vốn đều là cổ Phật,[83] nên nói “các ông có thể… sinh lòng vui theo” tức là nói [vui theo] Như Lai. Như vậy, các Bồ Tát [đọc kệ] vui theo là nói theo nghĩa hình tích hiện ra; đức Như Lai nhắc lại và khen ngợi là theo nghĩa bản nguyên xa xưa. Đây cũng là ngầm nêu ý nghĩa thọ lượng [của Như Lai]. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc cùng với đại chúng Bồ Tát nhiều như số cát của tám ngàn con sông Hằng đều khởi lên ý nghĩ rằng: “Từ xưa nay chúng ta chưa từng nhìn thấy, chưa từng nghe biết về những vị Đại Bồ Tát này, [nay lại thấy] từ trong lòng đất phóng vọt lên đứng trước đức Thế Tôn, chắp tay cung kính cúng dường, thưa hỏi Như Lai.”
Từ câu “Khi ấy Bồ Tát Di-lặc cùng với đại chúng Bồ Tát nhiều như số cát của tám ngàn con sông Hằng”[84] trở đi là tổng đoạn thứ hai, mở đầu nghi vấn.
[Bồ Tát Di-lặc tự trình bày đại ý rằng,] đối với hết thảy những vị Đại sĩ từ mười phương không ngừng hiện đến các pháp hội, từ đạo tràng [khi đức Thế Tôn thành đạo] cho đến pháp tòa hôm nay, tuy số nhiều không có giới hạn nhưng con có thể dùng sức trí tuệ của Bồ Tát Bổ xứ[85] nên đều thấy biết tất cả, vậy mà trong chúng [Bồ Tát từ lòng đất phóng lên] đây con không biết được vị nào cả. Hơn nữa con từng đi giáo hóa khắp mười phương, kề cận phụng sự chư Phật, nên đối với đại chúng của chư Phật con cũng đều quen biết rõ, nhưng xét lại trong những nơi đã từng đi qua cũng không nhận ra được vị nào [trong chúng Bồ Tát này]. Suy xét như vậy đều không biết được chuyện đến hay đi [của đại chúng Bồ Tát này].
Vì các bậc Đại sĩ [từ lòng đất phóng lên] kia vốn đã tu tập trước, thành tựu trước, ngài Di-lặc là hàng hậu bối, theo học về sau. Người đến sau không thể biết người đi trước, cho nên không biết ai trong số Bồ Tát này.
Lại nữa, những vị Đại sĩ kia vốn từ nơi tận cùng của bản nguyên thật tướng mà ứng hiện khắp mười phương, mỗi nơi giáo hóa riêng biệt đều ứng hiện chân thật, không phải cùng cảnh giới như ngài Di-lặc, cho nên không thể biết được các ngài.
Lại nữa, đức Phật vì giao phó việc rộng truyền kinh điển nên mới triệu tập các vị Đại sĩ này. Các vị nghe mệnh lệnh của thầy nên đến, cũng là ngấm ngầm để nghe về thọ lượng [Như Lai], không phải việc đại chúng đương thời biết được, cho nên nói là không biết.
Như trên là dựa theo ý nghĩa bốn tất đàn[86] để giải thích phần mở đầu nghi vấn. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di-lặc rõ biết ý nghĩ trong tâm của chúng Bồ Tát nhiều như số cát tám ngàn con sông Hằng, đồng thời cũng muốn giải đáp mối nghi của chính mình, nên liền chắp tay cung kính hướng về đức Phật đọc kệ thưa hỏi rằng:
Tổng đoạn nêu nghi vấn chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất là nghi vấn của Bồ Tát ở cõi này, đoạn thứ hai là nghi vấn của Bồ Tát ở các cõi khác.
Đoạn thứ nhất nêu nghi vấn của Bồ Tát ở cõi này lại có 2 phần, trường hàng và kệ tụng. Phần văn trường hàng chỉ nói việc khởi ý niệm nghi; phần kệ gồm 19 khổ rưỡi kệ là nêu chính thức nội dung thưa hỏi.
KINH VĂN
“Vô số ngàn muôn ức,
Đại chúng chư Bồ Tát,
Xưa nay chưa từng thấy.
Kính xin Phật chỉ dạy:
Các vị này từ đâu?
Nhân duyên gì quy tụ?
Thân lớn, thần thông lớn,
Trí tuệ chẳng nghĩ bàn,
Chí nguyện thật kiên cố,
Có sức nhẫn nhục lớn,
Chúng sanh đều ưa nhìn.
Là từ đâu đến đây?
Mỗi một Bồ Tát ấy,
Đều dẫn theo quyến thuộc,
Thật nhiều không kể xiết,
Như số cát sông Hằng.
Có những vị dẫn theo,
Sáu muôn Hằng sa người.
Những đại chúng như vậy,
Một lòng cầu Phật đạo.
Các đại sư như vậy,
Nhiều sáu muôn Hằng sa,
Cùng đến cúng dường Phật,
Và hộ trì kinh này.
Những vị mang năm muôn,
Số lượng còn nhiều hơn.
Hoặc bốn muôn, ba muôn,
Hai muôn hoặc một muôn,
Hay một ngàn, một trăm…
Cho đến một sông Hằng,
Một nửa, ba, bốn phần,
Một phần trong muôn ức,
Hoặc ngàn muôn vô số,
Có muôn ức đệ tử,
Thậm chí năm mươi ngàn,
Số lượng càng nhiều hơn.
Hoặc một triệu, mười ngàn,
Một ngàn hay một trăm…
Năm mươi cho đến mười…
Thậm chí ba, hai, một,
Đơn độc không quyến thuộc,
Vui sống đời cô độc,
Cũng đều đến chỗ Phật,
Số lượng càng nhiều hơn.
Tổng số các vị này,
Nếu có người tính đếm,
Trải qua Hằng sa kiếp,
Cũng không thể biết hết.
Các bậc oai đức lớn,
Bồ Tát tinh tấn này,
Được nghe ai thuyết pháp,
Giáo hóa cho thành tựu?
Theo ai mà phát tâm?
Xưng dương pháp Phật nào?
Thực hành, trì kinh nào?
Tu pháp nào của Phật?
Phần kệ thưa hỏi lại chia làm 5 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 5 câu kệ, nêu hỏi các Bồ Tát từ đâu đến.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Nhân duyên gì quy tụ” trở đi, gồm 7 câu kệ, thưa hỏi về nhân duyên [các Bồ Tát] đến đây.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Mỗi một Bồ Tát ấy” trở đi, gồm 9 khổ kệ nói về số lượng các vị Bồ Tát ấy.
Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Các bậc oai đức lớn” trở đi gồm 2 khổ kệ, thưa hỏi về bậc thầy của các vị Bồ Tát này là ai.
KINH VĂN
Các Bồ Tát như vậy,
Thần thông, trí lực lớn,
Đất bốn phương động nứt,
Từ dưới phóng vọt lên.
Thế Tôn! Từ xưa nay,
Con chưa từng được thấy.
Xin cho biết: từ đâu,
Cõi nước tên là gì?
Chúng con qua nhiều nước,
Chưa từng thấy các vị.
Thậm chí trong các vị,
Không nhận biết vị nào,
Bỗng phóng lên từ đất.
Nguyện Phật nói nhân duyên,
Nay trong đại hội này,
Có vô số muôn ngàn,
Các vị Đại Bồ Tát,
Đều muốn biết sự việc.
Về nhân duyên nguồn ngọn,
Của chúng Bồ Tát này.
Thế Tôn vô lượng đức,
Nguyện dứt lòng chúng nghi.
Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Các Bồ Tát như vậy, thần thông, trí lực lớn” trở đi gồm 5 khổ rưỡi kệ là phần tóm kết thưa thỉnh. Tiểu đoạn này lại có 5 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất gồm 2 câu đầu, tóm kết và khen ngợi [các Bồ Tát].
Phân đoạn thứ hai từ câu “Đất bốn phương động nứt” trở đi gồm 2 khổ kệ, thưa thỉnh việc các Bồ Tát này từ đâu đến.
Phân đoạn thứ ba từ câu “Thậm chí trong các vị, không nhận biết vị nào” trở đi gồm một khổ kệ, thưa thỉnh về nhân duyên các Bồ Tát đến đây.
Phân đoạn thứ tư từ câu “Nay trong đại hội này” trở đi gồm một khổ rưỡi kệ, nêu ý tất cả chúng hội cùng thỉnh cầu.
Phân đoạn thứ năm gồm hai câu “Thế Tôn vô lượng đức, nguyện dứt lòng chúng nghi”, nêu ý thỉnh cầu đức Phật giải đáp. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, các vị Phật phân thân của đức Phật Thích-ca Mâu-ni đến từ vô số ngàn muôn ức cõi nước phương khác đang ngồi kết già trên tòa sư tử dưới các cội cây báu trong tám phương. Những thị giả của các đức Phật phân thân này, mỗi người đều nhìn thấy các Bồ Tát trong khắp thế giới đại thiên ở bốn phương từ trong lòng đất phóng vọt lên rồi trụ yên trong hư không, liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Đại chúng vô lượng vô biên a-tăng-kỳ Bồ Tát này là từ đâu đến đây?”
Khi ấy, mỗi vị Phật phân thân đều bảo các thị giả của mình: “Các thiện nam tử! Hãy chờ trong giây lát, có vị Đại Bồ Tát hiệu là Di-lặc, là người được đức Phật Thích-ca Mâu-ni thụ ký sẽ thành Phật tiếp theo, đã thưa hỏi việc này rồi. Nay đức Phật Thích-ca Mâu-ni sẽ trả lời và các ông nhân đó sẽ tự mình được nghe.”
Đoạn thứ hai nêu nghi vấn của Bồ Tát ở các cõi khác, nói rõ những vị đi theo [chư Phật] phân thân [của Phật Thích-ca] dàn trải trong khắp mười phương đều cùng một lòng nghi với ngài Di-lặc. [Nêu việc chúng hội ở] cõi này và các cõi khác đều không rõ biết bản nguyên, đó là muốn làm rõ việc [Phật] thành đạo đã rất lâu xa. [Nên đoạn này nói các vị thị giả] mỗi người đều trình bày chỗ nghi và các vị Phật [phân thân] đều dạy rằng hãy chờ đợi vì ngài Di-lặc đã thưa hỏi. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ Tát Di-lặc: “Lành thay, lành thay, A-dật-đa![87] Ông đã có thể thưa hỏi Phật việc quan trọng này. Các ông nên cùng nhau chú tâm, mặc vào áo giáp tinh tấn, phát khởi ý nguyện kiên cố, nay đức Như Lai muốn hiển lộ, giảng thuyết, chỉ bày về trí tuệ của chư Phật, về sức thần thông tự tại của chư Phật, về sức phấn chấn nhanh nhạy như sư tử của chư Phật, về uy thế mạnh mẽ lớn lao của chư Phật.”
Từ câu “Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ Tát Di-lặc” trở đi là phần Chánh thuyết, [bắt đầu phần thứ hai của phẩm này].
[Tổng đoạn thứ nhất] có kinh văn trường hàng và kệ tụng, đều nêu ý răn dạy và hứa khả. Phần kinh văn trường hàng nêu nội dung chính, trước là nhắc lại [ý thưa hỏi] và ngợi khen, sau là răn dạy. Phần răn dạy nêu các ý khuyên đừng bối rối, đừng buông thả và đừng thối lui. Tiếp theo, Phật hứa sẽ thuyết về trí tuệ quả vị Phật. Trí tuệ quả vị Phật đó chính là chỗ thấy biết của Như Lai, chỗ thấy biết của quả vi diệu. Phần tiếp theo mở bày sự giáo hóa là nói rõ cho biết. “Sức thần thông tự tại của chư Phật” là từ trong quá khứ đã làm lợi ích cho chúng sanh; “sức phấn chấn nhanh nhạy như sư tử của chư Phật” là các phân thân hiện tại của Phật trong khắp mười phương; hoặc cũng nói rằng “phấn chấn nhanh nhạy” là nói trước tướng trạng tương lai, nêu sự lợi ích thường tồn cho chúng sanh đời sau; “uy thế mạnh mẽ lớn lao của chư Phật” là nói sự lợi ích cho chúng sanh đời sau; hoặc cũng có thể hiểu là sức mạnh trong hiện tại làm chấn động cả mười phương, tùy ý người [giảng giải] vận dụng, chỉ cần y theo thứ tự trong Kinh văn là tốt.
Lại theo ý riêng tôi cho rằng có thể hiểu theo ý bốn phẩm đức [của Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh]. Sức tự tại của Như Lai là ngã; thần thông là lạc; phấn chấn như sư tử là trừ cấu uế, tức là tịnh; uy thế mạnh mẽ lớn lao, lợi ích chúng sanh tương lai, tức là thường. Như vậy là theo ý bốn phẩm đức. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên thuyết lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Hãy tinh tấn, chú tâm,
Ta muốn dạy việc này.
Chớ sinh tâm nghi hối,
Trí Phật khó nghĩ bàn;
Khởi lòng tin mạnh mẽ,
Trụ pháp lành nhẫn chịu,
Pháp chưa từng được nghe,
Hôm nay sẽ được nghe.
Nay vỗ về các ông,
Chớ sinh lòng nghi sợ,
Lời Phật luôn chân thật,
Trí tuệ khó suy lường,
Phật đắc pháp tối thượng,
Sâu xa khó phân biệt;
Nay thuyết giảng pháp ấy,
Hãy một lòng lắng nghe.”
Phần kệ tụng gồm 4 khổ kệ.
Ba câu đầu tiên tụng 3 ý răn dạy.
Tiếp theo là 3 khổ kệ và một câu, tụng nghĩa Phật hứa khả. Câu đầu tiên “Trí Phật khó nghĩ bàn” nêu quả trí tuệ, ba khổ kệ tiếp theo tụng việc trong 3 đời.[88]
KINH VĂN
Khi ấy, đức Phật thuyết kệ rồi liền bảo Bồ Tát Di-lặc: “Nay giữa đại chúng này ta sẽ nói rõ với các ông. Này A-dật-đa! Vô số vô lượng a-tăng-kỳ Đại Bồ Tát này, từ trong lòng đất phóng vọt lên, trước đây các ông chưa từng nhìn thấy, đều là những Bồ Tát mà sau khi ta thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong cõi Ta-bà đã giáo hóa, chỉ bày, dẫn dắt, giúp điều phục tâm, khiến cho phát khởi tâm đạo.
“Các Bồ Tát này đều an trụ trong khoảng hư không bên dưới cõi Ta-bà, tụng đọc thông suốt Kinh điển, biết suy xét phân biệt, nghĩ nhớ chân chánh.
“Này A-dật-đa! Những vị thiện nam tử này không ưa thích chỗ đông người bàn luận, thường ưa thích nơi yên tĩnh; chuyên cần tu tập tinh tấn chưa từng dừng nghỉ, việc an trụ cũng không nương tựa trong hai cõi trời người; thường ưa thích trí tuệ sâu xa dứt sạch chướng ngại, lại cũng thường vui với pháp của chư Phật, một lòng tinh tấn cầu trí tuệ Vô thượng.”
Từ câu “Khi ấy, đức Phật thuyết kệ rồi” trở đi là đoạn lớn thứ hai thuộc phần Chánh thuyết, [là phần thứ ba của phẩm này]. Kinh văn phần này chia làm ba. Phần đầu tiên từ đây cho đến hết phẩm Thọ lượng của Như Lai, nội dung chính chỉ bày giảng giải [hình tích] gần đây, làm rõ [bản nguyên] xa xưa. Phần thứ hai là phần đầu của phẩm Phân biệt công đức, nêu tổng quát việc thọ nhận [đức Như Lai] thụ ký pháp thân. Phần thứ ba là Ngài Di Lặc trình bày tổng quát những chỗ tự mình nhận hiểu. Phần đầu tiên “giảng giải việc gần, làm rõ việc xa” lại có 2 phần. Trước tiên nói sơ lược ý nghĩa “giảng giải việc gần, làm rõ việc xa”, nêu việc [đại chúng] động vào tình chấp khởi sanh lòng nghi. Tiếp theo nói rộng ý nghĩa “giảng giải việc gần, làm rõ việc xa”, nêu việc dứt trừ nghi hoặc, sinh khởi niềm tin.[89]
Tổng đoạn thứ hai, phần nói sơ lược lại chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất mở ra chỉ bày sơ lược; đoạn thứ hai là nhân có lòng nghi nên mới thưa thỉnh.
Đoạn thứ nhất chỉ bày sơ lược lại chia ra trường hàng và kệ tụng, trong đó chỉ giải đáp 2 câu hỏi, không giải đáp câu hỏi về nhân duyên quy tụ. Do chưa được giải đáp nên có việc thưa thỉnh lần nữa.
Phần kinh văn trường hàng có hai câu giải đáp, hai phần giải thích, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Câu “an trụ trong khoảng hư không bên dưới” nêu nghĩa như Thích luận[90] có nói về Hữu để tán tam-muội (有底散三昧), có 4 cách giải thích. Thứ nhất, “hữu” là ba cõi hiện hữu;[91] “để” là cõi phi tưởng phi phi tưởng, vì sâu xa thù thắng nên gọi là “để”. Thứ hai, “hữu” là hình tướng tên gọi; “để” là nghĩa không; vì không là tịch tịnh nên gọi là “để”. Thứ ba, “hữu” là có 2 bên phân biệt nên là thế tục, “để” là bờ bến trí tuệ đã viên mãn trọn đủ, nên gọi là “để”. Thứ tư, nay theo kinh này dùng “khoảng hư không bên dưới” làm “để”, không phải cõi trên, không phải cõi dưới, đó là biểu thị cho trung đạo là “để”. Đây là dựa theo giáo nghĩa để phân biệt. Đại lược là như thế.
Từ câu “tụng đọc thông suốt Kinh điển”[92] trở đi nêu ý nghĩa [đức Phật là] bậc thầy nên rõ biết [các Bồ Tát] đệ tử có đầy đủ trí đức và đoạn đức.[93] Ban đầu là song song tu tập trí đức và đoạn đức, tiếp theo là chứng đạt trí đức và đoạn đức. Đối với kinh điển “biết suy xét phân biệt” là tu tập trí đức; “nghĩ nhớ chân chánh” là tu tập đoạn đức. “Không ưa thích chỗ đông người” là chứng đạt đoạn đức; “chuyên cần tu tập tinh tấn” là chứng đạt trí đức.
Từ câu “không nương tựa trong hai cõi trời người” là nêu nghĩa về nơi chốn. Cõi người và cõi trời là nhị biên phân biệt, không trụ vào đó cũng không bám chấp. “Trí tuệ sâu xa dứt sạch chướng ngại” là nương vào trí tuệ không thể nghĩ bàn. “Thường vui với pháp của chư Phật” là vui với cảnh không thể nghĩ bàn; cảnh giới trí tuệ rất vi tế, không thuộc về cận xứ và hành xứ của hàng Bồ Tát.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên thuyết lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“A-dật-đa nên biết,
Các Đại Bồ Tát này,
Vô số kiếp đến nay,
Tu tập trí tuệ Phật,
Đều do ta giáo hóa,
Khiến phát tâm Bồ-đề.
Họ đều là con ta,
Ở trong thế giới này,
Thường tu pháp đầu đà,
Ưa thích nơi yên tĩnh,
Tránh chỗ đông ồn ào,
Không ưa việc nói nhiều.
Những Phật tử như vậy,
Học tập pháp của Phật,
Ngày đêm thường tinh tấn,
Vì cầu được Phật đạo.
Trụ giữa chốn hư không,
Dưới thế giới Ta-bà,
Tâm chí, niệm lực vững,
Chuyên cần cầu trí tuệ,
Diễn thuyết các pháp mầu,
Trong tâm không sợ sệt.
Ta ở thành Già-da,
Ngồi dưới gốc Bồ-đề,
Thành bậc Chánh đẳng giác,
Chuyển pháp luân Vô thượng,
Giáo hóa các vị này,
Khiến phát tâm Bồ-đề,
Nay không còn thối chuyển,
Chắc chắn sẽ thành Phật.
Ta nay nói lời thật,
Các ông nên tin chắc:
Ta từ xưa đến nay,
Giáo hóa những vị này.”
Phần kệ tụng gồm 8 khổ rưỡi kệ, chia thành 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn đầu tiên có 5 khổ rưỡi kệ, tụng nghĩa giải đáp 2 câu thưa hỏi. Phần sau có 3 khổ kệ, tụng 2 ý giải thích. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Khi ấy, Đại Bồ Tát Di-lặc cùng với vô số các vị Bồ Tát đều sinh lòng nghi hoặc, cho là việc chưa từng có, nên tự nghĩ rằng: “Làm sao đức Thế Tôn trong một thời gian ngắn có thể giáo hóa được vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các vị Đại Bồ Tát như vậy, khiến cho đều trụ yên trong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?”
Đoạn thứ hai từ câu “Khi ấy, Đại Bồ Tát Di-lặc…” trở đi nêu ý nghĩa nhân vì có lòng nghi nên mới thưa thỉnh, gồm có 2 phần, kinh văn trường hàng và kệ tụng.
Phần kinh văn trường hàng có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là nói lên lòng nghi; tiểu đoạn thứ hai là thưa thỉnh [xin Phật giải đáp].
KINH VĂN
Nghĩ rồi liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Như Lai khi còn là thái tử, ra khỏi cung điện của họ Thích đi đến thành Già-da không xa, ngồi nơi Đạo trường mà thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, từ đó đến nay chỉ vừa hơn bốn mươi năm. Bạch Thế Tôn! Làm sao trong khoảng thời gian ngắn ấy có thể làm nên Phật sự lớn lao, dùng oai thế của Phật, dùng công đức của Phật để giáo hóa vô số Đại Bồ Tát như thế, đều sẽ thành tựu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Bạch Thế Tôn! Các vị Đại Bồ Tát này, giả sử như có người tính đếm trong muôn ức kiếp cũng không thể đếm hết đến người cuối cùng. Các vị Bồ Tát này từ lâu xa đến nay đã trồng các căn lành nơi đạo tràng của vô lượng vô biên các đức Phật, thành tựu đạo Bồ Tát, thường tu hạnh thanh tịnh. Bạch Thế Tôn! Việc này trong đời thật rất khó tin. Ví như có người tóc xanh dáng đẹp, tuổi chừng hai mươi lăm, chỉ vào người già trăm tuổi mà nói ‘đó là con tôi’; người già trăm tuổi cũng chỉ người trẻ tuổi mà nói ‘đó là cha tôi, đã sinh ra tôi và nuôi dưỡng’. Chuyện như vậy thật khó tin!
Tiểu đoạn thứ nhất nêu lòng nghi có 2 ý nghĩa. Thứ nhất là vì nghe phần trước [Phật nói sau khi thành đạo] dưới cội Bồ-đề mới giáo hóa [các Bồ Tát này] nên nay các vị đều trụ địa vị bất thối. Thứ hai là nghe [Phật nói] ta từ lâu xa đã giáo hóa chúng Bồ Tát này. Vì nghe hai lần thuyết dạy này không đúng như sự nhận hiểu bám chấp lâu nay nên khởi sinh lòng nghi. Từ câu “Nghĩ rồi liền thưa hỏi Phật” trở đi nêu việc khởi tâm nghi mạnh mẽ để thưa hỏi, chia thành 2 phân đoạn. Thứ nhất nêu pháp để nói chỗ nghi; thứ hai nêu thí dụ để nói chỗ nghi.
Phân đoạn thứ nhất nêu pháp có 3 ý.
Thứ nhất, nghi việc Phật thành đạo chỉ vừa gần đây mà chúng Bồ Tát được giáo hóa quá nhiều. Đây là do bám chấp nơi việc gần đây mà nghi ngờ việc xa xưa.
Thứ hai, từ câu “Bạch Thế Tôn! Các vị Đại Bồ Tát này” trở đi, nêu việc chúng Bồ Tát này đã rất đông mà hành trạng, quả vị đều thâm sâu vi diệu. Đây là do bám chấp việc xa xưa mà nghi ngờ việc gần đây.
Thứ ba, câu “Bạch Thế Tôn! Việc này trong đời thật rất khó tin” là phần kết lại để thưa thỉnh.
Phân đoạn thứ hai nêu thí dụ lại có 2 ý. Thứ nhất là mở ra trình bày các thí dụ; thứ hai là nêu nghĩa tương hợp với các thí dụ.
Ý thứ nhất, trình bày thí dụ lại có 3 tiểu ý.
Thứ nhất nêu thí dụ “tóc xanh dáng đẹp…” để ví như việc Phật thành đạo chỉ mới gần đây.
Thứ hai, “chỉ vào người già trăm tuổi” để ví với những Bồ Tát được Phật giáo hóa rất nhiều. Các bậc thầy ở Hoài Bắc nêu thí dụ để giải thích thí dụ. Thí dụ như người cha già uống thuốc hoàn xuân nên dung mạo trẻ lại trông giống như người mới tuổi 25; người con không dùng thuốc nên hình dạng như trăm tuổi. Nếu rõ biết tác dụng của thuốc thì không có sự nghi ngờ quan hệ cha con, chỉ vì không biết nên mới cho là kỳ lạ. Thật ra thì đức Như Lai dùng thuốc “thùy tích”[94] mà thị hiện vừa mới sinh ra ở thành Già-da; các vị Bồ Tát thì luận thẳng vào bản nguyên ban đầu nên vốn đã từ lâu xa phát tâm Bồ-đề, ngày nay trụ địa vị bất thối. Nếu là giữa Phật với Phật thì rõ biết ngay việc này, hàng Bồ Tát bên dưới không rõ biết nên không thể không có lòng nghi.
Thứ ba, câu “chuyện như vậy thật khó tin” là tiểu ý kết lại phần này.
KINH VĂN
Nay chuyện của Phật cũng giống như vậy, từ ngày thành đạo đến nay quả thật chưa bao lâu, còn đại chúng Bồ Tát này đã từ vô số ngàn muôn ức kiếp vì cầu Phật đạo mà chuyên cần tu tập tinh tấn, giỏi việc nhập, xuất và trụ trong vô số ngàn muôn ức pháp tam-muội, đạt được đại thần thông, từ lâu tu hạnh thanh tịnh, khéo tu tập tuần tự các pháp lành, giỏi việc vấn đáp, thật quý báu trong cõi người, thật rất hiếm có trong khắp thế gian.
Ý thứ hai từ câu “Nay chuyện của Phật cũng giống như vậy”, nêu nghĩa tương hợp với các thí dụ, có 2 tiểu ý.
Thứ nhất là tương hợp với thí dụ về việc gần đây, y theo kinh văn có thể hiểu được.[95]
Thứ hai từ câu “còn đại chúng Bồ Tát này” trở đi là tương hợp với thí dụ về việc xa xưa. Quán xét thấy các vị Bồ Tát này đã từ lâu trồng các căn lành, không phải chỉ mới phát tâm ở [cội Bồ-đề] nơi thành Già-da.
“Giỏi việc nhập, xuất và trụ”, có thể tuần tự nhập 9 bậc thiền định[96] là giỏi việc nhập định; nhanh nhạy phấn chấn như sư tử là giỏi xuất định; siêu việt là giỏi trụ trong định. Đây là giải thích theo Tạng giáo và Thông giáo.
[Bồ Tát] từ Sơ địa đến Thập địa gọi là giỏi việc nhập định. [Bồ Tát] Thập địa nhập trùng huyền môn, quay lại tu tập các pháp [từ lúc còn là] phàm phu,[97] gọi là giỏi việc nhập định. [Bồ Tát] Diệu Giác biến hiện viên mãn gọi là giỏi việc trụ trong định. Đây là giải thích theo Biệt giáo.
[Bồ Tát thành tựu] Tất pháp tánh tam-muội[98] gọi là giỏi việc nhập định; [thành tựu] Thủ-lăng-nghiêm [tam-muội] gọi là giỏi việc xuất định; [thành tựu] Vương tam-muội gọi là giỏi việc trụ trong định. Đây là giải thích theo Viên giáo.
“Khéo tu tập tuần tự các pháp lành”, dựa vào nhân khéo tu tập nên cuối cùng được quả là giỏi nhập định. Đại lược là như vậy.
“Giỏi việc vấn đáp”[99] là đầy đủ hai phẩm đức trang nghiêm,[100] là bậc tôn quý trong bảy hạng phương tiện nên gọi là “thật quý báu”.
KINH VĂN
Hôm nay đức Thế Tôn vừa nói: ‘Lúc ta thành đạo mới bắt đầu khiến họ phát tâm, giáo hóa chỉ bày dẫn dắt, khiến cho hướng về quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Đức Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu mà có thể làm được việc công đức lớn lao như vậy. Chúng con tuy tin rằng lời Phật dạy luôn thích hợp, những gì Phật nói ra chưa từng hư dối, sự hiểu biết của Phật thông suốt bao trùm, nhưng đối với hàng Bồ Tát vừa mới phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu nghe những lời này có thể sẽ không tin nhận mà khởi sinh nhân duyên tội nghiệp phá hoại chánh pháp.
“Kính bạch Thế Tôn! Xin vì chúng con giảng giải thuyết dạy, dứt trừ lòng nghi của chúng con cũng như giúp cho các thiện nam tử đời sau khi nghe chuyện này cũng không sinh lòng nghi.”
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Hôm nay đức Thế Tôn vừa nói” trở đi là thỉnh cầu [Phật] giải đáp. Tiểu đoạn này lại có 3 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất, từ câu “Hôm nay đức Thế Tôn…” là nêu lời Phật nói.
Phân đoạn thứ hai, từ câu “Chúng con tuy tin rằng…” trở đi nêu ý thưa thỉnh, chia thành 2 ý.
Ý thứ nhất nói việc hiện tại, “chúng con tuy tin rằng…”.
Ý thứ hai nói việc tương lai, từ câu “đối với hàng Bồ Tát vừa mới phát tâm” trở đi. [Bồ Tát mới phát tâm] do công phu tu hành còn cạn cợt dễ sinh tâm hủy báng. Bồ Tát mới phát tâm nếu hủy báng chánh pháp sẽ phải đọa vào đường ác. Bồ Tát bất thối tuy có thể tin, không hủy báng, nhưng [nếu chưa hiểu rõ sẽ] không tăng trưởng tâm đạo. Nếu như [được Phật] vì họ giảng giải phân biệt rõ thì người hủy báng [nhờ hiểu rõ] sẽ sinh lòng tin, người đã có lòng tin [nhờ hiểu rõ] sẽ tăng trưởng tâm đạo. Đại lược là như vậy.
Phân đoạn thứ ba từ câu “Kính bạch Thế Tôn!” trở đi, thưa thỉnh [đức Phật xin] giải đáp. Phân đoạn này có 2 ý.
Ý thứ nhất là “dứt trừ lòng nghi của chúng con”;
Ý thứ hai là câu “cũng như giúp cho các thiện nam tử đời sau”, xin dứt trừ lòng nghi trong tương lai.
KINH VĂN
Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Phật xưa từ dòng Thích,
Xuất gia gần Già-da,
Ngồi dưới cội Bồ-đề,
Đến nay chưa bao lâu.
Còn những Bồ Tát này,
Nhiều không thể suy lường,
Từ lâu tu Phật đạo,
Trụ nơi sức thần thông;
Khéo học đạo Bồ Tát,
Không nhiễm pháp thế gian,
Như hoa sen trong bùn,
Từ lòng đất phóng lên,
Đều khởi tâm cung kính,
Đứng trước đức Thế Tôn.
Việc này khó nghĩ bàn,
Làm sao có thể tin?
Phật vừa mới thành đạo,
Sao làm được quá nhiều?
Nguyện vì con giải nghi,
Phân biệt thuyết đúng thật.
Ví như người trẻ trung,
Tuổi vừa hai mươi lăm,
Chỉ những người trăm tuổi,
Tóc bạc, da nhăn nheo,
Bảo ‘đó là con tôi’,
Và con cũng nhận cha,
Nhưng cha trẻ, con già,
Người đời chẳng ai tin.
Phần kệ tụng có 14 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa hai phần nêu pháp và nêu thí dụ ở trước, có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất có 5 khổ kệ, tụng lại phần nêu pháp; tiểu đoạn thứ hai có 9 khổ kệ, tụng lại phần nêu thí dụ.
Tiểu đoạn thứ nhất nêu pháp có 3 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất có một khổ kệ, tụng lại nghĩa bám chấp việc gần đây. Phân đoạn thứ hai từ câu “Còn những Bồ Tát này” trở đi gồm 2 khổ và 3 câu kệ, tụng lại nghĩa nghi ngờ việc xa xưa. Phân đoạn thứ ba từ câu “Làm sao có thể tin” trở đi gồm một khổ và một câu kệ, tụng lại ý nghĩa tóm kết phần thưa thỉnh.
Tiểu đoạn thứ hai tụng lại ý nghĩa nêu thí dụ có 2 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, tụng lại nghĩa trình bày thí dụ.
KINH VĂN
Nay Thế Tôn cũng vậy,
Chỉ mới thành đạo thôi;
Còn những Bồ Tát ấy,
Tâm kiên cố, không sợ,
Từ vô số kiếp rồi;
Đã hành đạo Bồ Tát,
Khéo chất vấn, giải đáp,
Lòng không chút sợ sệt,
Tâm nhẫn nhục, quyết định,
Đoan chánh, nhiều oai đức,
Mười phương Phật ngợi khen;
Khéo thuyết giảng phân biệt,
Không ưa thích đông người,
Thường chuộng việc nhập định,
Vì cầu đạo Bồ-đề,
Trụ hư không phương dưới.
Chúng con nghe từ Phật,
Nên việc này không nghi;
Nguyện Phật vì đời sau,
Giảng rộng, giúp hiểu rõ.
Vì đối với Kinh này,
Ai nghi ngờ, không tin,
Đều sẽ đọa đường ác.
Nay xin Phật giảng giải:
Vô số Bồ Tát này,
Làm sao thời gian ngắn,
Giáo hóa cho phát tâm,
Đến trụ Bất thối địa?
Phân đoạn thứ hai từ câu “Nay Thế Tôn cũng vậy” trở đi gồm 7 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với thí dụ trên, có 3 ý.
Ý thứ nhất gồm 2 câu, tụng lại nghĩa tương hợp với thí dụ nêu việc gần đây.
Ý thứ hai từ câu “Còn những Bồ Tát ấy” trở đi gồm 3 khổ rưỡi kệ, tụng lại nghĩa tương hợp với thí dụ nêu việc xa xưa.
Ý thứ ba từ câu “Chúng con nghe từ Phật” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với phần thưa thỉnh xin Phật giải đáp. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Phẩm Tuổi thọ của Như Lai, thứ mười sáu
Giải thích về tuổi thọ vô lượng
Trước tiên hãy nêu ra những cách giải thích khác nhau.
Ngài Tăng Duệ[101] trong lời tựa nói rằng: “Tuổi thọ dù vô lượng kiếp cũng chưa đủ nêu rõ sự trường cửu của Như Lai; phân thân dù vô số cũng không đủ làm khác đi bản thể của Như Lai. Cho nên, nói thọ lượng là để xác định tuổi thọ Như Lai không thể tính đếm, nêu phân thân là để làm rõ bản thể Như Lai không có khác biệt. Nói Phổ Hiền để hiển bày việc Như Lai vốn không [chỉ mới vừa] thành đạo [ở Già-da],[102] hiện Đa Bảo là làm sáng tỏ việc Như Lai vốn không nhập diệt.”
Ngài Đạo Lãng ở Hà Tây cho rằng: “Làm rõ pháp thân chân thật với hóa thân không khác, nên [thân Phật] còn hay mất đều cùng một lý. Phật Đa Bảo hiện ra là nêu rõ pháp thân thường còn; nêu thọ lượng là chỉ rõ tuổi thọ của Như Lai đồng như thái hư, không hạn lượng.”
Đạo Tràng Quán[103] nói rằng: “Hội ba về một, đó là khởi đầu của thừa; dứt ảnh lắng thần, đó là kết thúc của thừa. Dứt ảnh là ngưng bặt hình tích; lắng thần thì sáng tỏ bản nguyên. Cho nên, hình tích thì vô thường mà bản nguyên là thường.”
Lại có người chú giải rằng: “Sống chết không thể đếm bằng số nên gọi là thọ; dài ngắn vượt ngoài giới hạn nên gọi là lượng. Pháp thân không thuộc về hình dạng tuổi tác, bậc đại sĩ còn phải tu tập quán chiếu đến cùng cực [mới biết], không thể cho việc ngồi nơi Bồ-đề Đạo tràng[104] là mới thành Phật, trăm tuổi là già nua cần sự nuôi nấng.”
Ngài Trúc Đạo Sinh nói: “Sắc thân Phật do ứng hiện mà có, nên tuy có nhưng không phải hình tướng thật. Hình tướng đã không thật thì lẽ nào lại có tuổi thọ? Cho nên muôn hình tướng Phật cùng về một nơi, Phật xưa Phật nay cùng là một Phật. Phật xưa cũng như nay, nay cũng như xưa, không lúc nào không hiện hữu, không nơi nào không tồn tại. Nếu như có lúc không hiện hữu, có nơi không tồn tại, thì Phật cũng giống như chúng sanh. Nhưng Phật không phải vậy, cho nên nói tuổi thọ [của Phật] cùng cực tức là nói thành đạo nơi Bồ-đề đạo tràng. Thành đạo nơi đạo tràng lại không phải [mới vừa] thành đạo. Thành đạo đã không phải là thành đạo, lẽ nào lại còn có việc tuổi thọ lâu dài? [Cho nên ý niệm về tuổi thọ] dài ngắn đều không có, [mà chúng sanh đều thấy tuổi thọ] dài ngắn đó là thường còn.”
Các bậc thầy lớn trước đây như đã dẫn, phần nhiều đều lấy chỗ tuổi thọ không giới hạn để nêu nghĩa thường.
Những vị thầy gần đây thì cho rằng [kinh nói] tuổi thọ [Như Lai] cũng là hạn lượng, trước nói nhiều hơn cát sông Hằng, sau nói còn gấp nhiều lần số đó, rốt lại hạn lượng cùng cực vẫn là giới hạn, nên là vô thường.
Lại có người ngờ vực cho rằng, phẩm này nêu tuổi thọ [Như Lai] có hạn lượng lâu dài, mà hạn lượng đã là vô thường, sao có thể giải thích thành nghĩa thường?
Nay sẽ giải đáp những điều nói trên.
Tên phẩm này nói thẳng là “thọ lượng”, không nói là “tuổi thọ có hạn lượng”, không nói là “tuổi thọ không hạn lượng”. Nay người này giải thích là thường, người kia nói là vô thường, có chỗ nào là sai? Như trai cò kiềm chế nhau, đôi bên đều làm khó cho nhau.[105]
Nay tôi nhân nơi chỗ còn chưa rõ của hai bên mà nêu ra cho trọn đủ bốn cách giải thích:
Thứ nhất, [tuổi thọ] thật có hạn lượng nhưng nói là vô lượng, như trường hợp kinh A-di-đà.
Thứ hai, [tuổi thọ] thật không hạn lượng nhưng nói là có hạn lượng, như trong phẩm này, cũng như trong kinh Kim Quang Minh.
Thứ ba, [tuổi thọ] thật vô lượng, nói là vô lượng, như kinh Niết-bàn nói: “Chỉ Phật với Phật tuổi thọ mới là vô lượng.”
Thứ tư, [tuổi thọ] thật có hạn lượng, nói là có hạn lượng, như Phật tám mươi tuổi tuyên bố nhập Niết-bàn.
Kinh văn phẩm này có đủ bốn nghĩa như trên, lẽ nào chỉ có một nghĩa đúng còn ba nghĩa là sai hay sao?
Hỏi: Nếu phẩm Thọ lượng này nêu nghĩa thường thì so với kinh Niết-bàn có gì khác nhau?
Đáp: Nay xin hỏi ngược lại, lý Nhất thừa trong kinh Pháp hoa với lý nhất thừa trong kinh Thắng Man lại có gì khác nhau? Đại lược là như thế.
Còn nếu phân biệt để giải đáp thì Pháp hoa là nói lược nghĩa thường, Niết-bàn là nói rộng nghĩa thường. Thắng Man là dùng Nhất thừa để làm rõ Nhất thừa; Pháp hoa là hợp ba thừa để nêu Nhất thừa. Đại lược là như vậy.
Hỏi: Phật thành đạo gần đây là phương tiện; thành đạo từ lâu xa là chân thật. Như vậy thì kinh Hoa nghiêm nói tịch diệt nơi đạo tràng, kinh Đại Bát Niết-bàn nói rút ngắn chín kiếp [mà thành Phật] trước,[106] đều là nói thành đạo theo phương tiện. Nếu như thế, Pháp hoa đã khai mở nói việc thành đạo từ lâu xa, đến phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh sao đổi lại thành đạo gần đây? Do vậy nên biết là Pháp hoa đã trở lại nói phương tiện.
Nếu thế, đã nói hội ba thừa về một thừa rồi, lẽ ra không có hội ba thừa về một thừa nữa; nếu thế, việc bỏ ba thừa để hiển bày một thừa thì chư Phật đều như nhau; việc bỏ [phương tiện thành đạo] gần để hiển bày [thành đạo chân thật từ] lâu xa thì chư Phật cũng đều giống nhau.
Nếu thế, tất cả chư Phật cũng đều như thế, không riêng gì Phật Thích-ca [có tuổi thọ vô lượng]. Nếu chỉ riêng đức Thích-ca [có tuổi thọ vô lượng] thì những nghĩa trước đây đều không đúng.
Đáp: Kệ tụng trong kinh nói “Là phương tiện của ta, chư Phật cũng như vậy.”[107] Lại nữa, chư Bồ Tát được nghe về tuổi thọ của Như Lai rồi thì phát nguyện. “Nguyện chúng con đời sau… … cũng ngồi nơi Đạo trường, nói tuổi thọ lâu dài.”[108] Như vậy tức là chư Phật đều như nhau. Lại cũng không nói lệch về một bên là gần, một bên là xa. Cho nên biết rằng, mượn nghĩa không khởi đầu, không kết thúc, không gần, không xa để hiển bày pháp thân thường trụ; nói có khởi đầu, có kết thúc, có gần, có xa là luận giải tương ứng với việc thị hiện hình tích. Dùng nghĩa này để nhận hiểu tất cả các kinh thì chỗ đối duyên tuy có khác nhưng rốt cùng không có khác biệt. Đã thấu triệt các kinh thì không còn bị [luận thuyết của] các vị thầy dẫn dắt.[109]
Hỏi: Theo nghĩa suy ra thì “thường” có thể là như vậy, nhưng dẫn chứng kinh văn thì phải căn cứ vào đâu?
Đáp: Người sáng suốt thì xem trọng ở lý; kẻ mê muội chỉ bám chấp nơi câu chữ. Chỉ cần tìm cầu cách giải thích tương hợp với tông chỉ, đó là ý nghĩa chính của giáo pháp; nếu cứ bám chấp hình thức vụn vặt[110] mà truy hỏi phương tiện[111] thì nào có ích gì?
Lại nữa, giáo pháp vốn tùy theo duyên, duyên khác nhau thì thuyết giảng khác nhau. Hoặc tùy theo sự vui mừng, tùy theo chỗ nghi ngờ, tùy theo pháp đối trị, tùy theo sự tỏ ngộ. Giác ngộ tức là đã đến nơi rồi, còn loanh quanh trên đường làm gì? Cho nên nói “Niết-bàn là kho pháp bảo chân thật, chúng sanh tùy mọi cửa mà vào”, chính là ý nghĩa này vậy.
Lại nữa, kinh văn có những chỗ dài ngắn khác nhau. Trong kinh Niết-bàn, khi lấy sự thường trụ trong tương lai làm tông chỉ thì kinh văn dài; không lấy việc đã thành Phật từ lâu trong quá khứ làm tông chỉ thì kinh văn ngắn. Nếu theo chỗ dài, bỏ chỗ ngắn thì ắt là ma thuyết, chẳng phải Phật thuyết. Kinh Pháp hoa này, khi lấy việc đã thành Phật từ lâu trong quá khứ làm tông chỉ, số kiếp nhiều như số bụi trong các thế giới[112] thì kinh văn phải dài; khi nói sự thường trụ trong tương lai thì kinh văn lại ngắn; nếu theo chỗ dài, bỏ chỗ ngắn thì “đầu vỡ thành bảy phần, như chồi cây a-lê”.[113] Cũng như chiếu lệnh của vua ban ra, dù viết dài hay viết ngắn đều không thể vi phạm; nếu vi phạm thì phải chịu tội.
Phẩm Phương tiện nói rằng: “Tướng thế gian thường trụ, nơi đạo tràng rõ biết, Đạo sư thuyết phương tiện.” Câu kinh văn này là nói trong tương lai thường trụ chẳng diệt. Lại nói rằng: “Ta thường trụ cõi này.” Lại nói: “Phật thường ở núi Thứu, và những nơi chốn khác.”
Kinh Phổ Hiền quán nói rằng: “Thường ba-la-mật là nơi [Phật] thành đạo; Ngã ba-la-mật là nơi Phật an lập.”[114] Những câu kinh nêu nghĩa thường như thế này cũng không phải ít. Lại ngay trong kinh này, rất nhiều nơi nêu nghĩa pháp thân. Pháp thân lẽ nào không phải là thường?
Hỏi: Đã nêu pháp thân, lẽ ra nên bàn về ba phẩm đức [của Phật]?[115]
Đáp: Hai trí quyền thật chẳng phải là Bát-nhã đó sao? Thị hiện trong ba đời chẳng phải là giải thoát đó sao? Thật tướng từ nguồn cội ban sơ chính là pháp thân. Ba phẩm đức đã được nêu trong kinh văn như vậy.
Giải thích tên phẩm
Như Lai là danh hiệu chung của ba đời mười phương chư Phật, Nhị Phật, Tam Phật,[116] Bản Phật, Tích Phật.[117]
Thọ lượng (tuổi thọ) là nói việc nhận hiểu suy lường; nhận hiểu suy lường về công đức của Nhị Phật, Tam Phật, Bản Phật, Tích Phật trong ba đời ở khắp mười phương. Nay trong kinh này chính là nhận hiểu suy lường về công đức của Tam Phật bản nguyên, cho nên gọi là phẩm Tuổi thọ của Như Lai.
Như Lai có rất nhiều nghĩa, nay hãy tạm nói rõ về Nhị Như Lai và Tam Như Lai, những nghĩa khác dựa theo đó có thể hiểu được.
Trước hết giải thích về Nhị Như Lai. Luận Thành thật nói: “Như Lai, tức là nương theo đạo như thật đạt đến thành Chánh giác, nên gọi là Như Lai.”[118] Thừa là trí của pháp như như; thật là cảnh của pháp như như; tu tập đạo là nhân; thành chánh giác là quả.
Nếu chỉ luận riêng về nghĩa nương theo, [tức là trí], thì “như như” không có chỗ rõ biết (sở tri); nếu chỉ nêu riêng về nghĩa “thật”, [tức là cảnh], thì “như như” không có năng lực rõ biết (năng tri); nhưng cảnh và trí hòa hợp thì liền có nhân quả. Soi chiếu nơi cảnh chưa cùng tận gọi là nhân; rõ đến tận nguồn là quả. Thấu hiểu đạo thì thành tựu nghĩa, đó chính là “nương theo đạo như thật, đạt đến thành Chánh giác”. Đây là nghĩa chân thân, tức Pháp thân Như Lai.
Dùng trí như thật nương theo đạo như thật, đản sanh trong ba cõi, thị hiện thành Chánh giác, đó tức là Ứng thân Như Lai.
Về nghĩa Tam Như Lai, luận Đại trí độ nói: “Giảng giải như tướng pháp; thuyết dạy như tướng pháp, nên gọi là Như Lai.” Như là cảnh của pháp như như; chẳng phải nhân, chẳng phải quả. Dù có Phật hay không có Phật, tánh tướng vẫn thường như vậy. Biến hiện khắp nơi mà chẳng có gì khác là “như”; không dao động mà đến là “lai”. Đây là Pháp thân Như Lai.
Về trí của pháp như như, đó là nương theo đạo chân thật như như, đạt đến thành Diệu giác. Trí xứng như lý, từ nơi lý gọi là “như”; từ nơi trí gọi là “lai”, đây là Báo thân Như Lai. Cho nên luận nói: “Giảng giải đúng như tướng pháp… nên gọi là Như Lai.”
Dùng trí như như hợp với cảnh như như nên có thể ở khắp mọi nơi thị hiện thành Chánh giác. Ví như thủy ngân pha trộn với vàng ròng có thể tô phết thành cảnh sắc hình tượng; công đức cùng với Pháp thân có thể ứng hiện ở khắp mọi nơi. Đủ tám tướng thành đạo,[119] chuyển diệu pháp luân, đây là Ứng thân Như Lai. Cho nên luận nói: “Thuyết dạy đúng như tướng pháp, nên gọi là Như Lai.”
Pháp thân Như Lai gọi là Tỳ-lô-giá-na,[120] Hán dịch là Biến nhất thiết xứ (biến hiện khắp mọi nơi). Báo thân Như Lai gọi là Lô-xá-na, Hán dịch là Tịnh mãn (tròn đầy thanh tịnh). Ứng thân Như Lai gọi là Thích-ca-văn, Hán dịch là Độ ốc tiêu.[121] Đây chính là Tam Như Lai, không thể chấp giữ riêng lẻ chỉ một trong ba danh hiệu này.
Kinh Đại bát Niết-bàn nói rằng, pháp thân không phải [Niết-bàn], Bát-nhã cũng không phải [Niết-bàn], giải thoát cũng không phải [Niết-bàn]. Cần đầy đủ ba pháp mới gọi là tạng sâu kín, là Đại Niết-bàn; không thể là đồng nhất hay khác biệt, tuần tự hay đồng thời, tổng quát hay tách rời. Quán xét trọn vẹn đầy đủ ba pháp như vậy, tạm gọi tên là Như Lai.[122]
Kinh Phạm Võng kết lại, giáo nghĩa Hoa Nghiêm hình thành; lấy đài hoa làm gốc, cánh hoa làm ngọn; chỉ riêng vì một duyên mà thuyết giảng như vậy, nhưng gốc và ngọn vốn không thể tách lìa.
Kinh Tượng pháp quyết nghi kết lại, kinh Niết-bàn hình thành. Kinh văn nói: “Hoặc thấy đức Thích-ca là Phật Tỳ-lô-giá-na, hoặc thấy là Phật Lô-xá-na, đều do duyên trước mà nhìn thấy khác nhau, chẳng phải Phật có ba thân khác biệt.”
Kinh Phổ Hiền quán kết lại, kinh Pháp hoa hình thành. Kinh văn nói: “Thích-ca Mâu-ni gọi là Tỳ-lô-giá-na, chỉ là tên gọi khác, chẳng phải tánh thể khác biệt.”
Tổng kết ý nghĩa trong các kinh, nên biết rõ ràng rằng Tam Phật chẳng phải đồng nhất, chẳng phải khác biệt.
Hỏi: Phẩm này không nêu tên gọi Tam Phật như trên, vì sao đưa ra giải thích như vậy?
Đáp: Tuy không nêu tên nhưng ý nghĩa [Tam Phật] có đủ. Kinh văn nói “…không phải như vậy cũng không phải khác biệt; không giống như [chúng sanh trong] ba cõi nhìn thấy ba cõi…” Chính là phá bỏ nghĩa “như” thiên lệch mà hiển bày nghĩa “như” tròn đầy. Đây là nghĩa Pháp thân Như Lai.
Kinh lại nói rằng: “Như Lai thấy biết đúng thật tướng trạng của ba cõi.” Đây là trí như như xứng hợp với cảnh như như, là tri kiến Nhất thiết chủng trí, tức là Phật nhãn. Đây là nghĩa Báo thân Như Lai.
Kinh lại nói rằng: “Hoặc thị hiện thân mình, hoặc thị hiện thân Phật khác; hoặc thị hiện việc của mình, hoặc thị hiện việc của Phật khác.”[123] Đây là nghĩa Ứng thân Như Lai.
Nếu chỉ nói tánh đức của Tam Như Lai tức là nêu nghĩa đồng thời; nếu chỉ nói tu đức của Tam Như Lai tức là nêu nghĩa tuần tự.[124] Nếu kể trước tiên là Pháp thân, kế đến là Báo thân và sau cùng là Ứng thân thì cũng là tuần tự. Nay kinh này nói nghĩa Tam Như Lai tròn đầy trọn đủ, chẳng phải đồng thời, chẳng phải tuần tự; nếu chỉ lược nói nghĩa trước sau hay đồng thời thì không phải nghĩa trong riêng kinh này, huống chi là nghĩa Như Lai trong cả Tạng giáo và Thông giáo.
Lại nữa, trước thời kỳ thuyết kinh Pháp hoa cũng đã có nói về Như Lai theo nghĩa tròn đầy trọn đủ, cũng đồng như trong phần thuyết giảng về hình tích. Riêng việc nêu rõ hình tích để hiển lộ bản nguyên của Tam Như Lai thì kinh Pháp hoa này khác hẳn với các kinh khác.
Luận nói rằng: “Phật thị hiện thành Đại Bồ-đề Vô thượng là thị hiện ba loại Bồ-đề. Thứ nhất là Ứng hóa thân Bồ-đề, tùy chỗ ứng hiện tức là thị hiện; như kinh văn nói ‘ra khỏi cung điện của họ Thích’. Thứ hai là Báo thân Phật Bồ-đề, tu hành Thập địa trọn đủ, đạt được Niết-bàn thường trụ, như kinh văn nói: ‘Ta thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp.’ Thứ ba là Pháp thân Phật Bồ-đề, là nói tánh của tạng Như Lai thanh tịnh, Niết-bàn không biến đổi. Như kinh văn nói: ‘Như Lai thấy biết đúng thật tướng trạng của ba cõi.’”
Kinh văn nêu đầy đủ ý nghĩa, luận đưa ra tên gọi, nếu không giải thích như trên làm sao tương hợp với kinh luận?
Tiếp đến giải thích về thọ lượng.
Thọ (壽) [là tuổi thọ,] hàm nghĩa thọ nhận (受). Chân như không ngăn cách với các pháp nên gọi là thọ nhận, [là nghĩa Pháp thân]. Lại nữa, cảnh và trí tương ưng nên gọi là thọ nhận, [là nghĩa Báo thân]. Lại nữa, một lần thọ báo trăm năm không đứt đoạn nên gọi là thọ nhận, [là nghĩa Ứng thân].
Lượng (量) là hàm nghĩa nhận hiểu suy lường. Chữ lượng dùng chung nghĩa [cả ba thân Phật], không riêng với thân nào. Nhận hiểu suy lường về Pháp thân Như Lai thì dùng lẽ như như là thọ mạng; Báo thân Như Lai thì dùng trí tuệ làm thọ mạng; Ứng thân Như Lai thì thọ mạng đồng theo các duyên.
Nhận hiểu suy lường thọ mạng [Như Lai có ba trường hợp,] hoặc có hạn lượng, hoặc không hạn lượng, hoặc không phải hạn lượng cũng không phải không hạn lượng.
Pháp thân Như Lai là thọ mạng theo lý như như; dù có Phật hay không có Phật, tánh tướng vẫn thường như vậy; không bàn đến sự tương ưng, cũng không tương tục, lại cũng không có hạn lượng, không phải không hạn lượng.
Kinh văn nói: “Không phải chân thật cũng không phải hư dối; không phải như vậy cũng không phải khác biệt.”[125] Đó là nhận hiểu suy lường về thọ mạng của pháp thân theo lý như như.
Nhận hiểu suy lường về thọ mạng của Báo thân Như Lai, dùng trí như như khế hợp với cảnh như như. Nương theo cảnh phát sinh trí là báo; trí ngầm hợp cảnh là thọ. Cảnh vốn đã vô lượng vô biên, thường trụ không diệt mất, nên trí cũng giống như vậy; như vật chứa lớn thì nắp đậy cũng lớn.
Kinh văn lại nói: “Trí lực Phật như vậy, ánh tuệ chiếu vô cùng, tuổi thọ vô số kiếp, từ lâu tu tập thành.”[126] Đây là nhận hiểu suy lường về thọ mạng của Báo thân Như Lai, dùng trí tuệ làm thọ mạng.
Nhận hiểu suy lường về thọ mạng của Ứng thân Như Lai, thọ mạng đồng với các duyên; duyên lâu dài thọ mạng cũng lâu dài, duyên ngắn ngủi thọ mạng cũng ngắn ngủi… Đều do ở duyên kia, đối với Như Lai nào có liên hệ gì?
Kinh văn nói rất nhiều lần thị hiện đản sinh, rất nhiều lần thị hiện diệt độ: “Ở mỗi nơi ta đều nói ra danh hiệu khác nhau, tuổi tác khác nhau.” Đây là nhận hiểu suy lường về thọ mạng Ứng thân Phật đồng với các duyên.
Lại nữa Pháp thân Phật thì không phải hạn lượng, cũng không phải không hạn lượng. Báo thân Phật trước khi [ngồi tòa] Kim Cang [thành đạo] là có hạn lượng, sau khi thành đạo là không hạn lượng. Ứng thân Phật tùy theo duyên thì có hạn lượng, ứng dụng không gián đoạn thì không hạn lượng. Xét chung trong việc nhận hiểu suy lường [thọ mạng Như Lai] thì có ba trường hợp thuộc về bậc thánh, một trường hợp thuộc về phàm phu.[127] Nếu nói có hạn lượng hoặc không thường còn thì đều không phải ý nghĩa Phật dạy. Những cách giải thích xưa nay đều là tăng thêm hoặc giảm bớt, cả hai cách ấy đều là hủy báng, vu khống cho Phật, đó chẳng phải ma thì là gì?
Bốn câu nhận hiểu suy lường như vậy là đã rõ nghĩa, nay vì người chưa hiểu nên lại nêu bốn câu với nghĩa thường, vô thường…[128] để phân tích giảng giải rõ hơn. Trước tiên sẽ xét riêng từng trường hợp, sau đó là nói chung.
Xét riêng trường hợp chẳng phải thường chẳng phải vô thường, vượt thoát cả hai là lẽ cùng cực, tức là Pháp thân Phật. Thường tức là Báo thân Phật; báo trí và báo cảnh tương hợp cũng chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chỉ lấy chánh trí viên mãn thì chẳng sanh chẳng diệt.
Vượt khỏi tâm Kim Cang [thành đạo] về trước thì lấy thường là Báo thân; cũng thường cũng vô thường là Ứng thân; ứng dụng không dứt cũng là thường; nhiều lần tuyên bố sẽ nhập Niết-bàn cũng là vô thường. Kể từ tâm Kim Cang [thành đạo] trở về trước, trí tuệ công hạnh tăng tiến đều là vô thường, cho đến phàm phu sinh diệt sống chết đều là vô thường.
Ba thân Phật tương ứng với ba trường hợp, hết thảy phàm phu chung một trường hợp.[129] Đây là dựa theo giáo pháp của Biệt giáo mà phân biệt riêng [từng trường hợp]. Còn xét chung theo Viên giáo thì mỗi một Như Lai đều có đủ bốn trường hợp.
Trước hết nêu bốn trường hợp của Pháp thân. Thứ nhất, trường hợp chẳng phải thường chẳng phải vô thường, đây là cùng lúc phá trừ tám điên đảo của phàm phu và bậc thánh. Thứ hai, trường hợp thường là như hư không cho nên thường. Thứ ba, trường hợp vô thường là không có sự điên đảo sinh diệt của phàm phu. Thứ tư, trường hợp cũng thường cũng vô thường, đó là tịch lặng mà đồng thời soi chiếu.
Tiếp theo là bốn trường hợp của Báo thân. Thứ nhất, trường hợp chẳng phải thường chẳng phải vô thường, là vì trí khế hợp với cảnh. Thứ hai, trường hợp thường là vì vượt ra ngoài Nhị thừa. Thứ ba, trường hợp vô thường là vì không có sự điên đảo sinh diệt. Thứ tư, trường hợp cũng thường cũng vô thường, là vì có năng lực đồng thời soi chiếu.
Tiếp theo là bốn trường hợp của Ứng thân. Thứ nhất, trường hợp chẳng phải thường chẳng phải vô thường, là vì chẳng phải quả báo, chẳng phải sinh tử. Thứ hai, trường hợp thường là vì thường ứng hóa tương đồng. Thứ ba, trường hợp vô thường là vì cũng đồng với vô thường. Thứ tư, trường hợp cũng thường cũng vô thường, là vì cả hai tính chất đó cùng tồn tại.
Phàm phu đã xét riêng vào trường hợp vô thường, xét chung lại cũng có đủ bốn trường hợp, nhưng chỉ là theo lý của tánh đức mà thôi, không có cả tên gọi cho bốn trường hợp, huống gì lại có được công dụng vận hành? Có thể theo ý mà hiểu, không đợi phải nói ra.
Một thân Phật tức ba thân Phật, chẳng phải đồng nhất, chẳng phải khác biệt, cho nên biết rằng mỗi một thân Phật đều đầy đủ công đức thọ mạng của ba thân Phật, chỉ tùy duyên chiêu cảm [của chúng sanh] mà thấy có thọ mạng dài ngắn khác nhau. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Hàng phàm phu và Nhị thừa thấy thọ mạng của Phật giống như ngày mùa đông; hàng Bồ Tát thấy giống như ngày mùa xuân; chỉ riêng Phật thấy được thọ mạng của Phật là vô lượng, giống như ngày mùa hạ.”[130]
Sở dĩ như vậy là vì phàm phu thấp kém, nghiệp chướng che lấp mê muội mờ tối; hàng Nhị thừa của Tạng giáo và Thông giáo tuy trừ được bốn trụ địa[131] nhưng chưa thấy được trung đạo; nếu xả bỏ thân phần đoạn sinh tử, thọ thân pháp tánh, cũng chưa phá hết vô minh; ở nơi sinh về kính phụng [chư Phật] cũng chỉ thấy được Thắng ứng thân; nên biết là Nhị thừa chỉ thấy [thọ mạng Như Lai] như thời gian ngày đông.
Nếu các Bồ Tát chưa lên hàng Thập địa, Thập trụ thì chỗ thấy cũng giống như đã nói trước; hoặc phá được vô minh cho đến chứng một phần pháp thân; dễ dãi mà nói thì tạm xem như đã thấy được thọ mạng Báo thân Phật, nhưng nghiêm khắc mà nói thì vẫn chỉ mới thấy được Thắng ứng thân. Chưa thấu tận cội nguồn Báo thân; chưa suốt đến cùng cực tánh pháp, nên chỗ thấy thọ mạng Như Lai vẫn chỉ còn như thời gian ngày xuân.
Chỉ riêng Phật với Phật đã cùng tánh tận nguồn, mới thấy thọ mạng Pháp thân Phật như ngày mùa hạ.
Kinh Đại Bát Niết-bàn nêu ra ba thí dụ để so sánh.
Thứ nhất, trong tất cả những gì thường tồn, hư không là hơn hết; trong tất cả thọ mạng, thọ mạng của Như Lai là hơn hết. Đây là so sánh thọ mạng Pháp thân vô thủy vô chung, tánh tướng ngưng lặng, không đồng với Ứng thân và Báo thân.
Thứ hai là ví như bốn con sông lớn đều chảy về biển lớn. Đây là so sánh như muôn điều lành do Báo thân tu tập đều cảm thành trong biển thọ mạng Phật.
Thứ ba là ví như bốn con sông lớn phát nguyên từ ao A-nậu-đạt. Đây là so sánh với thọ mạng của Ứng thân từ nơi Pháp thân và Báo thân lưu xuất, nên dài ngắn cũng giống như hai thân ấy.
Phẩm này nhận hiểu suy lường cùng giảng rõ chung về ba thân, nếu xét ý riêng thì chính là Báo thân. Vì sao vậy? Vì giải thích như vậy là thuận theo ý nghĩa, phù hợp với kinh văn.
Thuận theo ý nghĩa, vì nói trí tuệ báo thân trên dưới khế hợp nhau; ba thân linh hoạt đầy đủ, cho nên giải thích như trên là thuận theo ý nghĩa.
Phù hợp với kinh văn, vì kinh văn nói “Ta thành Phật đến nay đã hết sức lâu xa”, cho nên có thể trong ba đời làm lợi ích chúng sanh. Chỗ thành tựu ấy là Pháp thân, có khả năng thành tựu tức là Báo thân. Pháp thân và Báo thân tương hợp nên có thể làm lợi ích chúng sanh. Cho nên giải thích như trên là phù hợp với kinh văn.
Từ đó suy ra thì ý chính của phẩm này là luận về công đức của Báo thân Phật.
Lại nữa, đủ mọi công đức của ba thân Phật như vậy, tất cả đều đã thành tựu từ lâu nơi Đạo trường dưới cội Bồ-đề thuở xưa, nên gọi là bản nguyên; còn những công đức được thành tựu trong khoảng thời gian ở giữa cho đến đạo tràng tịch diệt ngày nay gọi là hình tích.
Các kinh khác nói về bản tích đều dạy rằng, Pháp thân và Báo thân thành tựu nơi đạo tràng tịch diệt là bản nguyên; từ đó khởi lên Thắng ứng thân và Liệt ứng thân là hình tích. Kinh Pháp hoa này nói rõ, cả ba thân thành tựu nơi đạo tràng tịch diệt cùng khoảng thời gian ở giữa đều là hình tích; lấy ba thân đã thành tựu nơi đạo tràng thuở xưa gọi là bản nguyên; cho nên so với các kinh đều khác biệt.
Nếu không có bản nguyên thì không dựa vào đâu để khởi xót thương hiển thị hình tích; nếu không có hình tích thì không lấy gì để hiển lộ bản nguyên. Bản tích tuy khác biệt nhưng chỗ không thể nghĩ bàn là đồng nhất. Nếu theo lời thầy Tăng Triệu thì lại có ý nói bản nguyên ở nơi đạo trường tịch diệt [hiện nay].[132]
Lại nữa, bản nguyên ở nơi đạo trường tịch diệt lại có nhiều cách hiểu.
Hoặc lấy Niết-bàn làm bản, từ chân đế[133] khởi Ứng thân làm tích. Tích với bản đều là không, lời nói và suy nghĩ đều dứt sạch, cho nên chỗ không thể nghĩ bàn là đồng nhất.
Hoặc dùng tục đế[134] làm bản, từ tục đế khởi Ứng thân làm tích. Tích với bản đều sâu rộng, hàng Bồ Tát sơ địa[135] không thể suy nghĩ, bàn luận đến tận bờ mé, cho nên nói chỗ không thể nghĩ bàn là đồng nhất.
Hoặc dùng trung đạo làm bản, từ trung đạo khởi Ứng thân là tích. Tích với bản đều dứt sạch ngôn ngữ, đoạn tuyệt tư duy, cho nên nói chỗ không thể nghĩ bàn là đồng nhất.
Lại nữa, ba thân Phật này vốn chẳng phải chia ba, cũng chẳng phải đồng nhất. Chẳng phải chia ba, chẳng phải đồng nhất, lấy đó làm bản; vừa là ba vừa là một, lấy đó làm tích; tất cả đều dứt sạch ngôn ngữ, đoạn tuyệt tư duy, cho nên nói chỗ không thể nghĩ bàn là đồng nhất.
Chưa rõ các bậc thầy khác muốn chỉ vào đâu là chỗ bản tích đồng nhất không thể nghĩ bàn. Nay thâu tóm tất cả thành bốn cách hiểu, tất cả đều là chỗ không thể nghĩ bàn đồng nhất trong nghĩa tích; về xa xưa thì chỉ về bản địa, ba hay bốn cách hiểu trên đều không thể nghĩ bàn, lấy đó làm bản. Từ mỗi cách hiểu về bản mà [chư Phật] có sự thương xót thị hiện hình tích; lại dùng mỗi loại hình tích đó mà hiển lộ bản nguyên. Bản và tích tuy khác nhau nhưng chỗ không thể nghĩ bàn đều đồng nhất.
Cách hiểu bản tích như vậy làm sao không khác biệt với những kinh khác? Làm sao không khác biệt với các vị thầy khác?
Hỏi: Các kinh đều nói về giai vị tu hành, hoặc nhiều hoặc ít. Như kinh Hoa nghiêm nói 41 giai vị, kinh Bồ Tát Anh Lạc nói 52 giai vị; danh xưng ý nghĩa [các giai vị] đều rộng lớn. Kinh này từ đầu đến cuối đều không có việc ấy. Vì sao nói khác biệt?
Đáp: Ví như người đời xây dựng các loại sự nghiệp, thu thập đủ loại trân bảo quý báu, tranh cầu đủ các địa vị, nhưng nếu không tuổi thọ thì hết thảy những tiền bạc địa vị đó biết dùng vào việc gì? Kinh Đại Bát Niết-bàn nói, giống như vị trưởng giả sinh ra và nuôi nấng một đứa con, thầy tướng nói là có tướng chết yểu, không thể nối dõi; cha mẹ biết vậy rồi thì không yêu quý nữa, xem như cỏ rác.[136] Pháp môn cũng vậy, tu hành đủ các nhân, đạt được đủ các quả, hiện đủ loại thần thông, giáo hóa đủ mọi chúng sanh, thuyết dạy đủ các pháp, hóa độ đủ loại người, tất cả đều nằm trong biển thọ mạng Như Lai. Trong biển thọ mạng ấy thì cốt yếu là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.[137] Then chốt cốt yếu như vậy, nếu không phải khác biệt thì là gì?
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật nói với các vị Bồ Tát cùng tất cả đại chúng: “Này các thiện nam tử! Các ông nên tin hiểu lời chân thật của Như Lai.”
Rồi ngài lặp lại với đại chúng: “Các ông nên tin hiểu lời chân thật của Như Lai.”
Và lặp lại lần nữa với đại chúng: “Các ông nên tin hiểu lời chân thật của Như Lai.”
Bấy giờ, đại chúng Bồ Tát, đứng đầu là ngài Di-lặc, cùng chắp tay thưa Phật: “Bạch Thế Tôn! Nguyện Phật hãy nói ra, chúng con sẽ tin nhận lời Phật dạy.”
Sau khi bạch Phật ba lần như vậy rồi, các Bồ Tát lại nói thêm lần nữa: “Kính nguyện Phật nói ra, chúng con xin tin nhận lời Phật dạy.”
Khi ấy, đức Thế Tôn thấy các vị Bồ Tát không ngừng thỉnh cầu liên tiếp ba lần, liền dạy rằng:
Phần này giảng rộng ý nghĩa “chỉ bày việc gần, hiển lộ việc xa”. Kinh văn chia làm 2 phần. Trước tiên là răn dạy [đại chúng] phải có lòng tin, tiếp theo là nêu ý chính giải đáp. Đức Phật chỉ dạy, khuyên răn, đại chúng thọ nhận là tin. Kinh văn có 3 lần răn nhắc, 3 lần thỉnh cầu; rồi lặp lại thỉnh cầu, lặp lại răn nhắc. Trong phần Tích môn thì có 3 lần thỉnh cầu, 1 lần răn nhắc; trong phần này có 4 lần thỉnh cầu, 4 lần răn nhắc. Như vậy tổng cộng trước sau là 5 lần răn nhắc, 7 lần thỉnh cầu. Đây là đại sự cực kỳ đặc biệt nên mới phải ân cần trịnh trọng như vậy.
Kinh văn dùng chữ “誠諦 - thành đế”, thành là trung thực, chân thành; đế là xét kỹ, chắc thật. Không lừa dối chúng sanh nên lời nói đạt đến sự chân thật. Trước đây tùy theo tâm ý của bảy hạng phương tiện mà nói ra nên không gọi đó là trung thực, chân thành; ngày nay Phật tùy nơi Thánh ý tự nói ra để chỉ bày chỗ cốt yếu, cho nên nói là “thành đế”.
Bồ Tát đã kính vâng theo lời răn dạy chân thành nên chẳng dám khởi tâm nghi ngờ. Nghe rồi chấp nhận tin, tin rồi thọ nhận lời thành thật của Phật.
KINH VĂN
“Các ông hãy chú tâm lắng nghe thật kỹ về sức thần thông sâu kín của Như Lai.
“Trong thế gian này, tất cả chư thiên, loài người cho đến a-tu-la đều cho rằng: ‘Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện nay là từ hoàng cung họ Thích xuất gia, đến ngồi nơi đạo tràng không xa thành Già-da, chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Nhưng này các thiện nam tử, thật ra ta thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp.”
Phần ý chính giải đáp chia ra văn trường hàng và kệ tụng. Kinh văn trường hàng lại chia làm hai tổng phần, thuyết giảng chánh pháp và nêu thí dụ. Tổng phần thứ nhất thuyết giảng chánh pháp lại chia làm hai phần. Thứ nhất là nói việc [đức Phật] ba đời làm lợi ích chúng sanh; thứ hai, tóm kết nêu việc [lời Phật] không hư dối, [chúng sanh được lợi ích chân thật].
Chúng sanh hữu tình chỉ thấy gần đây trong hiện tại Phật thọ 80 tuổi, chẳng biết được trong quá khứ Phật đã thành đạo từ vô số kiếp, trong tương lai Phật không hề diệt mất. Cho nên dựa vào ba đời mà chỉ bày việc gần, hiển lộ việc xa. Những lợi ích như vậy không chỉ riêng có với Phật Thích-ca Mâu-ni, tất cả chư Phật cũng đều như vậy. Cho nên tóm kết lại mà nói việc lời Phật không hư dối.
Trong tổng phần thuyết chánh pháp không nói về đời tương lai, trong kệ tụng nói thí dụ có đề cập đến. Đại lược là như vậy. [Phần thứ nhất có 2 tổng đoạn.]
Tổng đoạn thứ nhất nói về làm lợi ích chúng sanh trong quá khứ, kinh văn có 2 đoạn. Thứ nhất là từ câu “Các ông hãy chú tâm lắng nghe thật kỹ về sức thần thông sâu kín…” trở đi, nêu ra sự bám chấp vào cách hiểu gần đây của chúng sanh. Thứ hai là từ câu “Nhưng này các thiện nam tử…” trở đi là bác bỏ [cách hiểu] việc gần, hiển lộ việc xa xưa.
Đoạn thứ nhất lại chia làm 3 tiểu đoạn. Thứ nhất là nêu pháp mê lầm, thứ hai là nêu chúng mê pháp, thứ ba là nêu ý nghĩa đã mê từ xa xưa.[138]
Kinh văn nói “sức thần thông sâu kín”, vì một thân Phật tức là ba thân, đó gọi là sâu; ba thân Phật tức là một thân, đó gọi là kín. Lại nữa, những gì thuở xưa không thuyết dạy gọi là kín; chỉ riêng Phật tự rõ biết gọi là sâu.
“Sức thần thông” tức là chỗ hoạt dụng của ba thân. “Sức” là năng lực vận dụng tự do tự tại, tức là Ứng thân; “thần” là lý tự nhiên bất động, tức là Pháp tánh thân; “thông” là trí tuệ không ngăn ngại, không thể nghĩ bàn, tức là Báo thân. Chư Phật ba đời đều có đủ ba thân, nhưng trong các phần giáo pháp [phương tiện] giữ kín [điều này] không truyền dạy, nên tất cả trời, người, a-tu-la trong thế gian đều cho rằng Phật chỉ vừa mới có được ba thân từ khi thành đạo dưới cội cây Bồ-đề. Do vậy mà bám chấp nơi việc [thành đạo] gần đây mà nghi ngờ việc [Phật vốn thành đạo từ bản nguyên] lâu xa. Câu này nói về bản nguyên, không đề cập hàng Nhị thừa, chỉ nói với Bồ Tát, vì Bồ Tát ở trong “tất cả trời, người, a-tu-la” thuộc 3 đường lành, còn [chúng sanh] trong 3 cảnh giới xấu ác thì tội nghiệp nặng nề, căn cơ trì độn, trí tuệ cạn cợt, không biết nói ra như vậy.[139] Cho nên Đại phẩm Bát-nhã nói “Đại thừa thù thắng vượt ngoài trời, người, a-tu-la”, cũng không nói đến ba đường ác.
Bồ Tát [trong phẩm này nói] có 3 hạng: Bồ Tát ở phương dưới đến, Bồ Tát từ các phương khác đến và Bồ Tát từ lâu đã trụ ở cõi này.
Bồ Tát ở phương dưới tức là những vị được Phật giáo hóa từ bản nguyên xa xưa, cho nên không nói ra việc bám chấp rằng Phật thành đạo gần đây.
Bồ Tát từ các phương khác đến và Bồ Tát đã trụ lâu ở cõi này lại cũng có 2 hạng.
- Thứ nhất là các Bồ Tát từ pháp thân ứng hóa sanh ra. Những vị này trong đời trước đã chứng được pháp nhẫn vô sanh, hoặc trước đây đã được nghe [Phật] nêu việc hiện nay để hiển bày chỗ bản nguyên; ví như chưa được nghe thì khi báo thân đã dứt, thọ thân pháp tánh, ở địa vị pháp thân cũng sẽ tự mình được nghe thuyết dạy [về thọ mạng] lâu dài [của Như Lai]. Cho nên hạng Bồ Tát từ Pháp thân ứng hóa sinh ra thì phần nhiều không nói lời bám chấp [việc Phật mới thành đạo] gần đây.
- Thứ hai là hạng Bồ Tát mới đạt được pháp nhẫn vô sinh trong đời này, cùng với những vị chưa đạt được pháp nhẫn vô sinh, cả 2 hạng đều nói những lời [bám chấp] như vậy.
Đoạn thứ hai từ câu “Nhưng này các thiện nam tử, thật ra ta thành Phật đến nay...” nêu rõ việc phá chấp trừ mê để làm rõ bản nguyên từ xa xưa. Phần kinh văn trước răn dạy “nên tin hiểu lời chân thật” chính là lời này.
Phần này lại chia làm hai tiểu đoạn. Thứ nhất là làm rõ việc xa xưa, thứ hai là từ câu “Từ đó đến nay, ta thường…” trở đi, nêu những sự giáo hóa thích hợp để làm lợi ích chúng sanh trong quá khứ.
Tiểu đoạn thứ nhất lại có 2 phân đoạn. Thứ nhất là thuyết chánh pháp để làm rõ việc xa xưa; thứ hai là nêu thí dụ việc suy lường cụ thể nội dung thuyết pháp. Từ khi thành Phật đến nay đã hết sức lâu xa, tức là bác bỏ ý nghĩa mới thành Phật gần đây ở Bồ-đề đạo tràng.
Phân đoạn thứ nhất phá trừ việc gần, hiển bày việc xa, lược nêu có 10 ý, như trong Pháp hoa huyền nghĩa đã nói. Đại lược là như vậy.
Ý chính của phần này là để phá sự bám chấp việc gần đây, hiển bày việc xa xưa. Phá việc gần đây là nói đối với tình chấp trừ bỏ nơi việc gần, làm rõ việc xa xưa, trừ bỏ những lời dạy [phương tiện về việc thành đạo] gần đây.
KINH VĂN
“Ví như có người lấy năm trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi thế giới đại thiên nghiền nát thành bụi nhỏ, [rồi mang theo] đi về hướng đông, qua năm trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước mới để rơi một hạt bụi; cứ đi mãi như thế cho đến khi rơi hết số bụi ấy. Này các thiện nam tử, các ông nghĩ sao, những thế giới như vậy có thể tính toán, suy xét đếm kể để biết được số lượng hay chăng?”
Bồ Tát Di-lặc và đại chúng cùng bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Những thế giới như vậy là vô lượng vô biên, không thể dùng phép tính toán để biết được, cũng không phải phạm vi tâm trí có thể suy xét đến. Cho dù tất cả các vị Thanh văn, Duyên giác dùng trí vô lậu cũng không thể suy xét biết được hạn lượng. Chúng con dù đã trụ nơi địa vị Bất thối nhưng đối với việc này cũng không thể thấu hiểu. Bạch Thế Tôn, những thế giới như vậy là vô lượng vô biên.”
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo chúng Đại Bồ Tát: “Này các thiện nam tử! Nay ta sẽ nói thật rõ ràng với các ông: Nếu mang những thế giới [về phương đông] có bụi rơi xuống và cả những thế giới không có bụi rơi xuống,[140] tất cả đều nghiền nát ra thành bụi nhỏ, mỗi hạt bụi tính là một kiếp, thì thời gian ta thành Phật đến nay còn nhiều hơn số kiếp đó trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp.
Phân đoạn thứ hai nêu thí dụ lại chia làm 3 ý. Thứ nhất là nêu thí dụ để hỏi; thứ hai là [đại chúng] đáp lại; thứ ba là nêu nghĩa tương hợp với thí dụ để làm rõ nghĩa lâu xa.
[Ý thứ nhất nêu thí dụ để hỏi], các kinh khác hoặc rằng số [kiếp] không thể nói hết, hoặc lấy bụi, cát… làm thí dụ, so với [cách thí dụ] ở đây còn nhiều hơn nữa. Chỉ riêng những thế giới có “để rơi một hạt bụi” đã là không thể nói hết, huống chi còn thêm những thế giới không để rơi bụi lên, lại có thể nói hết sao? Lại những thế giới có để rơi bụi và không để rơi bụi ấy đã là không thể nói hết, thì số bụi từ những thế giới ấy nghiền nát ra lại có thể nói hết sao? Huống chi lại còn nhiều hơn cả số đó, lại có thể nói hết sao?
Ý thứ hai từ câu “Bồ Tát Di-lặc và đại chúng…” trở đi là [đại chúng] đáp lại, nêu cả 3 hạng không thể rõ biết [số lượng trong thí dụ, gồm Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát].
Ý thứ ba nêu nghĩa tương hợp với thí dụ thì y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Từ đó đến nay, ta thường ở tại thế giới Ta-bà này thuyết pháp giáo hóa, lại cũng ở nơi trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước khác dẫn dắt làm lợi ích cho chúng sinh.
“Này các thiện nam tử! Trong khoảng thời gian ấy, ta nói về những vị như Phật Nhiên Đăng v.v. lại nói việc các vị Phật ấy nhập Niết-bàn, như vậy đều là dùng phương tiện phân biệt để [giáo hóa].
“Này các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào tìm đến chỗ ta, ta sẽ dùng Phật nhãn quán xét các căn lành như niềm tin, [sức tinh tấn] v.v. để xem là nhanh nhạy hay chậm lụt, rồi tùy chỗ thích hợp có thể hóa độ, ở mỗi nơi ta đều nói ra danh hiệu khác nhau, tuổi tác khác nhau, cũng thị hiện nói sẽ nhập Niết-bàn, lại dùng đủ mọi phương tiện thuyết dạy giáo pháp vi diệu, có thể khiến cho chúng sinh khởi tâm hoan hỷ.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Từ đó đến nay, ta thường ở tại…” trở đi, nêu việc giáo hóa thích hợp làm lợi ích chúng sanh. Tiểu đoạn này chia làm 3 phân đoạn. Thứ nhất là nêu rõ những nơi Phật làm lợi ích chúng sanh. Thứ hai là quét sạch mối nghi về hình tích nói trên. Thứ ba là từ câu “Này các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào tìm đến chỗ ta…” trở đi, nêu ý chính về sự giáo hóa thích hợp làm lợi ích chúng sanh.
Phân đoạn thứ nhất cần nêu rõ những nơi Phật giáo hóa làm lợi ích, vì phần trước nói đã thành Phật từ rất lâu xa [nhưng không nói] ở những nơi nào. Cho nên phần này nêu “thường ở tại thế giới Ta-bà này” cùng với các cõi nước khác mà làm các Phật sự, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Này các thiện nam tử! Trong khoảng thời gian ấy…” trở đi là quét sạch sự nghi ngờ bám chấp vào hình tích như trên, gồm có nghi nơi nhân và nghi nơi quả. Trước đây Phật thị hiện hình tích dạy việc tu hành tạo nhân nơi này nơi kia, lại nói ở nơi này nơi kia được thụ ký, tức là nghi nơi quả; nay quét sạch đi mối nghi này. Lại dẫn việc nêu Phật Nhiên Đăng… tức là quét sạch mối nghi về nhân. Lại nói về việc nhập Niết-bàn của các đức Phật ấy, tức là quét sạch mối nghi về quả. Những việc nhân quả như vậy cũng chẳng phải là một điều, tất cả do Phật phương tiện nói ra, chưa phải nghĩa chân thật rốt ráo, cho nên nói là quét sạch lòng nghi.
Hoặc có người nói, đức Thích-ca dùng phương tiện nói rằng “Phật Nhiên-đăng là thầy của ta”, nhưng thật sự đó chính là đức Thích-ca hóa hiện thành. Vốn không sanh hóa hiện có sanh, vốn không diệt hóa hiện có diệt, cho nên kinh văn nói “lại nói việc các vị Phật ấy nhập Niết-bàn”.
Nay cho rằng không phải như vậy, chỉ theo cách giải thích trước đây. Vì sao vậy? Vì Phật Nhiên Đăng vào thời ấy duyên đã thuần thục, nên dùng hình tượng Phật để giáo hóa; còn Phật Thích-ca duyên chưa thuần thục, nên chỉ làm Bồ Tát theo Phật được thụ ký. Được thụ ký tức là nghĩa quả; tu hành công hạnh tức là nghĩa nhân. Hiểu rõ kinh văn thì tự thấy đã đầy đủ ý nghĩa. Kinh văn nói “các vị Phật ấy” tức là nói [các vị Phật] trong khoảng thời gian giáo hóa ở giữa, không phải chỉ nói Phật Nhiên Đăng.
Lại nói việc làm lợi ích chúng sanh trong khoảng thời gian ở giữa; tức là lợi ích từ hình tướng và lợi ích từ âm thanh. Nếu chỉ nói Phật Nhiên Đăng thì ở đây có lợi ích từ hình tướng. “Lại nói việc các vị Phật ấy nhập Niết-bàn”, Phật đã nhập Niết-bàn rồi thì có sự trợ giúp hoằng dương giáo hóa, tức là có lợi ích từ âm thanh. Như vậy thì những lợi ích từ hình tướng và âm thanh đều thuộc về nhân trong khoảng thời gian ở giữa. Đã có hình tướng và âm thanh sanh ra, sanh ấy tất nhiên có diệt; diệt tức là nhập Niết-bàn, gọi đây là quả; không thể nói là ở khoảng trung gian ấy đã thành quả Phật rồi. Vì sao vậy? Vì trước hội Pháp hoa chưa nói việc [Thanh văn] thành Phật, làm sao có sự nghi ngờ đối với quả Phật?
Các nhà cựu giải cho rằng Phật Nhiên Đăng là do Phật Thích-ca hóa hiện thành, như vậy cũng không phải là hiểu. Trước khi thuyết Pháp hoa, kinh điển chưa nói việc đã thành Phật từ xa xưa, có giáo pháp nào nói Phật Nhiên Đăng là do Phật Thích-ca hóa hiện mà phải quét trừ mối nghi này?
Phân đoạn thứ ba từ câu “Này các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào tìm đến chỗ ta…” trở đi là ý chính nêu việc giáo hóa thích hợp làm lợi ích chúng sanh. Đoạn này có 2 ý. Thứ nhất là nói nghĩa cảm ứng, thứ hai là nêu việc thi hành giáo hóa.
Ý thứ nhất, kinh văn nói “tìm đến chỗ ta” tức là nói những chúng sanh thuộc cả 2 căn cơ tiệm và đốn,[141] tức ngấm ngầm phù hợp với Pháp thân. “Dùng Phật nhãn quán xét”, nghĩa là đã thành Phật từ lâu xa, dùng Phật nhãn soi xét thì không có sai sót, từ đó mới khởi lên Liệt ứng thân hoặc Thắng ứng thân, phù hợp để làm lợi ích chúng sanh.
Căn cơ hiền thiện có 2 năng lực. Thứ nhất là chiêu cảm hoa báo[142] trong hai cõi trời, người. Thứ hai là chiêu cảm quả báo trong Phật đạo. Nếu dùng pháp nhãn để quán xét thì rõ biết được muôn duyên lành, dù nặng hay nhẹ cũng đều đạt được hoa báo, nhưng không thể rốt ráo rõ biết những duyên ấy cuối cùng đạt được quả báo trí tuệ giải thoát. Nếu dùng Phật nhãn soi chiếu trọn vẹn muôn điều lành thì rõ biết cặn kẽ từ đầu đến cuối. Kinh này xuyên suốt nêu rõ việc dùng Phật nhãn quán xét rõ biết muôn điều lành của chúng sanh rốt ráo đều được thành Phật. Đây là ý nghĩa chính của việc lớn lao là chư Phật ra đời.
Kinh văn nói “các căn lành như niềm tin…” tức là nói đến cả 5 căn[143] bao gồm tín căn. Tuệ căn là liễu nhân, tức nhân rốt ráo, các căn khác là duyên nhân, tức nhân hỗ trợ. Cả hai nhóm căn lành này, mỗi nhóm đều chia ra có nhanh nhạy, có trì độn, bao quát hết thảy các cơ duyên đốn, tiệm.
Đốn cơ gồm cả nhanh nhạy và trì độn, tức là các căn cơ của Viên giáo, Biệt giáo; tiệm cơ gồm cả nhanh nhạy và trì độn, tức là cơ duyên của Tạng giáo, Thông giáo. Lại nữa, căn cơ Tiểu thừa gọi là trì độn, so với căn cơ Đại thừa gọi là nhanh nhạy. Lại nữa, căn cơ Tiểu thừa gọi là nhanh nhạy, so với căn cơ của nhân thừa và thiên thừa là trì độn. Chúng sanh trong mười pháp giới có các căn lành, lấy sự nhanh nhạy hay trì độn gọi là cơ. Không nói đến các pháp xấu ác, vì pháp xấu ác không phải duyên nhân, không phải liễu nhân. Như Lai soi chiếu hết thảy căn cơ hiền thiện trong mười pháp giới, “rồi tùy chỗ thích hợp có thể hóa độ” mà hóa hiện hình tướng, âm thanh để làm lợi ích chúng sanh.
Ý thứ hai từ câu “ở mỗi nơi ta đều nói ra danh hiệu khác nhau…” trở đi nêu việc ứng hóa thích hợp, lại có 2 tiểu ý. Trước nói việc dùng hình tướng, âm thanh làm lợi ích, sau nói chúng sanh được lợi ích hoan hỷ.
Tiểu ý thứ nhất lại có 2 điều. Thứ nhất là nêu việc không có sinh mà hóa hiện sinh; thứ hai là nêu việc không phải diệt mà hóa hiện diệt.
“Ở mỗi nơi ta đều nói ra danh hiệu khác nhau…”, hình tướng đã hóa hiện thì có tên gọi; nhân nơi tên gọi mà nêu tánh thể. Căn cơ [chúng sanh] có chỗ cao thấp nên hình tướng hóa hiện cũng có hơn kém; hình tướng khác biệt nên tên gọi không giống nhau.
“Tuổi tác khác nhau” cũng tức là hình tướng hơn kém nhau. Hình tướng hơn tức là Thắng ứng thân; hình tướng kém tức là Liệt ứng thân. Tên gọi không giống nhau tức là hai vị Phật hóa hiện tuổi thọ có hạn lượng và không hạn lượng. “Ở mỗi nơi”, nói theo thời gian tức là các cõi nước trong quá khứ đã tu hành nhân địa; nói theo không gian tức là các cõi nước trong mười phương. Nói tên gọi không giống nhau là dựa theo các cõi nước trong từng thời gian. Lại có pháp sinh ra tên gọi không giống nhau, như ứng thân hiện nay so với Phật Nhiên Đăng trong quá khứ. Nếu dựa theo các cõi nước trong không gian thì cũng có tên gọi của pháp sinh ra, như ứng thân Phật hiện nay so với chư Phật phân thân, lại như trong kinh Hoa nghiêm, phẩm Danh hiệu Như Lai[144] kể ra biết bao nhiêu danh hiệu khác nhau của đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Lại như trong các kinh giải thích rằng, Phật có ba thân, danh hiệu không giống nhau, cho nên pháp thể của mỗi danh hiệu cũng đều khác biệt; hoặc nói Tỳ-na, hoặc Xá-na, hoặc Thích-ca… Pháp thân Phật thì gọi là Thật tướng như như, Đệ nhất nghĩa, Bát-nhã, Lăng-nghiêm… dùng những cách so sánh như vậy. Đây là nói dựa vào thân thị hiện trong pháp giới Phật có danh hiệu khác biệt nhau. Nếu nói về thân thị hiện trong 9 pháp giới khác thì danh hiệu rất nhiều, có thể dùng ý “vô lượng vô biên” để hiểu được.
“Tuổi tác khác nhau” tức là nêu nghĩa thọ mạng dài, ngắn. Theo như phần trước nói sự hóa hiện ứng thân của Phật; hoặc nói tuổi thọ 2 muôn, như thời Phật Ca-diếp; hoặc nói tuổi thọ 8 muôn, như thời đức Phật Di-lặc… đó là bổ sung cho nhau để nêu tuổi tác lớn nhỏ, theo thời gian hay không gian có thể biết được. Còn về Pháp thân, Báo thân và Ứng thân Phật thọ mạng dài ngắn thì như trong Pháp hoa huyền nghĩa đã nói. Đại lược là như vậy. Hoặc nói ba thân so sánh nhau để luận tuổi tác lớn nhỏ; hoặc nói 3 thân riêng biệt thì mỗi thân đều là nhỏ, hợp chung lại mà nói thì gọi là lớn, cũng ví như cụm ba dấu chấm.[145] Đại lược là như vậy. Đây đều là vì những chúng sanh thích hợp cần hóa độ mà ứng hiện thân cùng với tuổi thọ dài hoặc ngắn.
“Cũng hiện nói sẽ nhập Niết-bàn”, là đối với những chúng sanh cần phải diệt độ mới có thể hóa độ liền hiện tướng diệt độ, khiến cho họ lưu luyến khát ngưỡng mà được giải thoát. Ý nghĩa này được nêu ra trong phần nói thí dụ ở sau.
“Lại dùng đủ mọi phương tiện thuyết dạy giáo pháp vi diệu”, tức là thị hiện âm thanh làm lợi ích. [Thị hiện] thân nhỏ bé, tuổi thọ ngắn ngủi tức là thuyết tiệm giáo, nên nói là “dùng đủ mọi phương tiện”; thân cao lớn, tuổi thọ lâu dài tức là thuyết đốn giáo, nên nói “giáo pháp vi diệu”.
Tiểu ý thứ hai, tuy ban sơ dùng tiệm giáo nhưng cuối cùng đều khiến cho thể nhập Đại thừa, nên nói là “khiến cho chúng sinh đều khởi tâm hoan hỷ”. Do đó sự hoan hỷ này tức là thi hành giáo hóa mang lại lợi ích. Đức Phật y theo bốn tất đàn để thi hành hai sự lợi ích từ hình tướng và âm thanh; chúng sanh được 4 sự lợi ích,[146] [chẳng hạn như] căn cơ xứng hợp thì vui, căn cơ trái nghịch thì buồn khổ… Kinh văn phần sau nói “đều là chân thật không hư dối” tức là ý nghĩa này.
KINH VĂN
“Thiện nam tử! Đức Như Lai thấy có những chúng sanh ưa thích pháp nhỏ, cấu nhiễm sâu dày, phước đức mỏng manh, nên vì những người ấy mà nói: ‘Ta xuất gia khi nhỏ tuổi, sau đó chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Nhưng thật ra ta thành Phật từ lâu xa như đã nói trên, vì dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh giúp họ thể nhập đạo Phật nên mới nói ra như vậy.
“Này các thiện nam tử! Những kinh điển mà Như Lai giảng giải đều là vì độ thoát chúng sanh; hoặc nói đó là thân mình, hoặc nói là thân Phật khác; hoặc thị hiện thân mình, hoặc thị hiện thân Phật khác; hoặc thị hiện việc của mình, hoặc thị hiện việc của Phật khác; những điều nói ra như vậy đều là chân thật không hư dối.”
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Thiện nam tử! Đức Như Lai thấy có những chúng sanh…” trở đi là sức mạnh mẽ phấn chấn như sư tử [của Như Lai] làm lợi ích chúng sanh trong hiện tại. Pháp tam-muội này[147] có 10 công đức.
- Thứ nhất là phân biệt được căn cơ của người khác đã thuần thục hay chưa, có thanh tịnh hay không.
- Thứ hai là dùng Pháp luân của Như Lai để giáo hóa những ai chưa được độ, khiến tất cả đều vào được chánh pháp và giới luật.
- Thứ ba là đại nguyện rộng khắp mười phương, âm thanh cũng vậy; hoặc một âm thanh vang khắp, hoặc trăm ngàn muôn âm thanh đều lan tỏa khắp nơi, giáo hóa tất cả các loài chúng sinh.
- Thứ tư là chuyển bánh xe pháp vô thượng, hóa độ chúng sinh khiến đều đạt đến chỗ diệt độ; duy nhất chỉ Phật chuyển pháp luân được như vậy, người khác không thể.
- Thứ năm là có thể thị hiện xuất gia, cạo bỏ râu tóc, giữ giới thanh tịnh, cũng có thể khiến người khác ưa thích làm theo.
- Thứ sáu là tánh thể, công hạnh đều hợp với không tịch.
- Thứ bảy là phóng hào quang hoặc thị hiện Niết-bàn; hoặc trụ thế, hoặc diệt độ; hoặc thị hiện tướng tốt, hoặc ẩn giấu tướng tốt.
- Thứ tám là hàng phục bốn loại ma.[148]
- Thứ chín là khiến người khác thể nhập yếu chỉ tối thượng, tăng trưởng chỉ và quán.
- Thứ mười là đầy đủ căn bản mười nghiệp lành, gồm ba nghiệp của thân, bốn nghiệp của khẩu, ba nghiệp của ý.[149]
Kinh văn phần này chia làm 2 đoạn. Thứ nhất là nêu cơ duyên chúng sanh chiêu cảm; thứ hai là nói sự cảm ứng hóa hiện.
[Đoạn thứ nhất nêu cơ duyên chúng sanh chiêu cảm.] “Như Lai thấy” tức là dùng Phật nhãn soi chiếu; “có những chúng sanh ưa thích pháp nhỏ”, là chỗ thấy được căn cơ chúng sanh. Kinh Hoa nghiêm nói: “Đại chúng tuy đã thanh tịnh nhưng vẫn còn những người khác ưa thích pháp nhỏ, nếu nghe pháp Đại thừa sẽ sanh tâm nghi ngờ hối tiếc, suốt đêm dài sinh tử suy sụp buồn lo; vì thương những người ấy nên lặng yên chưa thuyết dạy.”
Lời kệ nói rằng:
“Kẻ khác mới tu hành,
Trí tuệ chưa sáng tỏ;
Nương thức, chẳng nương trí.
Nghe rồi lo, hối tiếc,
Sẽ rơi vào đường ác,
Thương họ nên không thuyết.”[150]
Xét như kinh [Hoa nghiêm] ấy không có hàng Thanh văn Nhị thừa, chỉ nói đến những người tu hành chưa được lâu mà gọi là ưa thích pháp Tiểu thừa. Đại sư[151] nói: “Ưa thích pháp nhỏ không phải người tu Tiểu thừa, mà là những người ưa thích pháp hình tích gần đây[152] cho nên nói là nhỏ đó thôi.”
Nay sẽ nói bao quát tất cả, đó là: tham muốn ưa thích 25 cảnh giới hiện hữu là căn cơ của hàng trời người, “tìm đến chỗ ta” gọi là “pháp nhỏ”; tham muốn ưa thích Niết-bàn, mong cầu tự giải thoát, tức là căn cơ của hàng Nhị thừa “tìm đến chỗ ta” cũng gọi là ưa thích pháp nhỏ; ưa thích Phật đạo tuần tự thứ lớp, quanh co xoay vòng, tức là căn cơ của hàng Bồ Tát Tạng giáo “tìm đến chỗ ta”, cũng gọi là ưa thích pháp nhỏ.
“Phước đức mỏng manh” là 2 pháp lành duyên nhân và liễu nhân công năng hoạt dụng còn yếu ớt. Như kinh văn phần sau nói các con [của thầy thuốc] còn thơ dại.
“Cấu nhiễm sâu dày” là chưa dứt trừ được kiến hoặc và tư hoặc.
Hỏi: [Đức Phật] không phải sinh mà thị hiện có sinh ra, thi hành cả 2 cách giáo hóa đốn giáo và tiệm giáo, hàng bảy phương tiện có thể nói là ưa thích pháp nhỏ, còn căn cơ mà viên giáo, đốn giáo hướng đến lẽ ra phải là ưa thích pháp Đại thừa, vì sao lại nói chung đều là ưa thích pháp nhỏ?
Đáp: Phần trước chỉ nói lược qua ý nghĩa, nay sẽ giải thích rộng. Nói chung có 4 ý nghĩa.
Thứ nhất là dựa vào quá khứ, [những người này] tuy phát tâm Đại thừa mà không chuyên cần, tinh tấn, nhiều vướng mắc nơi tham dục xấu xa, không thể vượt thoát khỏi thế tục, nên gọi tham dục xấu xa đó là pháp nhỏ.
Thứ hai là dựa vào hiện tại, như khi Phật chưa ra đời, chư thiên và loài người [trong hạng này] tuy có cơ duyên Đại thừa nhưng tâm nhiễm thế tục, ưa thích bám chấp các tà kiến, cho nên gọi là ưa thích pháp nhỏ.
Hai ý nghĩa này tương đồng với phần sau nêu thí dụ [những đưa con uống nhầm thuốc độc] “lăn lộn trên mặt đất”.
Thứ ba là dựa vào sự tu hành, tuy không ưa thích pháp nhỏ cùng những tham dục xấu xa trong ba cõi, nhưng lại ưa thích sự đoạn diệt của ba thừa[153] nên cũng gọi là pháp nhỏ; tuy không ưa thích các quả vị thấp kém cạn cợt trong ba thừa, nhưng lại ưa thích các pháp tu tuần tự của Biệt giáo hướng đến Nhất thừa, không thể một lòng rộng tu theo pháp Viên giáo đốn ngộ, cho nên gọi là ưa thích pháp nhỏ.
Cả 3 ý nghĩa trên đều là dựa vào nhân môn để nêu việc ưa thích pháp nhỏ. Ý nghĩa thứ tư là dựa vào quả môn.[154] Ưa thích nghe pháp nhỏ nói việc thành đạo gần đây, [rằng Phật] ra khỏi cung điện của dòng họ Thích rồi mới đạt được quả vị Bồ-đề, không ưa thích nghe về đạo lớn lao sâu xa [nói việc đã thành Phật từ] rất lâu, cho nên nói là ưa thích pháp nhỏ. Tâm nhỏ hẹp này không phải ngày nay mới có, vì nếu trước đây ưa thích Đại thừa thì Phật đã không thuyết dạy việc mới thành đạo gần đây. Thuyết dạy việc mới thành đạo gần đây chính là vì những người ưa thích pháp nhỏ.
Đoạn thứ hai từ câu “nên vì những người ấy mà nói…” trở đi nói việc ứng thân hóa hiện trong hiện tại, lại chia ra làm 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nói việc không có sinh mà thị hiện sinh ra; tiểu đoạn thứ hai nói việc không có diệt mà thị hiện diệt độ.
Tiểu đoạn thứ nhất nói việc thị hiện sinh ra lại có 2 phân đoạn. Thứ nhất nói việc thị hiện sinh, thứ hai nói về lợi ích.
Phân đoạn thứ nhất lại có 2 ý, thứ nhất nói thị hiện sinh, thứ hai nói không có sinh.
Ý thứ nhất nói thị hiện sinh tức là bản tích thị hiện có sinh; nói không có sinh là không phải chỉ vừa mới sinh gần đây, chỉ vì những người [ưa thích pháp nhỏ] này nên nói rằng Phật chỉ vừa thành đạo gần đây.
Phần trước nói có 2 căn cơ nhanh nhạy và trì độn đều chiêu cảm pháp thân, nay tức hóa hiện cả thắng ứng thân và liệt ứng thân. Liệt ứng thân là cảm ứng với căn cơ trì độn; thắng ứng thân là cảm ứng với căn cơ nhanh nhạy. Hai ứng thân này đều có đủ hai thân là sinh thân và pháp thân.
Nay nói về hai thân của liệt ứng thân. Dùng trí tuệ chân chánh gá vào thai mẹ, vừa sinh ra liền đi bảy bước như lời thuật lại của Ca-chiên-diên Tử, cho đến trải qua 6 năm khổ hạnh; đó gọi là sinh thân sinh ra. Còn pháp thân sinh ra tức là dùng 34 tâm[155] dứt trừ hết sạch phiền não kết tập mà chứng đạt năm phần pháp thân.
Sinh thân của thắng ứng thân sinh ra thì như các kinh Hoa nghiêm, Đại Bát Niết-bàn… đã nói, là khi ở trong thai mẹ Ma-da vẫn thường thuyết giảng giáo pháp Đại thừa cho các vị Bồ Tát; vừa ra khỏi [thai mẹ] liền đi về mười phương, mỗi phương bảy bước. Đây gọi là sinh thân sinh ra. Còn pháp thân sinh ra là ở nơi đạo trường tịch diệt, với tâm sau cùng của Kim cương định[156] dứt trừ vô minh, đạt trí tuệ tương ưng của bậc Diệu giác, soi chiếu khắp cùng pháp tánh, muôn đức trọn đủ, chủng trí viên mãn soi sáng khắp cùng. Đây gọi là pháp thân sinh ra.
[Về thị hiện] xuất gia, đối với liệt ứng thân là ra khỏi căn nhà sinh tử phần đoạn, thắng ứng thân là ra khỏi cả hai căn nhà sinh tử phần đoạn và sinh tử biến dịch.
Về chứng đạo Bồ-đề, liệt ứng thân phát khởi các trí tuệ vô lậu là tận trí và vô sinh trí do chứng đạt bốn thánh đế có tạo tác,[157] đó gọi là Bồ-đề; thắng ứng thân thì soi chiếu đạo Nhất thật của ba đế,[158] đạt Nhất thiết chủng trí, đó là Bồ-đề.
Ý thứ hai từ câu “Nhưng thật ra ta thành Phật từ lâu xa…” trở đi nêu rõ vốn thật không có sinh ra, chỉ là do hàng trời, người, a-tu-la nhìn thấy sinh thân và pháp thân [Phật] nên nói là vừa mới sinh ra. Điều đó không đúng, vì Phật đã đạt được sanh thân, pháp thân từ rất lâu rồi. Việc ngày nay sinh ra đó không phải thật sinh ra, cho nên nói “từ lâu xa như đã nói trên”. “Như đã nói trên” là lâu xa như phần trước đã dùng thí dụ để nói.
Từ câu “vì dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh…” trở đi nêu ý: đã không phải thật sinh, vì sao lại thị hiện sinh ra? Đó là vì để làm lợi ích cho “những chúng sanh ưa thích pháp nhỏ, cấu nhiễm sâu dày, phước đức mỏng manh”, vì “giúp họ thể nhập đạo Phật”. Cho nên nói là “dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh nên mới nói ra như vậy”. Vì không phải thật sinh mà thị hiện sinh ra, cho nên nói “mới nói ra như vậy”.
Các kinh khác bác bỏ việc sinh ra sinh thân của liệt ứng thân, cho là sinh mà không phải sinh, nhưng vẫn không bác bỏ việc sinh ra pháp thân của liệt ứng thân, sinh mà không phải sinh. Nay kinh Pháp hoa này chính là bác bỏ đến cả việc sinh ra pháp thân của thắng ứng thân, sinh mà không phải sinh. Vì sao vậy? Kinh nói “thật ra ta thành Phật từ lâu xa như đã nói trên”, cho nên biết rằng ngày nay việc sinh ra pháp thân của liệt ứng thân và thắng ứng thân đều bị bác bỏ, nên sinh mà không phải sinh; so với các kinh khác là mãi mãi khác biệt.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Này các thiện nam tử! Những kinh điển mà Như Lai giảng giải…” nêu việc thị hiện sinh ra làm lợi ích về hình tướng và âm thanh, có 2 ý. Trước nói về hình tướng, âm thanh; sau nói việc không hư dối.
[Ý thứ nhất nói về hình tướng, âm thanh,] nêu việc thuyết pháp tức là dạy dỗ bằng âm thanh; chỉ bày tức là nêu quy củ bằng hình tướng. Hình tướng và âm thanh đều không ra ngoài hai nghĩa tự thân mình và thân Phật khác. Nếu nói pháp thân tức là “nói đó là thân mình”, nếu nói ứng thân tức là “nói là thân Phật khác”. Thêm nữa, nói gặp Phật Nhiên Đăng tức là “nói đó là thân mình”, nói Phật Nhiên Đăng là thầy ta tức là “nói là thân Phật khác”. Thị hiện chánh báo tức là “thị hiện thân mình”, thị hiện y báo tức là “thị hiện thân Phật khác”. Tùy theo ý người khác mà nói ra là thuyết về thân Phật khác, tùy theo ý mình nói ra là thuyết về tự thân mình. “Thị hiện việc của mình hoặc thị hiện việc của Phật khác” cũng đều phân biệt theo cách như vậy.
[Ý thứ hai nói việc không hư dối], từ câu “Những điều nói ra như vậy đều là chân thật không hư dối…” lại có 2 tiểu ý. Trước nêu nghĩa không hư dối, sau đó giải thích ý nghĩa không hư dối. Trước là nhấn mạnh vào lợi ích của [sự thuyết dạy bằng] âm thanh để nêu nghĩa không hư dối; sau dùng đồng thời 2 ý để giải thích ý nghĩa không hư dối.
Tiểu ý thứ nhất nêu nghĩa không hư dối. Vì cả 2 căn cơ tiệm và đốn đều nhận được lợi ích từ hình tướng và âm thanh, cho nên [lời Phật nói] không hư dối. Phần trước nói về quá khứ đã nêu rõ “tất cả đều hoan hỷ”, cũng tương tự như lợi ích của thế giới, nay lại nêu rõ “đều là chân thật không hư dối”. Hình tướng và âm thanh của thắng ứng thân và liệt ứng thân phù hợp với hai căn cơ nhanh nhạy và trì độn, giúp cho đều đạt được bốn tất đàn, cho nên không hư dối.
Luận Đại trí độ nêu rõ bốn tất đàn đều là chân thật, nên thế giới tất đàn là chân thật, đối trị tất đàn, vị nhân tất đàn cũng là chân thật. Nhưng nếu xét kỹ cả ba tất đàn này thì đều chỉ là chân thật của thế gian, mà chân thật đó cũng là không chân thật. Trong thế giới duyên khởi thì có ba sự chân thật thế gian này, nhưng trong đệ nhất nghĩa thì đó là không chân thật.
Nếu phân biệt nghĩa không thật và chân thật này dựa theo bản môn và tích môn, thì lợi ích của hai pháp tiệm, đốn cũng có chân thật và không chân thật.
Phương tiện thực hành theo tích môn chưa đạt được lợi ích của đạo chân thật, đó là nhân không thật. Bám chấp vào hình tích gần đây, chưa đạt được lợi ích chân thật của bản địa, tức là quả không thật.
Nay được nghe Phật thuyết dạy về tích môn, tất cả đều thể nhập thật tướng, tức là được lợi ích chân thật từ trong nhân; nghe Phật thuyết dạy về bản môn, liền dứt trừ tình chấp nơi [thị hiện] gần đây, đạt được lợi ích chân thật nơi quả địa dài lâu xa xưa.
Nay đạt được 2 sự chân thật [của bản môn] so với 2 sự không thật của tích môn, đó là nói theo chúng sanh viên đốn.
Đối với tích môn và bản môn cũng có một chân thật, một không chân thật. Đạt được hạnh trung đạo, đó là được lợi ích chân thật nơi nhân địa, nhưng còn chấp vào việc thành đạo gần đây, tức là quả không thật.
Nay nghe Phật thuyết dạy về nhân cũng không riêng được lợi ích chân thật, nghe thuyết dạy về quả xa xưa liền được lợi ích của quả chân thật. Đó là xưa kia có một [lợi ích] không chân thật, nay được một [lợi ích] chân thật, cho nên nói “đều là chân thật không hư dối”.
Hỏi: Đối với thật tướng Đại thừa hiển bày thuở xưa và nay, người đạt ngộ trước sau hẳn phải có khác biệt?
Đáp: Người vào trước, kẻ vào sau, đến khi vượt qua giáo pháp phương tiện[159] thì đều thể nhập trung đạo. Nhưng sự thể nhập có tuần tự, có tức thời, cho nên phân ra thành tiệm giáo, đốn giáo. Lấy ví dụ như việc thể nhập chân đế, người căn cơ trì độn thì dựa vào các pháp phân tích chia chẻ, như quán vô thường...; người căn cơ nhanh nhạy thì dùng pháp nhận rõ bản thể, như quán không; cho nên phân ra thành Tạng giáo, Thông giáo.
KINH VĂN
“Vì sao vậy? Vì Như Lai thấy biết đúng thật tướng trạng của ba cõi không có sinh tử, dù Phật ẩn hình hoặc ra đời, cũng không có việc ở đời hay diệt độ; không phải chân thật cũng không phải hư dối; không phải như vậy cũng không phải khác biệt; không giống như [chúng sanh trong] ba cõi nhìn thấy ba cõi. Những việc như vậy, Như Lai đều thấy biết sáng suốt không có sai lầm.
Tiểu ý thứ hai từ câu “Vì sao vậy? Vì Như Lai thấy biết đúng thật…” giải thích chung về sự không hư dối của việc làm lợi ích chúng sanh. Trước tiên giải thích [sự không hư dối của] việc làm lợi ích bằng hình tướng; sau đó giải thích về sự không hư dối của việc làm lợi ích bằng lời dạy. Trong phần này có 6 cách lập luận nêu rõ ứng thân không lìa pháp thân.[160] Pháp thân vô hình, không có sự sinh khởi hay diệt mất. Căn cơ của chúng sanh có sinh khởi, có diệt mất, chiêu cảm với pháp thân, do nguyện lực của Như Lai nên cùng khởi cùng diệt [với căn cơ chúng sanh], nhưng cái nhìn có sinh khởi, có diệt mất đó là phát xuất từ phía chúng sanh, cho nên dựa vào ba cõi mà nêu ra các vấn đề này.
Tiểu ý này lại có 2 điều. Thứ nhất là soi chiếu theo chân lý nên không hư dối. Thứ hai, từ câu “Chúng sanh vốn có đủ mọi loại căn tánh…” trở đi, nêu ý nghĩa xứng hợp căn cơ nên không hư dối. Vì thiết lập giáo pháp thấu đạt chân lý, xứng hợp căn cơ để giáo hóa chúng sanh nên không hư dối.
[Điều thứ nhất nêu việc soi chiếu:]
- “[Như Lai] thấy biết đúng thật” tức là trí tuệ chân thật, theo đúng chân lý mà soi chiếu sự đúng thật trong ba cõi. Theo lẽ như thật thì trong ba cõi không có tướng nguyên nhân. “Không có sanh tử” là không có sự khổ của 2 loại phần đoạn tử và biến dịch tử.[161]
- Nghiệp huân tập khởi gọi là “ẩn hình”, quả vô thường hiện gọi là “ra đời”. Lại cũng không có việc trụ nơi sanh tử thế gian cũng như diệt độ nhập Niết-bàn; cả hai điều này đều diệt mất nên nói “cũng không có việc ở đời hay diệt độ”.
- Không phải là chân thật của sự diệt độ, cũng không phải là hư dối của sinh tử, cho nên nói “không phải chân thật cũng không phải hư dối”.
- Không phải là ngăn cách khác biệt của thế gian, không phải là chân như của xuất thế, cho nên nói “không phải như vậy cũng không phải khác biệt”.
Bốn câu trên nêu ý nghĩa trung đạo. Nếu phủ định [hoặc xác định] cả 2 bên thì kết luận sẽ nghiêng về một bên. Lấy ví dụ như phủ định cả “không sanh, không tử” thì kết luận sẽ là sanh; xác định cả “là sanh là tử” thì kết luận là tử; phủ định cả “không ẩn hình, không ra đời” thì kết luận là ra đời; xác định cả “là ẩn hình, là ra đời” thì kết luận là ẩn hình; phủ định cả “không hư không thật” thì kết luận là thật; xác định cả “là hư là thật” thì kết luận là hư. Những cách lập luận như vậy nay đều bác bỏ; cho đến lập luận nghiêng về một bên, xen lẫn hai bên hoặc gồm đủ tất cả cũng đều phủ nhận. Như vậy mới có thể hiển lộ được ý nghĩa trung đạo.
“Không giống như [chúng sanh trong] ba cõi nhìn thấy ba cõi”, nghĩa là không giống như tướng trạng ba cõi mà hai hạng chúng sanh[162] trong ba cõi nhìn thấy, chỉ đức Phật là người duy nhất có thể [dùng trí tuệ] như thật soi chiếu cùng khắp tướng thật của ba cõi; nội tâm hàm chứa đầy đủ hoạt dụng của trí tuệ chân thật, cũng tùy ý tự nói ra, hoặc tự nói việc tự thân mình.
Cho nên Đại phẩm Bát-nhã nói: “Trong đệ nhất nghĩa không có chỗ phân biệt, nhưng đức Như Lai dùng trí tuệ quyền biến suy lường đúng thật, thấy biết tướng trạng của ba cõi giống như chúng sanh trong ba cõi nhìn thấy.[163] Dùng trí như thật thấy biết thật không có 2 cách chết,[164] nhưng tùy theo ý chúng sanh mà dạy về 2 cách chết, tự thân nói rằng có 2 cách chết; thật không có thối ẩn hoặc ra đời, nhưng tùy theo ý chúng sanh nói có ẩn hình, có ra đời; thật không có việc trụ thế hay diệt độ, nhưng tùy theo ý chúng sanh nói có trụ thế, có diệt độ; không có gì chân thật nhưng thuyết dạy sự chân thật của Niết-bàn; không có gì không thật nhưng thuyết dạy sự không thật của ba cõi; không có sự khác biệt của ba đời nhưng thuyết dạy có khác biệt; không có lẽ như của chân đế mà nói là có như; tương đồng như chúng sanh trong ba cõi nhìn thấy tướng trạng ba cõi; tất cả như vậy đều là tùy theo ý chúng sanh mà nói, cho nên gọi là “hoặc nói thân khác”, “thị hiện việc của thân khác”.
Hai trí [quyền, thật] của Như Lai soi xét sáng rõ về tục đế và chân đế; cho nên cả 2 lợi ích từ hình tướng và lời nói [của Như Lai] đều chân thật không hư dối.
KINH VĂN
“Chúng sanh vốn có đủ mọi loại căn tánh, mọi sự tham muốn, hành vi, suy tưởng phân biệt khác nhau, vì muốn cho họ sinh khởi các căn lành nên [Như Lai] mới vận dụng không biết bao nhiêu là nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để thuyết giảng đủ mọi giáo pháp; việc thi hành Phật sự chưa từng tạm dứt.”
[Điều thứ hai] từ câu “Chúng sanh vốn có đủ mọi loại căn tánh…” trở đi, giải thích việc xứng hợp căn cơ không hư dối, [có 3 khoản]. Trước tiên nêu việc căn cơ chiêu cảm, tiếp theo luận việc thi hành giáo hóa, cuối cùng là kết lại nghĩa không hư dối.
[Khoản thứ nhất nêu việc] chúng sanh có căn cơ nhanh nhạy, trì độn, tiệm, đốn chẳng đồng; tâm tánh, sự tham muốn, hành nghiệp, trí tuệ đủ loại khác biệt, [nhưng đức Phật] muốn cho mỗi chúng sanh đều được tăng trưởng các căn lành, cho nên mới thuyết dạy giáo pháp tự thân mình hoặc thân khác, các nhân duyên, thí dụ không hư dối.
Căn tánh tu tập tuần tự (tiệm) hoặc tức thời (đốn) [của chúng sanh] mỗi thứ đều có nhiều chủng loại, do vậy phải vận dụng vị nhân tất đàn. Vị nhân tất đàn chính là giúp sinh ra các căn lành. Căn lành cũng chính là tánh, do huân tập tham muốn mà thành tánh, vậy vì sao [kinh văn] trước nói đến tánh, sau mới nói đến tham muốn?
Giải thích rằng: Do nơi căn tánh ngày trước nên mới có thể khởi lên tham muốn ngày nay; cũng như nhân nơi phiền não mới có [thân] năm ấm, lại nhân nơi [thân] năm ấm mà có phiền não, không có điều nào là trước hay sau. Đối với căn tánh và tham muốn cũng vậy, phải do huân tập tham muốn mà thành tánh…[165]
Tham muốn cũng khác biệt ở 2 căn cơ tiệm và đốn, có đủ loại tham muốn khác nhau, do vậy nên vận dụng thế giới tất đàn.
Hành vi là khởi tạo hành nghiệp, tùy theo chỗ tham muốn mà tu các hạnh, do vậy nên vận dụng vị nhân tất đàn.
Trong chỗ tu hành nhiều ưa thích vướng mắc, dẫn đến có chướng ngại, do vậy nên dùng đối trị tất đàn.
Nhớ nghĩ suy tưởng cũng là trí tuệ, tức là trí hiểu biết tương tợ;[166] do tu hành nên có thể sinh ra chỗ hiểu biết. Đây là phương tiện, chưa xứng hợp với lẽ đạo vượt ngoài ngôn ngữ, cũng chỉ là chỗ thấy của niệm tưởng.
Chúng sanh với căn cơ tu tập tuần tự (tiệm) hoặc tức thời (đốn) đều ở trong các giai vị nội phàm, ngoại phàm,[167] có các căn lành cùng tham muốn. Do tham muốn nên tu hành; nhờ tu hành nên được trí hiểu biết tương tợ, do vậy nên vận dụng đệ nhất nghĩa tất đàn. Tùy theo chỗ nhận hiểu của chúng sanh nhờ suy tưởng nhớ nghĩ, Phật liền vì họ mà thuyết pháp, khiến cho sáng tỏ hiểu được chân lý rốt ráo.[168] Thậm chí [hàng Bồ Tát] sơ địa khi muốn tu hành lên nhị địa cũng suy tưởng nhớ nghĩ đến cảnh giới nhị địa, đó tức là niệm tưởng. Nếu phát sinh hiểu biết chân thật về cảnh giới nhị địa liền dứt trừ chỗ thấy của niệm tưởng, pháp ngôn ngữ diệt mất. Chỉ đạt đến quả Phật mới có thể rốt ráo xa lìa nhớ nghĩ suy tưởng, đạt được trí tuệ tịch tịnh thường soi chiếu mà thôi.
¡ [Khoản thứ hai] từ câu “vì muốn cho họ sinh khởi các căn lành…” trở đi [luận việc thi hành giáo hóa], nói việc đức Phật tùy theo căn cơ mà ban cho chúng sanh các lợi ích bằng cách thuyết dạy việc của mình và việc của Phật khác; đối với các căn cơ tuần tự (tiệm) hoặc tức thời (đốn) đủ loại khác nhau, vì muốn làm cho sanh khởi đủ mọi căn lành, nên thị hiện biết bao nhiêu là sự việc của thân mình và thân Phật khác; biết bao nhiêu là thanh âm giáo hóa của tự thân mình và của Phật khác, biết bao nhiêu là nhân duyên thí dụ.
Đối với căn cơ tu tập tuần tự (tiệm) thì dùng 4 cửa vào[169] của Tạng giáo cùng biết bao nhiêu là nhân duyên thí dụ; trong mỗi một cửa vào đó lại cũng có biết bao nhiêu [nhân duyên thí dụ]. Chẳng hạn như vì kẻ lười nhác mà thuyết dạy nhẫn chịu khổ nhọc; vì người ngã mạn mà thuyết dạy nhẫn chịu vô thường. Đại lược là như vậy. Đối với 4 cửa vào của Thông giáo cũng vậy.
Đối với căn cơ tu tập tức thời (đốn) như Biệt giáo, Viên giáo, mỗi giáo pháp lại cũng dùng 4 cửa vào với biết bao nhiêu đủ loại [phương tiện]. Chẳng hạn như 32 vị Bồ Tát [trong kinh Duy-ma-cật],[170] mỗi vị đều nói về thể nhập pháp môn bất nhị [khác biệt nhau]; trong kinh Hoa nghiêm nói đủ loại công hạnh, tướng mạo, đều là vì đủ loại căn cơ mà đưa ra “biết bao nhiêu là nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để thuyết giảng đủ mọi giáo pháp”.
[Khoản thứ ba nói] “Việc thi hành Phật sự chưa từng tạm dứt” là tổng kết lại ý nghĩa không hư dối. Như trên đã nói biết bao nhiêu hình tướng, âm thanh của Phật này Phật khác, đều là vì để giúp cho chúng sanh thể nhập tri kiến Phật, không phải vì việc nhỏ là đạt đến quả vị Tiểu thừa trong hai cõi trời, người, cho nên nói đó là Phật sự. Nếu chỉ một người riêng được diệt độ, những người khác không được, thì chỗ làm Phật sự đó có chỗ bỏ phế. Bỏ phế tức là khiến cho chúng sanh không được lợi ích chân thật, sao có thể tương hợp với ý nghĩa “đều là chân thật không hư dối”?
Thế nào là “đều là chân thật”? Thuở xưa Phật nói ta ngồi nơi đạo tràng chẳng được một pháp thật nào; bảy hạng phương tiện đều không phải diệt độ rốt ráo; hai loại Niết-bàn[171] chỉ là phương tiện như nắm tay rỗng không. Cho nên biết rằng, chỉ thấy những điều không thật, chưa thấy “đều là chân thật”. Nếu thuở xưa bày ra bảy hạng phương tiện là quyền biến, rốt lại không thể nhập vào một pháp chân thật thì có thể nói đều là không thật. Nhờ không thật ấy dẫn dắt mà được thoát ra, không thể ra khỏi không thật mà lại không thể nhập thật, cho nên biết rằng những không thật thuở xưa đều là chân thật. Nói “đều là chân thật không hư dối”, “Phật sự chưa từng tạm dứt”, tức là ý nghĩa như vậy.
KINH VĂN
“Như vậy, từ khi ta thành Phật đến nay đã hết sức lâu xa, tuổi thọ đến vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, thường trụ bất diệt. Các thiện nam tử! Tuổi thọ của ta vốn nhờ tu hành đạo Bồ Tát mà có được, đến nay vẫn chưa dứt, lại còn tăng thêm gấp nhiều lần. Ta nay không thực sự sẽ diệt độ nhưng lại nói rằng: ‘Ta sẽ diệt độ.’”
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Như vậy, từ khi ta thành Phật đến nay đã hết sức lâu xa…” trở đi, nêu ý nghĩa không có diệt độ mà thị hiện diệt độ, lại chia làm 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu nghĩa không có diệt độ mà thị hiện diệt độ; phân đoạn thứ hai từ câu “Như Lai dùng phương tiện như vậy…” trở đi, nêu lợi ích của việc thị hiện diệt độ.
Phân đoạn thứ nhất lại có 2 ý . Ý thứ nhất nêu nghĩa vốn thật không có diệt độ. Ý thứ hai từ câu “Ta nay không thực sự sẽ diệt độ…” trở đi nêu nghĩa trong Tích môn nói việc diệt độ.
Ý thứ nhất từ câu “Như vậy, từ khi ta thành Phật đến nay…” trở đi nêu rõ quả vị Phật là thường, là “thường trụ bất diệt”; nhờ vào bốn chữ này để nêu rõ uy thế mạnh mẽ lớn lao trong tương lai thường trụ bất diệt, làm lợi ích chúng sanh.
Từ câu “tuổi thọ của ta vốn nhờ tu hành…” trở đi là nêu nhân so sánh với quả để nói việc thường trụ. Các nhà cựu giải dựa vào chỗ này để cho là nói nghĩa vô thường, rằng trước đây đã trải qua số kiếp như cát sông Hằng, nay “lại còn tăng thêm gấp nhiều lần”, dù có thần thông kéo dài tuổi thọ cũng vẫn là vô thường. Đó là nắm hiểu kinh văn sai lệch, phạm lỗi rất lớn. Kinh văn nêu nhân để so sánh quả, quả đó không có số lượng. Kinh văn lại nói, từ lâu xa tu tập nghiệp lành nên được tuổi thọ vô số kiếp, không phải là do thần thông kéo dài tuổi thọ. Vì sao vậy? Phật tu hành nhân viên mãn, khi vừa lên bậc sơ trụ liền được thường thọ; thường thọ ấy đã không phải là lấy số tuổi thọ nhân gấp bội lên, huống chi là tuổi thọ khi đã chứng quả? Vì sao lại vất bỏ quả được so sánh mà vội chấp vào nhân nêu ra để so sánh? Lại ví như chấp lấy nhân này thì cũng đã là thường, chẳng phải vô thường, cũng giống như khi còn là thái tử bổng lộc đã dùng không hết, huống chi lúc lên ngôi vua, bổng lộc ấy há có thể dùng hết được sao? Kinh văn ở đây sáng tỏ rõ ràng, đâu cần nhận hiểu vòng vo vặn vẹo gây nghi ngờ cho người đời sau?
Ý thứ hai từ câu “Ta nay không thực sự…” trở đi, nêu nghĩa trong Tích môn nói việc diệt độ. Cả ba thân Phật đều có nghĩa “không diệt độ mà nói diệt độ”.
Như kinh Tịnh Danh[172] nói: “Pháp vốn không sanh, nay ắt không diệt”; tức là nói pháp thân không diệt. Lại nói: “Đó là nghĩa tịch diệt”; tức là nói diệt độ. Vì sao vậy? Nếu đã chứng đạt thấu triệt thì không nói tịch diệt; vì những người chưa thấu triệt nên mới nói tịch diệt. Nếu nói soi chiếu chỗ tịch tịnh tức là nói diệt độ; nói tịch tịnh mà soi chiếu tức là nói sinh khởi.
Pháp thân tuy không sinh không diệt nhưng cũng có sự sinh diệt. Nếu tâm mê muội bám chấp thì phiền não sinh mà trí tuệ diệt; nếu tâm giải thoát, không đắm nhiễm thì trí tuệ sinh, phiền não diệt. Diệt mê hoặc, sinh giải thoát, đó là diệt vô thường. Nếu giải thoát sinh, mê hoặc diệt, đó mới là tịch diệt.[173] Sự sinh diệt như vậy là dựa vào tánh pháp để biện luận. Nếu không có cả 2 duyên mê hoặc và giải thoát, ắt không nói là có sự sinh diệt này.
Báo thân không diệt mà nói có diệt. Ai có trí tuệ, ai có phiền não mà nói là trí tuệ có thể phá phiền não? Đây chính là nghĩa sáng tối không trừ bỏ nhau,[174] tức là nghĩa báo thân chẳng diệt. Chúng sanh chưa hiểu rõ nghĩa, nghe như vậy cho rằng [báo thân] đó tức là Phật, liền sinh tâm kiêu mạn phóng túng, không chịu tu tập đạo pháp. Cho nên nói rằng: “Đạo có thể diệt mê hoặc.” Lúc có phiền não thì không có trí tuệ, lúc có trí tuệ thì không có phiền não, chẳng phải là trí tuệ có thể diệt trừ phiền não đó sao?
Ứng thân không diệt mà nói có diệt. Ứng thân là tác dụng của pháp thân và báo thân. Thể tánh đã không diệt, tác dụng lẽ nào lại có chỗ cùng tận? Tức là nghĩa ứng thân không diệt. Chỉ vì chúng sanh nếu thường được thấy Phật liền sanh kiêu mạn phóng túng, nên Phật mới nói rằng: “Đêm nay ta sẽ diệt độ.”
Lại nữa, tự thể pháp thân rõ ràng là không diệt. Báo thân nếu nói không diệt là dựa vào pháp thân [mà nói]. Nếu dựa theo lý lẽ mà luận việc trí tuệ có công năng phá trừ [phiền não] thì đó là vì chỗ đạt ngộ mà phá trừ hay vì chưa đạt ngộ mà phá trừ?[175] Vì cả hai mà phá trừ hay chỉ vì riêng một bên mà phá trừ? Suy xét theo lý lẽ như vậy thì thấy không có công năng phá trừ, tức là ý nghĩa trí tuệ thật không diệt trừ mê hoặc. Thế nhưng khi có trí tuệ thì không có phiền não, tức là trí tuệ có khả năng diệt trừ mê hoặc.
Ứng thân nếu nói không diệt thì phải dựa vào pháp thân và báo thân [mà nói]. Pháp thân và báo thân đã thường trụ như nhiên thì ứng dụng của hai thân ấy cũng không dứt mất. Chúng sanh còn chưa được hóa độ hết thì [ứng thân Phật] không diệt độ.
[Cho nên, với] pháp thân thì dựa vào tự thể để luận việc không sanh diệt; báo thân thì chứng đạt thấu triệt nên không thể có việc sanh diệt; ứng thân thì [hóa hiện] tiếp nối liên tục nên không có sanh diệt. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
“Như Lai dùng phương tiện như vậy để giáo hóa chúng sanh. Vì sao vậy? Vì nếu Phật ở đời lâu dài thì những người phước mỏng không gieo trồng căn lành, sống nghèo khó hèn hạ, tham chấp năm món dục, đắm chìm trong mạng lưới nhớ nghĩ suy tưởng, thấy biết hư vọng. Nếu thấy Như Lai sống mãi ở đời không diệt độ, họ liền khởi tâm kiêu căng phóng túng, ôm lòng chán nản lười nhác, không nghĩ rằng khó được gặp Phật, không khởi tâm cung kính.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Như Lai dùng phương tiện như vậy để giáo hóa…” trở đi nêu việc thị hiện diệt độ làm lợi ích chúng sanh, chia làm 2 ý. Ý thứ nhất nói không diệt độ thì chúng sanh chịu tổn hại; ý thứ hai từ câu “Cho nên Như Lai dùng phương tiện nói rằng…” trở đi nêu rõ, nếu nói việc diệt độ thì chúng sanh sẽ được lợi ích.
Ý thứ nhất có 2 tiểu ý. Trước nói việc không diệt độ sẽ có tổn hại; sau giải thích rộng việc không có diệt độ.
Tiểu ý thứ nhất nói việc có tổn hại, vì những người ưa thích pháp nhỏ như đã nói ở trước, nếu thấy Phật thường ở đời sẽ không gieo trồng căn lành; những kẻ nghèo khốn hèn kém không khởi sinh 2 loại pháp lành[176] nên không được lợi ích. Họ không dứt trừ kiến hoặc và tư hoặc, không dứt trừ 2 loại pháp xấu ác[177] nên phải chịu tổn hại.
“Tham chấp năm món dục, đắm chìm trong mạng lưới nhớ nghĩ suy tưởng.” Nhớ nghĩ suy tưởng tức là kiến hoặc; năm món dục tức là tư hoặc. Do những điều này mà chúng sinh nhiều cấu nhiễm nặng nề, cho nên [Phật] phải nói việc diệt độ. Nếu Phật không nói việc diệt độ thì 2 loại pháp xấu ác sẽ sinh khởi mà không diệt mất; 2 loại pháp lành bị hao tổn mà không sinh khởi.
Nếu y theo bốn tất đàn thì thị hiện diệt độ tức là 2 loại pháp xấu ác diệt đi, 2 loại pháp lành được sinh khởi.
Vì diệt 2 loại pháp xấu ác nên vận dụng đối trị tất đàn và đệ nhất nghĩa tất đàn. Đệ nhất nghĩa tất đàn diệt những điều xấu ác chưa sinh khởi; đối trị tất đàn diệt những điều xấu ác đã sinh khởi.
Vì làm sinh khởi 2 loại pháp lành nên vận dụng thế giới tất đàn và vị nhân tất đàn. Thế giới tất đàn làm sinh khởi những điều lành chưa sinh khởi; vị nhân tất đàn làm tăng trưởng những điều lành đã sinh khởi.
Lại nữa, thế giới tất đàn diệt trừ những điều xấu ác đã sinh khởi; đối trị tất đàn diệt trừ những điều xấu ác chưa sinh khởi, như thiền quán về năm ấm diệt được các điều xấu ác trong Dục giới, tức là thế giới tất đàn diệt trừ những điều xấu ác đã sinh khởi.
Vị nhân tất đàn làm tăng trưởng những điều lành đã sinh khởi; đệ nhất nghĩa tất đàn làm khởi sinh những điều lành vô vi chưa sinh khởi.
Tiểu ý thứ hai từ câu “Nếu thấy Như Lai sống mãi ở đời…” là giải thích rộng. Nếu [chúng sanh] thấy Phật thường ở đời liền “khởi tâm kiêu căng phóng túng, ôm lòng chán nản lười nhác”… cho nên có sự tổn hại; không thể sinh tâm cung kính cho nên không được lợi ích. “Kiêu căng phóng túng” là tăng thêm kiến hoặc; “chán nản lười nhác” là sinh khởi tư hoặc.
“Không nghĩ rằng khó được gặp Phật” tức là không khởi sinh hiểu biết kiến đế;[178] “không khởi tâm cung kính” tức là không thể khởi sinh tư duy theo chánh đạo.
Vì những ý nghĩa đó cho nên Phật phải thị hiện việc diệt độ. Nếu chúng sanh thấy nghe việc ba thân Phật[179] đều không diệt mất, liền hiểu theo nghĩa làm khởi sinh kiêu căng phóng túng, cho rằng “chúng sanh là như, Di-lặc là như, chỉ có nhất như, không có nhị như, tất cả đều bình đẳng, tức là chân thật”.[180] Do nghĩ như vậy liền sinh tâm kiêu mạn khinh thường, cho rằng hết thảy các phiền não vốn trước không sinh ra, nay cũng chẳng diệt đi thì cần gì phải tu tập đạo pháp; do đó liền mặc tình phóng túng lười nhác. Vì những người như vậy mà nói việc diệt độ, đây là ý nghĩa của tịch diệt.
Lại nữa, khi chúng sanh nghe rằng tất cả chúng sinh đều là tướng Bồ-đề; rằng tướng Bồ-đề là tướng phiền não; rằng sáng với tối không trừ bỏ nhau, cùng hiển lộ Bồ-đề của chư Phật... nghe như vậy rồi liền khởi sinh kiêu mạn phóng túng, không chịu tu tập điều lành, lười nhác buông lung. Vì những người như vậy nên Phật nói rằng, báo thân dùng trí tuệ có thể diệt trừ phiền não, trí Bồ-đề của Phật có thể diệt trừ sức vô minh lớn lao.
Ứng thân Phật không diệt mà thị hiện diệt độ, điều này dễ hiểu.
Nếu nói rằng pháp vốn không sinh, nay cũng không diệt, thì phải tu tập dứt trừ mê hoặc rồi mới đạt đến tịch diệt.
Kinh điển dạy rằng: Trí tuệ không dứt trừ phiền não, nhưng khi sáng thì không có tối. Chúng sanh ngày nay đầy các phiền não thì làm sao có thể có trí tuệ? Nên biết rằng trí tuệ có thể diệt trừ mê hoặc che chướng.
Chúng sanh nghe Phật nói việc diệt độ như vậy, liền đối với ba thân Phật đều sinh ý tưởng cho là khó gặp, khởi tâm cung kính.
KINH VĂN
Cho nên Như Lai dùng phương tiện nói rằng: ‘Các tỳ-kheo nên biết, rất khó được gặp chư Phật ra đời!’ Vì sao vậy? Những người phước mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp, có khi được gặp Phật, có khi không được gặp Phật. Do vậy nên ta nói: ‘Các tỳ-kheo! Rất khó được gặp Như Lai.’ Những chúng sanh nói trên nghe được lời này ắt sẽ nghĩ rằng rất khó được gặp Phật, ôm lòng luyến mộ, khát ngưỡng đối với Phật, liền gieo trồng căn lành. Cho nên, Như Lai tuy không thật sự diệt độ nhưng nói rằng diệt độ.
“Lại nữa, này các thiện nam tử! Pháp của chư Phật Như Lai đều như vậy, vì hóa độ chúng sanh nên hết thảy đều chân thật không hư dối.”
Ý thứ hai từ câu “Cho nên Như Lai dùng phương tiện…” trở đi, nói việc diệt độ là có lợi ích, có 2 tiểu ý. Trước tiên xưng tán việc khó được gặp Phật, kế đến giải thích ý nghĩa khó gặp, cả ba thân Phật đều khó gặp.
[Tiểu ý thứ nhất xưng tán việc khó được gặp Phật.] Chúng sanh ưa thích pháp nhỏ, kiến hoặc và tư hoặc che chướng nặng nề, nếu nghe nói ba thân Phật không diệt mất ắt sẽ không tu tập đạo pháp, khó lòng khế hợp [chân lý].
[Tiểu ý thứ hai] từ câu “Vì sao vậy…” trở đi là phần giải thích. “Những người phước mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp, có khi được gặp Phật, có khi không được gặp Phật.” Nếu được gặp ba thân Phật thì đó là người nhiều phước lành, ít nghiệp xấu ác, nên không phải vì hạng người này mà nói việc diệt độ. Hạng người này vẫn thường thấy Phật ở tại Linh sơn.
“Có khi không được gặp Phật…”, hạng người này phước lành ít, che chướng nặng nề, nên vì họ nói ba thân Phật rất khó gặp. Những chúng sanh này nghe vậy liền nghĩ, ba thân Phật tuy chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, nhưng phải tu tập sinh khởi điều thiện, diệt trừ mê hoặc mới có thể được gặp; việc này thật không dễ dàng, cho nên nói là khó gặp.
“Ôm lòng luyến mộ, khát ngưỡng đối với Phật”, đây là nêu nghĩa thị hiện diệt độ không làm tổn hại. Diệt trừ kiến hoặc, tư hoặc nên gọi là không tổn hại; “liền gieo trồng căn lành” nên gọi là có lợi ích.
KINH VĂN
“Lại nữa, này các thiện nam tử! Pháp của chư Phật Như Lai đều như vậy, vì hóa độ chúng sanh nên hết thảy đều chân thật không hư dối.”
Phần thứ hai từ câu “Lại nữa, này các thiện nam tử…” trở đi, tóm kết ý nghĩa ba đời làm lợi ích chúng sanh, chúng sanh được lợi ích chân thật, chia làm 3 phần. Thứ nhất nêu việc chư Phật xuất hiện trong đời có năm sự uế trược, tất nhiên trước dạy ba thừa, sau quy về Nhất thừa; trước dạy tích môn thành đạo gần đây, sau nói bản môn thành đạo từ lâu xa, [nên nói “đều như vậy”]. Thứ hai nêu rõ tất cả đều là “vì hóa độ chúng sanh”. Thứ ba nói rõ “hết thảy đều chân thật không hư dối”.
KINH VĂN
“Ví như có vị thầy thuốc trí tuệ sáng suốt, biết rõ các phương thuốc, giỏi điều trị đủ các bệnh. Vị ấy có nhiều con, hoặc mười, hoặc hai mươi, thậm chí đến hàng trăm người con. Vị ấy có việc phải đi xa đến nước khác. Sau đó, những người con uống nhầm thuốc độc, bị thuốc phát tác làm cho mê loạn, lăn lộn trên mặt đất.”
Tổng phần thứ hai từ câu “Ví như có vị thầy thuốc…” trở đi là nói thí dụ, có 2 phần nêu thí dụ và nói nghĩa tương hợp với thí dụ.
Phần thứ nhất nêu thí dụ lại có 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nêu thí dụ thầy thuốc trị bệnh cho con, tương ứng với phần trước nói việc chư Phật ba đời ứng hiện biến hóa thích hợp. Tổng đoạn thứ hai nêu thí dụ trị bệnh cho con, các con được lợi ích chân thật, tương ứng với phần trước nói ba đời chư Phật làm lợi ích chúng sanh không hề hư dối. Kinh văn phần trước không nói về tương lai, phần này nói đủ.
Tổng đoạn thứ nhất lại có 3 đoạn. Thứ nhất, thí dụ thầy thuốc có việc đi xa, tương ứng với việc chư Phật làm lợi ích chúng sanh trong quá khứ. Thứ hai, nói việc vị thầy thuốc quay về rồi lại ra đi, tương ứng với việc chư Phật ứng hóa trong hiện tại. Thứ ba, nói việc vị thầy thuốc lại quay về, tương ứng với việc chư Phật ứng hóa trong tương lai.
Phần nói việc [lợi ích chúng sanh] trong quá khứ, kinh văn có 2 ý. Thứ nhất là khai mở việc mới thành đạo gần đây, hiển bày việc đã thành đạo từ lâu xa. Thứ hai là nêu việc ứng hóa thích hợp trong quá khứ. Nay trong thí dụ chỉ nêu việc ứng hóa thích hợp.
Việc nêu nghĩa thích hợp [trong phần trước] lại có 3 ý. Thứ nhất là xứ sở thích hợp; thứ hai là quét sạch nghi ngờ về tích môn; thứ ba là nói ý chính ứng hóa. Nay trong thí dụ chỉ nói việc ứng hóa.
Phần trước nói việc ứng hóa lại có 2 ý. Thứ nhất nêu căn cơ chiêu cảm; thứ hai nêu ý chính ứng hóa. Nay trong thí dụ đều có đủ.
“Như có vị thầy thuốc” là thí dụ tương ứng với đoạn sau phần trên nói “ta sẽ dùng Phật nhãn quán xét”, nói nghĩa Phật có trí tuệ để ứng hiện. “Vị ấy có nhiều con” là thí dụ tương ứng với phần trên ở trước nói “có chúng sanh nào tìm đến chỗ ta”, tức là nói cơ duyên có thể chiêu cảm. Phần trước nói việc ứng hóa thích hợp nêu 2 ý, thứ nhất là lợi ích chúng sinh, thứ hai nêu sự hoan hỷ. Nay phần này chỉ nói thí dụ lợi ích chúng sanh. Phần trước nói lợi ích chúng sanh lại có 2 ý, thứ nhất là không phải sinh mà thị hiện sinh, thứ hai là không phải diệt mà thị hiện diệt. Nay chỉ nói thí dụ việc thị hiện diệt.
[Đoạn thứ nhất,] trước tiên nói “có vị thầy thuốc”. Thầy thuốc có 10 hạng.
- Hạng thứ nhất là thầy thuốc trị bệnh nhưng bệnh lại tăng thêm, không giảm bớt, hoặc có lúc đến mức phải chết. Hạng này thí dụ cho hàng ngoại đạo chấp không,[181] buông thả tâm ý làm việc xấu ác, dạy người khác sinh khởi tà kiến dứt mất căn lành. Pháp thân đã mất, sinh mạng trí tuệ cũng chết.
- Hạng thứ hai là thầy thuốc trị bệnh nhưng bệnh chẳng tăng thêm, cũng không giảm bớt. Hạng này thí dụ cho hàng ngoại đạo khổ hạnh chấp có,[182] như lao vào vách đá, nhảy vào đống lửa, chịu cực hình khổ sở cho đó là làm thiện, không đạt được thiền định. Không dứt được phiền não, tức là bệnh không giảm bớt, nhưng cũng không thể dứt mất căn lành, tức là bệnh không tăng thêm.
- Hạng thứ ba là thầy thuốc trị bệnh thuyên giảm, không tăng thêm. Cũng giống như thầy thuốc thế gian tuy trị được khỏi bệnh nhưng về sau bệnh lại tái phát. Đây tức là hàng ngoại đạo nhờ tu thiền định dứt trừ được phiền não.[183]
- Hạng thứ tư là thầy thuốc trị bệnh khỏi rồi không còn tái phát, nhưng không trị được hết tất cả bệnh. Đây là thí dụ cho hàng nhị thừa, có thể hóa độ được một vài hạng người đủ duyên, không thể hóa độ tất cả chúng sanh.
- Hạng thứ năm là thầy thuốc tuy có thể trị được tất cả các bệnh nhưng không có phương thuật khéo léo để dứt sự đau đớn. Luận Đại trí độ gọi đây là hóa độ vụng về, tức là thí dụ cho hàng Bồ Tát tu sáu ba-la-mật dùng tâm từ bi rộng độ chúng sanh.
- Hạng thứ sáu là thầy thuốc trị bệnh có phương thuật khéo léo, có thể trị dứt bệnh không còn đau đớn khổ não, nhưng không thể trị những bệnh nan y phải chết. Đây là thí dụ cho hàng Bồ Tát Thông giáo, thể chứng được pháp, có thể hóa độ cho hàng phàm phu luân chuyển trong ba cõi,[184] nhưng không thể hóa độ hàng Nhị thừa đã mất hạt giống Phật.[185]
- Hạng thứ bảy là thầy thuốc tuy có khả năng trị được những bệnh khó lành, nhưng không thể cùng lúc trị được tất cả các bệnh. Đây là thí dụ cho hàng Bồ Tát Biệt giáo.
- Hạng thứ tám là thầy thuốc có khả năng cùng lúc trị được tất cả các bệnh, nhưng không thể giúp cho bệnh nhân bình phục hoàn toàn như trước. Đây là thí dụ cho hàng Bồ Tát Viên giáo từ sơ tâm lên đến Thập tín.
- Hạng thứ chín là thầy thuốc có khả năng cùng lúc trị được tất cả bệnh, cũng có thể giúp cho bệnh nhân bình phục như trước, nhưng không thể làm cho khỏe mạnh hơn trước. Đây là thí dụ cho hàng Bồ Tát Viên giáo đạt đến tâm sau cùng.[186]
- Hạng thứ mười là thầy thuốc có khả năng cùng lúc trị được tất cả các bệnh đều bình phục, lại khiến cho bệnh nhân được khỏe mạnh hơn trước kia. Đây tức là thí dụ cho đức Như Lai.
Ba hạng thầy thuốc đầu tiên tức là người “thầy thuốc trước đây” (cựu y) được nói trong kinh Đại Bát Niết-bàn, là người thầy thuốc chỉ dùng sữa làm thuốc.[187] Bảy hạng thầy thuốc sau tức là “thầy thuốc đến sau” (khách y). Nói không có phương thuật tức là chỉ dùng các pháp vô thường, khổ v.v. như dùng các vị cay, đắng, chua… làm thuốc. Có phương thuật tức là thầy thuốc đến sau cuối cùng quay lại cho dùng sữa, đó mới là vị lương y sau cùng giỏi nhất.
Nói “lương y” tức là thầy thuốc giỏi. Bên trong có đủ tam đạt ngũ nhãn,[188] tức là 8 phương thuật khéo biết được tính chất các loại thuốc; giỏi việc chữa trị, tức là bên ngoài rõ biết nguyên nhân của bệnh nên có thể dùng thuốc.
“Trí tuệ sáng suốt” tức là nói 2 trí quyền và thật, rõ biết sâu xa tục đế và chân đế. “Biết rõ” tức là dùng 5 loại mắt quán sát rõ biết căn cơ nhanh nhạy hay chậm lụt, không hề sai lệch; “các phương thuốc” là nói 12 thể loại kinh điển văn từ nghĩa lý hết sức sâu xa, như các phương thuốc được tinh luyện kỹ lưỡng. Nương theo bốn pháp tất đàn để trị bệnh của chúng sanh, cũng như thầy thuốc “giỏi điều trị đủ các bệnh”.
Kinh Vô lượng nghĩa gọi [đức Phật] là Y vương, Đại Y vương. Vì là bậc đại y nên gọi là lương y. “Vị ấy có nhiều con”, nói “hoặc mười” là hàng Thanh văn,[189] “hoặc hai mươi” là nói hàng Duyên giác,[190] “thậm chí đến hàng trăm” là nói hàng Bồ Tát.
Nói Bồ Tát là con Phật có 3 ý nghĩa.
Ý nghĩa thứ nhất là hết thảy chúng sanh đều có đủ 3 loại tánh đức của tánh Phật,[191] tức là Phật tử. Do vậy kinh văn nói: “Nay khắp ba cõi này, đều thuộc về Như Lai; nên chúng sanh trong đó, đều là con Như Lai.”
Kinh văn ở đây nói “có nhiều con”, dựa theo 10 pháp tâm sở[192] tức là có 100 con. Tâm vương là chánh nhân Phật tánh, trí tuệ là liễu nhân tánh, ngoài ra 9 [tâm sở khác] nương giúp lẫn nhau sinh khởi nên là duyên nhân tánh. Một tâm sở khởi sinh thì 9 tâm sở khác giúp vào, như vậy thành số 100.
Tánh đức của Phật tử chẳng phải thiện, chẳng phải ác, nhưng thông cả thiện ác. Vì thế, 10 tâm sở này cùng với tâm vương gọi là các thông tâm sở. Do vậy, ba loại nhân của tánh đức đều thuộc về chánh nhân Phật tử.
Ý nghĩa thứ hai là vì thuở xưa đã kết duyên nên là con Phật, như 16 vị vương tử khi giảng lại kinh Pháp hoa, người nghe pháp cũng khởi sinh được chút hiểu biết, tức thành tánh liễu nhân; thuở xưa có tu hành đôi chút, là tánh duyên nhân; tánh chánh nhân là căn bản. Cả 3 nhân ấy đều thuộc duyên nhân, nhờ đó ngày nay mới phát sinh được sự hiểu biết một lẽ chân thật. Cho nên lấy sự kết duyên ngày xưa mà gọi là duyên nhân Phật tử, tức là 30 người con ở trong căn nhà đang cháy. Ở đây dựa theo 10 tín tâm,[193] khi một tín tâm sinh khởi tức là có đầy đủ 9 tâm kia, cho nên 10 tín tâm trở thành 100 tín tâm. Do vậy được kết duyên làm Phật tử.
Ý nghĩa thứ ba, do liễu nhân nên là Phật tử, tức là [những người] ngày nay được nghe kinh Pháp hoa, trụ yên trong trí tuệ chân thật, biết chắc mình sẽ được làm Phật, thấu hiểu rõ ràng về pháp Thanh văn, biết được kinh Pháp hoa này là vua trong các kinh; [những người ấy là] từ miệng Phật sanh ra, được một phần Phật pháp, cho nên gọi là Phật tử chân thật.
Điều này cũng có đủ 3 tánh nhân. Ngày nay đã hiển lộ, thấy rõ Phật tánh, đều thuộc về liễu nhân Phật tử. Ý nghĩa 100 con quay lại tương ứng với 10 tâm sở thể nhập trong 10 pháp lành, 10 tín tâm thể nhập trong giai vị Sơ trụ, cho nên chánh nhân thông cả từ ban đầu cho đến cuối cùng. Kinh văn phần này nêu rõ nghĩa 100 con, không nói đến hàng liễu nhân Phật tử. Liễu nhân Phật tử được nói rõ ở phần sau [trong thí dụ những người con] còn tỉnh táo chịu uống thuốc.
“Có việc phải đi xa đến nước khác” là thí dụ cho ứng hóa thân trong quá khứ đã thị hiện diệt độ.
[Đoạn thứ hai] từ câu “Sau đó, những người con…” trở đi, nói việc [người cha] trở về rồi lại đi là thí dụ cho hiện tại làm lợi ích chúng sanh. Phần này lại có 2 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất từ “Sau đó, những người con uống nhầm thuốc độc…” thí dụ kinh văn phần trên nói việc đức Phật quán sát căn cơ tương ứng “thấy có những chúng sanh… …cấu nhiễm sâu dày, phước đức mỏng manh”, tức là những chúng sanh sau khi Phật diệt độ thì ưa thích bám chấp các pháp của tà sư trong ba cõi, cho nên nói là “uống nhầm thuốc độc”. [Cũng giống như] khi người cha đi đến nước khác, [chúng sanh] lại phải lưu chuyển luân hồi, sa đọa trong ba cõi, cho nên nói là “lăn lộn trên mặt đất”.
KINH VĂN
“Khi ấy, người cha trở về nhà. Những người con đã uống nhầm thuốc độc, có người mất lý trí, có người còn tỉnh táo, nhưng từ xa nhìn thấy cha thì tất cả đều hết sức mừng rỡ, quỳ lạy thưa hỏi vấn an: ‘Mừng thay, cha đã quay về bình yên. Chúng con ngu si đã uống nhầm thuốc độc, xin được cha cứu chữa, giữ lại mạng sống.’”
[Tiểu đoạn thứ hai] từ câu “Khi ấy, người cha trở về nhà…” trở đi là thí dụ kinh văn phần trước nói “Ta xuất gia khi nhỏ tuổi, sau đó chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” [Trong phần trước,] đây là đoạn thứ hai nói nghĩa không phải sanh mà thị hiện sanh. [Phần này có 4 phân đoạn.]
[Phân đoạn thứ nhất,] kinh văn phần trước có 2 ý, nêu [lợi ích từ] hình sắc (thân tướng), âm thanh (thuyết pháp) [của Phật] và nói những lợi ích đó không hư dối. Nay nói việc các con uống thuốc độc [cho đến người cha] “bỏ đi sang nước khác” là thí dụ kinh văn phần trước nói lợi ích từ hình sắc (thân tướng Phật). Tin nhận các pháp của hạng tà sư gọi là “uống thuốc độc”; “đã mất lý trí” tức là không có căn cơ cảm ứng Đại thừa, Tiểu thừa; “còn tỉnh táo” là có căn cơ cảm ứng Đại thừa, Tiểu thừa.
Lại nữa, “đã mất lý trí” là nói việc đắm chấp trong ba cõi làm mất đi những căn lành trong ba thừa trước đã gieo trồng. [Đức Phật] vì những người này nên không diệt độ mà nói sẽ diệt độ. “Còn tỉnh táo” là nói tuy bám chấp năm món dục lạc nhưng không để mất căn lành trong ba thừa. [Đức Phật] vì những người này nên không có sinh mà thị hiện đản sinh. [Vì những người này có] tâm hiền thiện mạnh mẽ, tâm xấu ác yếu ớt, khi được gặp Phật liền có thể tu tập đạo pháp, dứt trừ phiền não; ví như những người con gặp cha, cầu xin được thuốc liền khỏi bệnh. [Còn những người] tâm hiền thiện yếu ớt, tâm xấu ác nặng nề khi được gặp Phật, tuy cũng cầu cứu độ nhưng không chịu tu tập đạo pháp, ví như những người con gặp cha cầu cứu nhưng rồi không chịu uống thuốc. Người cha vì những đứa con này mà nói rằng “đã chết”.
“Từ xa nhìn thấy” là nói nghĩa khi Phật ra đời, chúng sanh tuy nhìn thấy sắc thân Phật ra đời, nhưng vì che chướng bởi kiến hoặc, tư hoặc nên ngăn cách với năm phần pháp thân.[194] Vì không được tự thân mình kính phụng Pháp thân nên nói là “từ xa”. Thấy nghe Phật ra đời đều có những việc cung kính hoan hỷ. Hiện trong các kinh văn nói những việc như Phạm vương thỉnh cầu... là ví như lời [những người con] cầu xin được cứu.
KINH VĂN
“Người cha thấy các con đau khổ như vậy liền y theo các loại sách thuốc mà tìm được những cỏ thuốc tốt có đủ màu sắc đẹp, hương vị thơm ngon, đem giã nát, lược lấy phần nhỏ mịn rồi trộn đều thích hợp, đưa cho các con uống, bảo rằng: ‘Đây là loại thuốc rất tốt, có đủ màu sắc đẹp, hương vị thơm ngon, các con hãy uống vào sẽ nhanh chóng hết khổ, không còn bệnh tật.’
[Phân đoạn thứ hai] từ câu “Người cha thấy các con đau khổ…” là thí dụ cho kinh văn phần trước nói lợi ích từ việc nghe Phật thuyết pháp. Phần này lại có 2 ý.
[Ý thứ nhất] thí dụ việc Phật nhận lời thưa thỉnh, chuyển nhị đế pháp luân. Từ chỗ “bảo rằng” trở đi là thí dụ việc Phật khuyến khích răn dạy. “Các loại sách thuốc” là nói 12 thể loại kinh điển; “cỏ thuốc” tức là tám vạn pháp môn được giảng giải trong giáo pháp. Từ nơi Phật mà có 12 thể loại kinh điển cho đến có Niết-bàn. Đó là tìm ra các loại cỏ thuốc chữa bệnh nhanh hoặc chậm. Từ Phật thuyết ra đủ 12 thể loại kinh điển, đó là tìm ra cỏ thuốc chữa bệnh nhanh. Từ Phật thuyết ra kinh Tu-đa-la, đó là tìm ra cỏ thuốc chữa bệnh chậm. “Đủ màu sắc đẹp” là ví cho giới luật; giới luật ngăn phòng những việc [xấu ác của] thân và miệng, có sự tướng rõ ràng. “Hương vị thơm ngon” thì “hương” là ví cho định, như hương công đức xông ướp tất cả, “vị” là ví cho trí tuệ, có thể giúp đạt được vị của chân lý. Giới, định, tuệ đó tức là Bát chánh đạo; tu tập Bát chánh đạo có thể thấy được tánh Phật.
Lại nữa, “màu sắc” là ví như Bát-nhã, soi chiếu rõ hình sắc của tánh pháp, phân biệt rõ ràng không ngăn ngại; “hương” là ví như giải thoát, có phẩm đức đoạn trừ các mùi hôi hám; “vị” là ví như pháp thân, tức vị của chân lý. Ba pháp [Bát-nhã, Giải thoát, Pháp thân][195] không thuộc về thời gian, không thuộc về không gian, gọi là tạng bí mật. Y theo giáo pháp tu hành thì thể nhập được tạng này. Thuyết dạy về sức Tam-muội Không của ba thừa giống như “giã nát”, Vô tướng ví như “lược lấy phần nhỏ mịn”, Vô tác ví như “trộn đều thích hợp”. Mỗi một tam-muội này[196] đều có đủ giới, định, tuệ.
Lại nữa, pháp quán Không ví như “giã nát”, pháp quán Giả ví như “lược lấy phần nhỏ mịn” và quán Trung ví như “trộn đều thích hợp”. Ba pháp quán này cũng không lìa khỏi giới, định, tuệ. Đem các pháp này dạy cho các chúng sanh với căn cơ tiệm hoặc đốn để họ tu hành tức là “đưa cho uống”.
[Ý thứ hai] từ câu “bảo rằng” cho đến “hãy uống vào” là dùng pháp khuyên dạy; từ “nhanh chóng hết khổ” đến “không còn bệnh tật” là dùng pháp răn nhắc. Đó là dùng cả 2 pháp khuyên dạy và răn nhắc để làm cho chúng sanh chịu uống thuốc Chánh pháp.
KINH VĂN
“Trong số các người con, những người còn tỉnh táo nhìn thấy loại thuốc hay, màu sắc hương vị đều tốt đẹp, liền lập tức uống vào, bệnh khổ dứt hết. Những người khác đã mất lý trí, tuy thấy cha về cũng mừng rỡ thưa hỏi vấn an, cầu xin trị bệnh, nhưng khi đưa thuốc cho thì không chịu uống. Vì sao vậy? Vì chất độc đã ngấm sâu làm mất cả lý trí, nên đối với loại thuốc này có màu sắc hương vị đều tốt lại cho rằng không tốt.
[Phân đoạn thứ ba] từ câu “Trong số các người con, những người còn tỉnh táo…” trở đi là thí dụ phần kinh văn ở trước nói được lợi ích không hư dối. Kinh văn ở trước có 2 ý, thứ nhất là nêu nghĩa không hư dối, thứ hai là giải thích nghĩa không hư dối. Nay ở phần này nói “trong số các người con, những người còn tỉnh táo…” liền uống thuốc vào được khỏi bệnh, tức là thí dụ kinh văn phần trước nói “tất cả đều không hư dối”. Riêng ý giải thích nghĩa không hư dối thì không nói thí dụ.[197]
_____________________________
CHÚ THÍCH
[1] Nguyên tác Hán văn là “無所有性 - vô sở hữu tánh”, có thể hiểu là tính chất không thể thuộc về sở hữu của người hay vật khác.
[2] Nguyên tác Hán văn là “一切語言道斷 - nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn” (dứt sạch mọi ngôn ngữ), hàm ý là tất cả ngôn từ, mọi cách diễn đạt đều không thể nêu ra, không thể mô tả được.
[3] Chỉ sự bám chấp nghiêng về một trong hai bên, hoặc chấp có, hoặc chấp không.
[4] Chỉ 3 chân lý đạt đến nhờ sự tu tập quán chiếu, gồm giả đế, không đế và trung đế.
[5] Chỉ 8 sự điên đảo của phàm phu và hàng nhị thừa. Phàm phu có 4 sự điên đảo, đối với các pháp thế gian chấp thật có thường, lạc, ngã, tịnh; hàng nhị thừa có 4 sự điên đảo, đối với Niết-bàn tịch diệt chấp rằng không có thường lạc, ngã, tịnh.
[6] Văn Cú dùng “薩婆若 - tát-bà-nhã”, phiên âm từ chữ sarva-jñatā, dịch là nhất thiết trí, chỉ trí tuệ của chư Phật với ý nghĩa là “rõ biết tất cả”.
[7] Văn Cú nói “無自他共無因等性 – vô tự tha cộng vô nhân đẳng tánh”. Đây là chỉ rõ thực thể của tất cả các pháp vốn không tự sanh ra hoặc tồn tại (tự tánh), không thể do pháp khác (tha tánh), không phải do hòa hợp tự và tha (cộng tánh), cũng không thể do không có nhân mà thành (vô nhân tánh).
[8] Kinh văn nói “不出 - bất xuất”, Văn Cú Ký giải thích: “出者退也 - xuất giả thối giả” (xuất nghĩa là thối), như vậy “bất xuất” tức là “bất thối” (không thối chuyển), làm rõ thêm ý nghĩa được Văn Cú giải thích ở đây.
[9] Văn Cú dùng “三帝 - tam đế”, tức chỉ không đế, giả đế và trung đế.
[10] Văn Cú dùng “nhị biên bát đảo”, chỉ 8 sự điên đảo do bám chấp thiên lệch về 2 bên đối đãi. Phàm phu có 4 sự điên đảo là bám chấp vào các pháp thế gian cho đó là thường, lạc, ngã, tịnh; hàng nhị thừa có 4 sự điên đảo là bám chấp Niết-bàn tịch diệt lại cho là không có thường, lạc, ngã, tịnh. Cả 8 sự điên đảo này đều do thiên chấp giữa 2 bên đối đãi là có và không.
[11] Văn Cú dùng Thích luận (釋論), thật ra là chỉ đến Luận Đại Trí độ (大智度論), quyển 51, nguyên văn là: “如虛空常相故, 無入相, 無出相, 無住相。 - Như hư không thường tướng cố, vô nhập tướng, vô xuất tướng, vô trụ tướng.” Văn Cú chỉ dẫn theo ý, không đúng nguyên văn. Xem Đại Chánh tạng, Tập 25, kinh số 1509, trang 423, tờ c, dòng 22-23.
[12] Luận Đại Trí độ (大智度論), quyển 43, xem Đại Chánh tạng, Tập 25, kinh số 1509, trang 374, tờ c, dòng 27-28.
[13] Đệ nhất nghĩa không (第一義空 - paramārtha-śūnyatā), lìa khỏi các pháp thì không hề riêng có tự tánh thật tướng đệ nhất nghĩa có thể nắm bắt, nên đối với thật tướng cũng không bám chấp.
[14] Nội không (內空 - adhyātma-śūnyatā), bên trong không có 6 nội xứ như nhãn xứ, nhĩ xứ… không có ngã, ngã sở, cho đến không có các pháp như mắt, tai, mũi…
[15] Ngoại không (外空 - bahirdhā-śūnyat), bên ngoài không có 6 ngoại xứ như sắc xứ, thanh xứ… không có ngã, ngã sở, cho đến không có các pháp hình sắc, âm thanh, mùi hương…
[16] Nội ngoại không (內外空 - adhyātma-bahirdhā-śūnyatā), không có toàn bộ 6 căn bên trong, 6 trần cảnh bên ngoài, tức không có 12 xứ, không có ngã, ngã sở, cũng không có pháp của chúng.
[17] Không không (空空 - śūnyatā-śūnyatā), không bám chấp vào các pháp nội không, ngoại không và nội ngoại không.
[18] Đại không (大空 - mahā-śūnyatā), trong khắp các thế giới mười phương thật không có các tướng xác định như xưa hoặc nay, phương này hoặc phương khác.
[19] Văn Cú dùng “執方計破 - chấp phương kế phá”. Pháp hoa kinh văn cú phụ chánh ký (法華經文句輔正記) giải thích rằng: “疏執方計破者, 執空為有, 有即屬方, 破之執故, 故云計破。 - Sớ chấp phương kế phá giả, chấp không vi hữu, hữu tức thuộc phương, phá chi chấp cố, cố vân kế phá.” Theo đây thì có thể hiểu rằng Văn Cú muốn nói việc phá sự bám chấp vào “không” như một thực thể thật có. Xem Tục tạng kinh, Tập 28, kinh số 593, trang 776, tờ c, dòng 8-9.
[20] Tất cánh không (畢竟空 - atyanta-śūnyatā), quán xét vận dụng các pháp hữu vi không và vô vi không mà phá trừ hết thảy các pháp, cuối cùng thấu triệt không còn lại gì nên rốt ráo là không.
[21] Nhất thiết không (一切空), tức chư pháp không (諸法空 - sarva-dharma-śūnyatā), cũng gọi là nhất thiết pháp không, vì 5 ấm, 12 xứ, 18 giới… cùng hết thảy các pháp đều không tự có tướng xác định nên lìa tướng bám chấp, nắm giữ.
[22] Hữu vi không (有為空 - saṃskṛta-śūnyatā), tất cả các pháp do nhân duyên hội tụ sanh khởi cùng với các tướng pháp nhân duyên đều không thể nắm bắt.
[23] Vô vi không (無為空 - asaṃskṛta-śūnyatā), tức là đối với pháp Niết-bàn lìa bỏ hết thảy mọi sự bám chấp xác định.
[24] Vô thủy không (無始空 - anavarāgra-śūnyatā), cũng gọi là vô hạn không (無限空), vô tế không (無際空), là rõ biết hết thảy các pháp đều sanh khởi từ vô thủy nhưng trong tất cả các pháp đó vẫn thường lìa bỏ tướng bám chấp nắm giữ.
[25] Tánh không (性空 - prakṛti-śūnyatā), cũng gọi là bản tánh không (本性空), Phật tánh không (佛性空), là rõ biết tự tánh của hết thảy các pháp đều là không.
[26] Tướng không (相空), tức là tự tướng không (自相空- svalakṣaṇa-śūnyatā), cũng gọi là tự cộng tướng không (自共相空), là nói tất cả các tướng chung hay riêng, đồng hay khác của các pháp, thảy đều không thể nắm giữ bám chấp.
[27] Bất khả đắc không (不可得空 - anupalambha-śūnyatā), cũng gọi là vô sở hữu không (作無所有空), là nói trong tất cả các pháp do nhân duyên đều không thể tìm được ngã hay pháp.
[28] Hữu pháp không (有法空 - svabhāva-śūnyatā), cũng gọi là tự tánh không (自性空), phi hữu tánh không (非有性空), vì tất cả các pháp chỉ do nhân duyên mà có nên sự hiện hữu được thấy trong hiện tại không phải là chân thật hiện hữu.
[29] Vô pháp không (無法空 - abhāva-śūnyatā), cũng gọi là vô tánh không (無性空), phi hữu không (非有空), là nói tất cả các pháp sau khi hoại diệt không thể tìm thấy tự tánh, tất cả các pháp tương lai chưa hiện hữu cũng vậy, đều không thể tìm thấy tự tánh.
[30] Văn Cú chép là “有法無法空 - hữu pháp vô pháp không”, nhưng thường dùng là vô pháp hữu pháp không (無法有法空 - abhāva-svabhāva-śūnyatā), cũng gọi là vô tánh tự tánh không (無性自性空), là nói sự sanh diệt của tất cả các pháp trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai nói chung, cùng tất cả các pháp vô vi đều không thật có, không thể nắm bắt.
[31] Tán không (散空 - anavakāra-śūnyatā), cũng gọi là tán vô tán không (散無散空), bất xả không (不捨空), bất xả ly không (不捨離空), tức là quán xét thấy hết thảy các pháp đều do nhân duyên giả hợp mà có, nên thực sự không hề có sự ly tán, tan rã.
[32] Vi-đà (韋陀), phiên âm chữ Veda, cũng thường đọc là Phệ-đà (吠陀), chỉ bộ thánh điển của đạo Bà-la-môn từ thời cổ đại, gồm 4 nội dung chính được gọi là Tứ Phệ-đà.
[33] Đoạn trích dẫn này là trong kinh Ma-đăng-già (摩登伽經), quyển 1, thuộc Đại Chánh tạng, Tập 21, kinh số 1300, trang 403, tờ a, trích từ dòng 12. Văn Cú không trích dẫn nguyên văn kinh mà chỉ thuật lại ý kinh nhưng không hoàn toàn chính xác. Do vậy, những con số trong đoạn trích này không hoàn toàn phù hợp với trong kinh. Tuy nhiên, ý chính của đoạn kinh văn lại không được Văn Cú đề cập đến, đó là đức Phật nêu việc hình thành và biến đổi của bộ Vệ-đà qua thời gian để chỉ rõ nó không có ý nghĩa chân thật và dễ thay đổi. Đức Phật nêu rõ điều này trong câu mở đầu đoạn kinh văn nhưng Văn Cú không trích: “我今當說此圍陀典, 無有實義, 易可離散。 - Ngã kim đương thuyết thử Vi-đà điển vô hữu thật nghĩa, dị khả ly tán.” (Nay ta sẽ nói về bộ sách Vi-đà này, không có nghĩa chân thật, dễ bị thay đổi phân tán.)
[34] Văn Cú dùng “雜語 - tạp ngữ”. Bộ luận này tên Phạn ngữ là Vyākaraṇa, còn được gọi là Thanh minh ký luận (聲明記論) hay Tự bản luận (字本論), chủ yếu nói về các vấn đề ngôn ngữ như ngữ âm, ngữ pháp, văn phạm... Cho nên có thể hiểu rằng “tạp ngữ” ở đây là các vấn đề về ngôn ngữ.
[35] Phiên âm từ Phạn ngữ Vaiśeṣika.
[36] Phiên âm từ Phạn ngữ Ulūka.
[37] Văn Cú nói là “六諦 - lục đế”, hàm ý là 6 chân lý của học phái Thắng luận. Học phái này chủ trương hết thảy mọi hiện tượng trong thế giới đều không nằm ngoài 6 phạm trù là thật (實), đức (德), nghiệp (業), đồng (同), dị (異) và hòa hợp (和合), gọi chung là 6 cú nghĩa (句義), Phạn ngữ là satpadārtha.
[38] Phiên âm từ Phạn ngữ Kapila.
[39] Tăng-khư (僧 佉), phiên âm từ Phạn ngữ Sāṅkhya, dịch nghĩa là Số luận (數論). Đây là Số luận ngoại đạo, khác với phái Số luận thuộc Thuyết nhất thiết hữu bộ của Phật giáo Tiểu thừa.
[40] Văn Cú nói là “二十五諦 - nhị thập ngũ đế”, chỉ đến 25 yếu tố mà học phái này cho rằng bao hàm hết thảy mọi hiện tượng trong thế giới, được phân ra thành 4 nhóm. 1. Nhóm 5 yếu tố phổ quát bao gồm: thần ngã, giác, nguyên chất, ngã mạn và tâm thức. 2. Nhóm 10 căn của chúng sanh bao gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, da (gọi là 5 tri căn) và miệng, tay, chân, cơ quan sinh dục, cơ quan bài tiết (gọi là 5 tác căn). 3. Nhóm 5 ngoại cảnh bao gồm: hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm và sự xúc chạm. 4. Nhóm 5 yếu tố cấu thành gồm: đất, nước, lửa, gió, khoảng không (gọi chung là 5 đại).
[41] Tu-đa-la (sūtrānta-piṭaka) tức là tạng Kinh, Tỳ-ni (vinaya-piṭaka) là tạng Luật, A-tỳ-đàm (abhidharma-piṭaka) là tạng Luận. Ba tạng này gọi chung là Tam tạng (trīṇi piṭakāni).
[42] Văn Cú nói “解脫 - giải thoát” tức là biệt giải thoát (別解脫), chỉ giới luật do Phật chế định, tức là tạng Luật.
[43] Về phương thức hành dâm của các cõi trời như nêu ở đây, Văn Cú diễn đạt rất tối nghĩa và có một vài khác biệt, chúng tôi tham khảo luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (阿毘達磨俱舍論), quyển 11 để hiểu cách nói của Văn Cú. Văn Cú nói “忉利天以風為事 - Đao-lợi thiên dĩ phong vi sự”, có vẻ như “dùng gió để hành dâm”, nhưng luận Câu-xá nói rõ hơn là chư thiên ở đây “形交成婬與人無別, 然風氣泄熱惱便除, 非如人間有餘不淨 - hình giao thành dâm dữ nhân vô biệt, nhiên phong khí duệ nhiệt não tiện trừ, phi như nhân gian hữu dư bất tịnh” (khi hành dâm thân xác giao nhau không khác với con người, nhưng khi hơi gió xuất ra nóng bức liền dứt, không như người thế gian còn lại chất dơ nhớp). Do vậy có thể hiểu rằng ở đây Văn Cú muốn nói đến “hơi gió xuất ra” khi hành dâm, là điều khác biệt với con người. Về những chi tiết tham khảo trong đoạn này, xin xem trong Đại Chánh tạng, Tập 29, kinh số 1558, trang 60, tờ b, dòng 4 - 8.
[44] Văn Cú nói là “相近為事 - tương cận vi sự” (gần nhau là hành dâm), nhưng luận Câu-xá nói “夜摩天眾纔抱成婬 – Dạ-ma thiên chúng tài bão thành dâm” (Chư thiên cõi trời Dạ-ma vừa ôm nhau tức là hành dâm.) Dạ-ma là cách gọi khác của Diễm-ma, như vậy phải hiểu rằng chư thiên khi hành dâm không chỉ đến gần bên nhau mà là ôm nhau.
[45] Văn Cú nói “相牽為事 - tương khiên vi sự”, luận Câu-xá nói rõ hơn là “但由執手 - đãn do chấp thủ” (chỉ cần nắm tay nhau), như vậy có thể hiểu chữ “牽 - khiên” không phải dẫn dắt, lôi kéo mà là nắm tay.
[46] Văn Cú nói “相視為事 - tương thị thành sự” (nhìn nhau là hành dâm), luận Câu-xá nói “唯相向笑 - duy tương hướng tiếu” (chỉ cười với nhau).
[47] Văn Cú nói “心念為事 - tâm niệm vi sự” (tâm nghĩ đến là hành dâm) nhưng luận Câu-xá nói chư thiên cõi trời này mới “相視成婬 – tương thị thành dâm” (nhìn nhau là hành dâm) chứ không phải cõi trời Hóa lạc. Chúng tôi chưa rõ là Văn Cú căn cứ vào tài liệu khác hay đã nhầm lẫn giữa 2 cõi trời này.
[48] Cõi trời Tha hóa tự tại là cao nhất trong Dục giới, do vậy Văn Cú nói “những cõi trời trên nữa” tức là đã ra khỏi Dục giới, thuộc về Sắc giới và Vô sắc giới.
[49] Văn Cú nói “有男女形不能男女 - hữu nam nữ hình bất năng nam nữ”, kinh văn gọi những người này là “不男 - bất nam”, nghĩa là mang hình dạng đàn ông nhưng không đủ nam tính. Do vậy, hàm ý của Văn Cú khi nói “bất năng nam nữ” là không thể quan hệ nam nữ như bình thường.
[50] Nguyên văn là “四事 - tứ sự”, chỉ 4 nhu cầu thiết yếu là thức ăn, y phục, chỗ ở và thuốc men trị bệnh.
[51] Chúng tôi tìm thấy nội dung trích dẫn này ở kinh Tăng nhất A-hàm (增壹阿含經), quyển 11. Văn Cú không trích dẫn nguyên văn mà chỉ thuật lại vắn tắt nội dung. Xem chi tiết trong Đại Chánh tạng, Tập 2, kinh số 125, trang 599, tờ c, dòng 6 đến trang 600, tờ a, dòng 4.
[52] Nhân vô ngã: quán chiếu thấy rõ con người thực sự do năm ấm hợp thành, trong đó không thể tìm ra một tự ngã làm chủ thể, cho nên gọi là nhân vô ngã, cũng gọi là nhân không.
[53] Pháp vô ngã: quán chiếu thấy rõ hết thảy các pháp đều do nhân duyên giả hợp mà thành, mỗi pháp đều không thể tự tồn tại, không có tự tánh, không có một chủ thể có thể gọi là ngã, cho nên gọi là pháp vô ngã, cũng gọi là pháp không.
[54] Nguyên tác Hán văn là “一切種智 - nhất thiết chủng trí” (trí biết được tất cả), chỉ cho trí tuệ Phật, hiểu biết tất cả mọi vấn đề, không có phạm vi giới hạn. Ở đây muốn phân biệt với trí tuệ của ba thừa (Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát), tuy sáng suốt nhưng vẫn còn có giới hạn, chưa phải là Nhất thiết chủng trí.
[55] Văn Cú nói “不約張說趙長 - bất ước Triệu thuyết Trương trường”. Trương và Triệu được dùng như những đại từ phiếm chỉ để chỉ người này, người kia… mà không xác định là ai, tương tự như cách dùng mỗ giáp (某甲) trong văn xưa. Văn Cú Ký giải thích rõ hơn bằng cách dùng lại thành Trương gia (張家), Triệu gia (趙家), Trương nhân (張人), Triệu nhân (趙人)…
[56] Văn Cú nói là trích từ kinh Nhật Tạng (日藏經), quyển 1, nhưng hiện chỉ thấy tên kinh được ghi trong các bản mục lục kinh điển, không tìm thấy quyển kinh riêng biệt. Tuy nhiên, nội dung đoạn trích dẫn này được tìm thấy trong Đại phương đẳng Đại tập kinh (大方等大集經), quyển 34, phần Nhật Tạng, phẩm thứ nhất Hộ trì chánh pháp (日藏分護持正法品第一). Xem chi tiết trong Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 237, tờ a, từ dòng 24 đến dòng 28.
[57] Nội dung đoạn này có vẻ như dựa theo kinh Tỳ-kheo Na-tiên (那先比丘經), lúc vua Di-lan-đà hỏi Tỳ-kheo Na-tiên thế nào cách tranh luận khác biệt của bậc trí giả và hàng vương giả. Văn Cú đã lặp lại theo cách nói giản lược. (ĐCT, T32, 1670B, tr.706b, d.16-24: “Bậc trí tuệ khi tranh luận thì chất vấn nhau đến chỗ rốt ráo, giải thích cho nhau cùng hiểu, có những lời hơn nhau hoặc kém nhau, lập luận có thắng có bại, có đúng có sai, tự biết nhận ra lý lẽ đúng sai, đó là trí tuệ cao tột nhất… … Vua chúa tranh luận thì phóng túng, chỉ theo ý mình. Nếu người tranh luận dám nói những điều ngược lại, không hợp ý vua, ắt sẽ bị vua dùng sức mạnh mà trách phạt, trừng trị. Cách tranh luận của vua chúa là như thế.” (Kinh Tỳ-kheo Na-tiên, bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến, NXB Tôn giáo, Hà Nội 2009)
[58] Văn Cú chỉ nêu đại lược. Chúng tôi dựa theo Văn Cú Ký để hiểu được những ý nghĩa này. Văn Cú Ký giải thích: “三種語也, 智者語即可答, 王者語, 愚者語即不可答。 - Tam chủng ngữ giả, trí giả ngữ tức khả đáp, vương giả ngữ, ngu giả ngữ tức bất khả đáp.” (ĐCT, T34, 1719, tr.322b, d.9-10)
[59] Chỗ này Văn Cú ghi nhầm là “第二 - đệ nhị”, theo cấu trúc đã nói ở trước thì đây là tiểu đoạn thứ ba.
[60] Văn Cú ghi nhầm là “第三 - đệ tam”, nhưng đây là đoạn thứ hai.
[61] Văn Cú dùng “通惑 - thông hoặc” (phiền não chung), chỉ 2 loại phiền não là kiến hoặc và tư hoặc. Đây là những phiền não mà người tu tập trong ba thừa đều phải dứt trừ nên gọi là phiền não chung, khác với vô minh hoặc và trần sa hoặc là hàng Bồ Tát Biệt giáo phải dứt trừ, nên gọi là “別惑 - biệt hoặc” (phiền não riêng).
[62] Văn Cú dùng “偏圓 - thiên viên” để chỉ 2 phần giáo pháp. Thiên là thiên lệch, viên là viên mãn, trọn đủ. Giáo pháp còn thiên lệch tức là Tiểu thừa, giáo pháp đã viên mãn, trọn đủ là Đại thừa. Trong một số trường hợp khác, “thiên” cũng được dùng để chỉ chung Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo; “viên” chỉ cho Viên giáo.
[63] Văn Cú trích dẫn câu này từ kinh Duy-ma-cật sở thuyết (維摩詰所說經): “不起滅定而現諸威儀 - bất khởi diệt định nhi hiện chư oai nghi”. (ĐCT, T14, 475, tr.539c, d.21-22)
[64] Nguyên tác Hán văn là “奴婢人民 - nô tỳ, nhân dân”, cần được hiểu theo bối cảnh của Ấn Độ thời cổ đại, trong đó có tồn tại chế độ nô lệ. Do vậy, khi nhà vua ban cho “nô tỳ” có nghĩa là các nô lệ có bổn phận phục dịch người chủ, và ban cho “nhân dân” có nghĩa là một số cư dân ở địa phương nào đó và người được ban thưởng có quyền thu thuế cũng như cai quản những cư dân này.
[65] Văn Cú dùng “七賢 - thất hiền” (bảy bậc hiền), cũng gọi là thất gia hành vị (七加行位), trong đó bao gồm tam hiền và tứ thiện căn (các giai vị nội phàm). Bảy bậc hiền này bao gồm: 1. Ngũ đình tâm vị; 2. Biệt tướng niệm trụ vị; 3. Tổng tướng niệm trụ vị. (3 giai vị này thuộc về ngoại phàm, cũng gọi chung là tam hiền.) 4. Noãn pháp vị; 5. Đính pháp vị; 6. Nhẫn pháp vị; 7. Thế đệ nhất pháp vị. (4 giai vị này thuộc về nội phàm, cũng gọi chung là tứ thiện căn.)
[66] Văn Cú dùng “三昧 - tam-muội”, phiên âm từ chữ samādhi, cũng đọc là tam-ma-đề (三摩提), dịch nghĩa là chánh định.
[67] Văn Cú chỉ nói là “涅槃 - Niết-bàn” nhưng theo văn cảnh ở đây đang nói đến sơ quả (Tu-đà-hoàn), nhị quả (Tư-đà-hàm), tam quả (A-na-hàm), tức là 3 thánh quả Tiểu thừa, nên có thể hiểu Niết-bàn này tức là thánh quả thứ tư, quả A-la-hán, cũng tức là Niết-bàn của Tiểu thừa.
[68] Văn Cú nói là “超頌 - siêu tụng” (tụng vượt sang), vì trong kinh văn trường hàng ở trước nói về các pháp tu hành trước, sau mới nói về sự thành tựu công hạnh. Ở đây lại tụng ý nghĩa thành tựu công hạnh trước, nên gọi là “siêu tụng”.
[69] Tức là các tướng của một vị Phật khi xuất thế, bao gồm: giáng thần, nhập thai, đản sanh, xuất gia, hàng ma, thành đạo, thuyết pháp và nhập Niết-bàn.
[70] Bốn bậc thiền, tức Tứ thiền, gồm sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền.
[71] Văn Cú không dẫn chú nhưng nội dung này được trích dẫn từ Luận A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa (阿毘曇毘婆沙論), với chỉ một vài chữ khác biệt. (ĐCT, T28, 1546, tr.145b, d.16-18)
[72] Năm đường (ngũ đạo), tức cõi trời, cõi người, cảnh giới địa ngục, cảnh giới ngạ quỷ và cảnh giới súc sanh.
[73] Tức là nói hôn miên cái (惛眠蓋), gồm hôn trầm (惛沈) và thụy miên (睡眠), được cho là một trong 5 yếu tố che chướng sự sanh khởi của trí tuệ, được gọi chung là ngũ cái (五蓋).
[74] Nguyên tác là “一月萬影 - nhất nguyệt vạn ảnh”, ảnh hay bóng ở đây chỉ hình chiếu của mặt trăng dưới nước, cho nên ở khắp mọi nơi, nếu có nước là có bóng trăng phản chiếu bên dưới, không thể suy lường tính đếm được số lượng.
[75] Nguyên tác là “寂場少父寂光 老兒 - Tịch trường thiểu phụ, tịch quang lão nhi”. “Tịch trường” là nói tắt của “tịch diệt đạo trường”, chỉ đạo trường nơi đức Thế Tôn thành đạo. Tuy đức Phật đã thành đạo từ vô lượng kiếp trước nhưng thị hiện chỉ mới vừa thành đạo nơi cội Bồ-đề rồi thuyết giảng giáo pháp, nên so sánh như người cha còn ít tuổi, trẻ trung. “Tịch quang” là nói tắt của Thường tịch quang, chỉ cõi Thường tịch quang là Tịnh độ nơi pháp thân Như Lai thường an trụ, chư Bồ Tát thực hành công hạnh lâu dài mới an trụ cõi này, nên so sánh như những đứa con nhiều tuổi, già dặn.
[76] Nguyên tác dùng “藥力 - dược lực”, nghĩa đen là công năng của thuốc, ở đây ví chánh pháp như ;iều thuốc trị bệnh cho chúng sanh.
[77] Văn Cú ký giải thích rằng điều thứ nhất là lợi ích thuộc thế giới tất đàn, điều thứ hai là lợi ích thuộc vị nhân tất đàn, điều thứ ba là đối trị tất đàn, lại thêm nghĩa “phá cận hiển viễn” là đệ nhất nghĩa tất đàn. Cho nên nói rằng 3 nghĩa này hàm chứa đủ 4 lợi ích tất đàn.
[78] Hàm ý diễn đạt của đoạn văn này là các vị Bồ Tát dẫn theo càng nhiều quyến thuộc thì số lượng càng ít hơn so với số lượng các vị dẫn theo ít quyến thuộc. Như vậy số Bồ Tát dẫn theo quyến thuộc nhiều như số cát của sáu mươi ngàn con sông Hằng là ít nhất và số Bồ Tát chỉ dẫn theo hai người, một người đệ tử cho đến chỉ đi một mình có số lượng nhiều nhất.
[79] Trong đoạn này kinh văn chỉ thể hiện hàm ý qua chữ “況復 - huống phục” (huống chi là…) nhưng Văn Cú trong đoạn giảng giải đã dẫn thành “其數轉過上 - kỳ số chuyển quá thượng” (số lượng ấy còn lớn hơn nữa), nhưng câu này vốn không có trong kinh văn.
[80] Nguyên tác dùng Hoa vương thế giới (花王世界), là tên gọi khác của Hoa tạng thế giới, chỉ thế giới trang nghiêm thanh tịnh được mô tả trong kinh Hoa nghiêm.
[81] Nguyên tác dùng “滿字 - mãn tự”, nghĩa đen là trọn chữ, đủ chữ, ví như giáo pháp rốt ráo, đủ nghĩa chân thật, thường dùng phân biệt với “半字 - bán tự” (nửa chữ) để chỉ giáo pháp chưa rốt ráo, pháp quyền thừa, dùng để dẫn dắt.
[82] Nguyên tác dùng “始入 - thủy nhập” để chỉ việc thể nhập trí tuệ Phật ngay giai đoạn ban đầu, sau khi đức Phật vừa thành đạo, tức là lúc thuyết giảng kinh Hoa nghiêm.
[83] Ý nghĩa này dựa theo cách giải thích phân biệt bốn chúng đã nói ở trước, gốm chúng phát khởi, chúng ảnh hưởng, chúng đương cơ và chúng kết duyên. Ở đây muốn nói các vị Bồ Tát thưa hỏi Phật thật ra đều là cổ Phật hóa thân để trợ giúp sự giáo hóa.
[84] Văn cú trích dẫn trong câu này là “八萬大士 - bát vạn Đại sĩ” (tám mươi ngàn vị Đại sĩ), có thể đã nhầm lẫn, vì trong Kinh văn ghi đúng là “八千恒沙 - bát thiên Hằng sa”.
[85] Nguyên tác dùng “補處智力 - bổ xứ trí lực”, chỉ sức trí tuệ của hàng Bồ Tát Nhất sanh bổ xứ, nghĩa là chỉ còn một đời duy nhất nữa sẽ thành Phật. Đây là ngài Di-lặc tự nói về mình.
[86] Văn Cú ký giải thích rằng trong đoạn văn trên phần nói việc đi khắp mười phương là thuộc thế giới tất đàn, nói về người đến sau không biết người đi trước là vị nhân tất đàn, phần nói về giáo hóa chúng sanh là đối trị tất đàn, phần nói về ngấm ngầm chờ nghe thọ lượng của Như Lai là đệ nhất nghĩa tất đàn.
[87] A-dật-đa (阿逸多): danh hiệu khác của Bồ Tát Di-lặc, phiên âm từ Phạn ngữ là Ajita.
[88] Tức là nói quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhắc về “pháp chưa từng được nghe” tức là quá khứ; nói “nay vỗ về các ông” tức là hiện tại; “hôm nay sẽ được nghe”, “hãy một lòng lắng nghe” tức là tương lai.
[89] Đoạn văn này đề cập đến cấu trúc chung của các phẩm từ đây về sau.
[90] Văn cú dùng Thích luận để chỉ Đại Trí độ luận, cũng gọi là Đại Trí độ luận thích (大智度論釋), phần trích dẫn này nằm ở quyển 43. (ĐCT, T25, số 1509, tr.373a, d.25)
[91] Tức là tam hữu, bao gồm cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc.
[92] Văn cú trích dẫn từ Kinh văn là “於諸經典 - ư chư kinh điển”, câu này trích đầy đủ là “於諸經典讀誦通利 - ư chư kinh điển độc tụng thông lợi”, nghĩa là “tụng đọc thông suốt kinh điển”.
[93] Văn cú dùng “智斷兩德 - trí đoạn lưỡng đức”, tức là chỉ trí đức và đoạn đức. Trí đức là năng lực trí tuệ, thấu hiểu chân lý; đoạn đức là năng lực dứt trừ được hết thảy phiền não.
[94] Thùy tích: vì xót thương chúng sanh mà thị hiện hình tích để chúng sanh có thể nhìn thấy, nhận hiểu.
[95] Tức là câu kinh văn nói việc Phật chỉ mới vừa thành đạo.
[96] Tức chỉ tứ thiền bát định (四禅八定) cùng với Diệt tận định, gọi chung là cửu định (九定).
[97] Nguyên tác dùng “入重玄門 - nhập trùng huyền môn”, là thuật ngữ để chỉ việc Bồ Tát trước khi thành Phật cần quay lại cõi đời để tu tập một lần nữa tất cả các pháp trước đây đã tu khi còn là phàm phu, nhưng lần này là để cho mọi việc đều khế hợp với chân lý.
[98] Tất pháp tánh tam-muội (H. 畢法性三昧 – S. dharma-dhātu-niyata-samādhi), cũng gọi là Pháp giới quyết định tam-muội (法界決定三昧). Thể tánh của các pháp là vô lượng nhưng cũng không khác biệt nhau, rất khó nắm bắt. Bồ Tát nhập pháp định này có năng lực rõ biết thể tánh của tất cả các pháp, giống như con người không thể trụ giữa hư không nhưng khi đạt được sức thần túc thì có thể trụ được.
[99] Văn cú trích dẫn kinh văn là “善答難問 - thiện đáp nan vấn” (khéo đáp những câu hỏi khó), nhưng đúng ra kinh văn chỗ này là “巧於問答 - xảo ư vấn đáp” (giỏi việc vấn đáp), tuy ý nghĩa có phần tương đồng nhưng cách diễn đạt hoàn toàn khác nhau.
[100] Nguyên tác là “具二莊嚴 - cụ nhị trang nghiêm”, chỉ 2 phẩm đức là phước đức và trí tuệ, cũng giải thích là định và tuệ. Phần trước đã nói về phước đức (khéo tu tập các pháp lành), cũng nói “được quả là giỏi nhập định”, phần này nêu “giỏi việc vấn đáp” tức là có trí tuệ, nên nói là đầy đủ 2 phẩm đức trang nghiêm.
[101] Nguyên tác dùng Duệ sư (叡師), tức chỉ ngài Tăng Duệ (僧叡), cao tăng vào thời Đông Tấn nhưng không rõ năm sinh năm mất. Ngài xuất gia năm 18 tuổi, năm 20 tuổi đã thông thuộc kinh luận, đến năm 24 tuổi đã là giảng sư nổi tiếng nhiều nơi. Khi ngài Cưu-ma-la-thập đến Trường An vào năm 401, ngài theo học và trở thành một trong các đệ tử lớn, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phiên dịch kinh luận.
[102] Nguyên tác nói “普賢顯其無成 – Phổ Hiền hiển kỳ vô thành”, Văn cú ký giải thích: “普賢居菩薩極位尚名為賢,可表伽耶成亦非成。 - Phổ Hiền cư Bồ Tát cực vị thượng danh vi hiền khả biểu Già-da thành diệc phi thành.” (Phổ Hiền ở địa vị cùng tột của hàng Bồ Tát vẫn gọi là hiền, có thể biểu thị việc thành đạo ở Già-da cũng là không phải thành đạo.)
[103] Văn Cú nói “Đạo Tràng Quán” (道場觀), có vẻ như tên một bộ sách, nhưng theo Diệu pháp Liên hoa kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義), quyển 10, thì đây là tên một vị pháp sư. (三者定林柔次二師, 及道場觀法師) (ĐCT, T33, 1716, tr.801b, d.3-4) Chúng tôi chưa thể xác định chắc chắn.
[104] Nguyên tác dùng Già-da (伽耶) để chỉ việc thành đạo nơi Bồ-đề Đạo tràng. Cách dùng này tiếp tục trong các đoạn sau. Nếu hiểu Già-da theo nghĩa chỉ nơi chốn thì các lập luận nêu ra ở đây đều không hợp lý.
[105] Nguyên tác dùng “鷸蚌相扼 - duật bạng tương ách” (trai cò giữ nhau), cũng thường nói “duật bạng tương tranh” (鷸蚌相爭), nói về câu chuyện giữa con cò và con trai trên bãi cát. Trai đang mở vỏ, cò mổ vào để ăn thịt trai; trai khép vỏ giữ chặt mỏ cò. Cò và trai giữ nhau không con nào chịu bỏ cuộc, rốt cuộc có người đi ngang qua liền bắt được cả hai. Lập luận ở đây hàm ý rằng hai bên luận giải “thường” và “vô thường” đều không sai nhưng nếu cố chấp một nghĩa thì chỉ làm khó cho nhau, vì bên này đúng thì bên kia sai, không có giải pháp dung hòa.
[106] Nguyên tác là “大經超前九劫 - Đại kinh siêu tiền cửu kiếp” (kinh Đại Niết-bàn nói vượt qua 9 kiếp sớm hơn). Có thể Văn Cú đã nhầm lẫn, vì trong kinh Đại Bát Niết-bàn nói là 12 kiếp. Nguyên văn kinh trong quyển 14 là: “如我往昔為半偈故捨棄此身, 以是因緣便得超越足十二劫在彌勒前成阿耨多羅三藐三菩提。 - Như ngã vãng tích vị bán kệ cố xả khí thử thân, dĩ thị nhân duyên tiện đắc siêu việt túc thập nhị kiếp, tại Di-lặc tiền thành A-nậu-da-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.” (Như ta thuở ấy vì nửa bài kệ mà xả bỏ thân này. Do nhân duyên ấy liền vượt qua được đủ mười hai kiếp, thành Phật trước Bồ Tát Di-lặc.) (ĐCT, T12, 374, tr.451a, d.28- tr.451b, d.1. – Bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến, kinh Đại Bát Niết-bàn, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2009)
[107] Nguyên văn kinh: “是我方便,諸佛亦然。- Thị ngã phương tiện, chư Phật diệc nhiên.” Đây là 2 câu kệ nằm gần cuối phẩm Thí dụ cỏ thuốc, thứ năm.
[108] Nguyên văn kinh: “願我於未來… …坐於道場時,說壽亦如是。 - Nguyện ngã ư vị lai… … tọa ư đạo trường thời, thuyết thọ diệc như thị.” Đây là kệ tụng trong phẩm Phân biệt công đức.
[109] Nguyên tác là “諸師不可師 - chư sư bất khả sư” (các thầy không thể làm thầy), hàm ý nói không còn ràng buộc, chịu lệ thuộc vào các vị thầy. Trong ngữ cảnh đang bàn đến những cách giải thích có sai lệch của các vị thầy nên hiểu là không còn bị dẫn dắt theo cách hiểu của họ.
[110] Nguyên tác dùng “糟糠 - tao khang” (bã rượu, gạo tấm), chỉ những thứ vụn vặt, không có giá trị.
[111] Nguyên tác dùng “問橋 - vấn kiều” (hỏi cầu), chỉ việc muốn tìm biết về phương tiện mà quên đi mục tiêu, cứu cánh.
[112] Ở đây dẫn ví dụ mô tả về số kiếp lâu xa được đức Phật đề cập ở đầu phẩm Tuổi thọ của Như Lai.
[113] Ở đây trích dẫn kệ tụng trong phẩm Đà-la-ni, thứ hai mươi sáu.
[114] Nguyên tác dùng “普賢觀 - Phổ Hiền quán”, tức chỉ đến kinh Phật thuyết Quán Phổ Hiền Bồ Tát hành pháp (佛說觀普賢菩薩行法經). Đoạn trích dẫn này nêu đủ về các ba-la-mật Thường, Ngã, Tịnh, Lạc của Phật để nói về nghĩa Như Lai thường tại: “常波羅蜜所攝成處, 我波羅蜜所安立處, 淨波羅蜜滅有相處, 樂波羅蜜不住身心相處。- Thường ba-la-mật sở nhiếp hành xứ, Ngã ba-la-mật sở an lập xứ, Tịnh ba-la-mật diệt hữu tướng xứ, Lạc ba-la-mật bất trụ thân tâm tướng xứ.” (ĐCT, T9, 277, tr.392c, d.17-19)
[115] Ở đây nói về tam đức (三德), tức Pháp thân đức (法身德), Bát-nhã đức (般若德) và Giải thoát đức (解脫德).
[116] Nguyên tác dùng “二佛三佛 - nhị Phật, tam Phật” có thể được hiểu theo nhiều nghĩa, nhưng theo ý nghĩa được giảng giải trong phần này thì Nhị Phật chỉ Chân thân, tức Pháp thân Phật và Ứng thân Phật; Tam Phật chỉ Pháp thân Phật, Ứng thân Phật và Báo thân Phật. Trong thực tế, đây là những biểu hiện khác nhau của một vị Phật.
[117] Bản Phật (本佛): tức là Phật được nhận hiểu theo nghĩa bản nguyên, từ ban sơ; Tích Phật (迹佛): tức là Phật được hiểu theo nghĩa thị hiện hình tích để tất cả chúng sanh được nhìn thấy.
[118] Nguyên tác dùng Thành luận, tức Thành thật luận (成實論). Đoạn trích dẫn là: “如來者乘如實道來成正覺故曰如來。 - Như Lai giả, thừa như thật đạo lai thành Chánh giác, cố viết Như Lai.” (ĐCT, T32, 1646, tr.242a, d.25-26)
[119] Tám tướng thành đạo hay tám tướng thành Phật, tức là 8 tướng thị hiện của một vị Phật ra đời, bao gồm: giáng thần, nhập thai, đản sinh, xuất gia, hàng ma, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết-bàn.
[120] Tỳ-lô-giá-na (H. 毗盧遮那, S. Vairocana), Hán dịch là Biến nhất thiết xứ (遍一切處).
[121] Thích-ca-văn (釋迦文), một cách phiên âm khác từ danh hiệu Phạn ngữ Śākyamuni thay vì thông dụng hơn là Thích-ca Mâu-ni (釋迦牟尼). Văn Cú nói “此翻度沃焦 - Thử phiên Độ ốc tiêu” nhưng thật ra đây không phải danh xưng được Hán dịch từ tên Phạn ngữ, mà là một biệt hiệu của Phật có ý nghĩa được nói đến trong kinh Hoa nghiêm. Vì giữa biển có tảng đá nóng cháy (焦石 - tiêu thạch), thu hút tất cả các dòng nước rót vào (沃 - ốc) đều khô kiệt mà không làm đá hết nóng; chúng sanh cũng giống như tảng đá nóng đó, thu hút tất cả năm món dục thường xuyên rót vào mà vẫn không bao giờ thỏa mãn. Chỉ đức Phật mới có thể vượt qua (度 - độ) được sức hút của năm món dục như vậy nên gọi ngài là Độ ốc tiêu (度沃焦).
[122] Phần trích dẫn này Văn Cú nói “大經云 - Đại kinh vân” (Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng), nhưng thật ra chỉ dẫn ý kinh, không phải nguyên văn. Nguyên văn đoạn trích dẫn này là: “解脫之法亦非涅槃, 如來之身亦非涅槃, 摩訶般若亦非涅槃, 三法各異亦非涅槃; 我今安住如是三法, 為眾生故名入涅槃。 - Giải thoát chi pháp diệc phi Niết-bàn, Như Lai chi thân diệc phi Niết-bàn, Ma-ha Bát-nhã diệc phi Niết-bàn, tam pháp các dị diệc phi Niết-bàn; ngã kim an trụ như thị tam pháp, vị chúng sanh cố danh nhập Niết-bàn.” (ĐCT, T12, 374, tr.376c, d.14-17)
[123] Văn Cú trích dẫn: “或示己身己事, 或示他身他事。- Hoặc thị kỷ thân kỷ sự, hoặc thị tha thân tha sự”, tuy đúng ý nghĩa nhưng không hoàn toàn khớp theo kinh văn. Kinh văn đoạn này là: “或示己身, 或示他身,或示己事, 或示他事 - hoặc thị kỷ thân, hoặc thị tha thân; hoặc thị kỷ sự, hoặc thị tha sự”. Chúng tôi đã điều chỉnh theo kinh văn khi chuyển dịch.
[124] Văn Cú dùng “縱橫 - tung hoành” (dọc ngang) để nêu nghĩa về thời gian và không gian, cho nên hoành (ngang) được hiểu là trong cùng một thời gian, tung (dọc) được hiểu là tuần tự theo thời gian, có trước có sau.
[125] Nguyên văn kinh: “非實非虛,非如非異 - phi thật phi hư, phi như phi dị”. Văn Cú trích dẫn đúng nhưng đảo ngược thứ tự, chúng tôi điều chỉnh theo kinh văn.
[126] Văn Cú trích dẫn đúng 4 câu kệ này nhưng đưa câu cuối lên thành câu thứ hai. Chúng tôi đã điều chỉnh theo kinh văn.
[127] Ở đây dùng nghĩa “四句 - tứ cú” (bốn câu) để nói, tức là có tất cả 4 trường hợp về tuổi thọ của Như Lai: 1. Có hạn lượng; 2. Không hạn lượng; 3. Vừa có hạn lượng, vừa không hạn lượng; 4. Chẳng phải có hạn lượng, chẳng phải không hạn lượng. Cách hiểu “tứ cú” này là một phương thức chung được dùng trong mọi trường hợp biện luận, vì không thể có trường hợp thứ năm. Ở đây như đã giải thích thì trường hợp thứ nhất (có hạn lượng) thuộc về phàm phu; ba trường hợp sau đều thuộc về bậc thánh, tức là tương hợp với tuổi thọ của Như Lai.
[128] Nguyên tác là “常等四句 - thường đẳng tứ cú”, tức là vận dụng nghĩa “tứ cú” như trên vào nghĩa thường, sẽ có 4 trường hợp: 1. Thường; 2. Vô thường; 3. Vừa thường vừa vô thường; 4. Chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.
[129] Tức là trong “tứ cú” nói trên, phàm phu rơi vào trường hợp vô thường, ba trường hợp còn lại thuộc về ba thân Phật.
[130] Cách so sánh trong đoạn này dựa vào thực tế thời gian chiếu sáng ban ngày vào mùa hạ là dài nhất trong năm và ngày mùa đông là ngắn nhất.
[131] Nguyên tác dùng “tứ trụ - 四住” tức tứ trụ địa (四住地), là bốn yếu tố căn bản làm khởi sinh tất cả phiền não, đã giải thích chi tiết ở trước.
[132] Theo Văn Cú ký thì chỗ này hàm ý bác bỏ ý kiến của Tăng Triệu. Văn Cú ký nói “正斥肇師 - chính xích Triệu sư” (chính là bác bỏ Triệu sư).
[133] Nguyên tác dùng chữ “真 - chân”, chỉ chân đế, theo nghĩa rốt ráo, tuyệt đối.
[134] Nguyên tác dùng chữ “俗 - tục”, chỉ tục đế, theo nghĩa tương đối, tùy thuận.
[135] Nguyên tác dùng “下地 - hạ địa” để chỉ hàng Bồ Tát ở giai vị thấp nhất trong Thập địa, tức là sơ địa.
[136] Văn Cú nói “忽之如草 - hốt chi như thảo” rất khó hiểu. Đoạn này trích ý từ kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2, trong đó nói “不復愛重視之如草 - bất phục ái trọng thị chi như thảo” (không còn yêu quý, xem như cỏ rác). ĐCT, T12, 375, tr.613b, d.24-26.
[137] Văn Cú nói “法性智應 - pháp tánh trí ứng”. Văn Cú ký giải thích: “法性法身, 智即報身, 應即應身 - pháp tánh Pháp thân, trí tức Báo thân, ứng tức Ứng thân”.
[138] Văn Cú không phân đoạn cụ thể mà chỉ phân biệt 3 ý, có lẽ vì mạch văn đã rõ ràng. Thứ nhất, nói về pháp sâu kín mà đại chúng không hiểu được, tứ là nêu pháp mê (出所迷法 - xuất sở mê pháp); thứ hai kể ra “tất cả chư thiên, loài người...” tức là nói chúng mê pháp (出能迷眾 - xuất năng mê chúng); thứ ba, “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện nay...” tức là nói rõ sự mê lầm đã từ xa xưa (出迷遠之謂 - xuất viễn mê chi vị), đó là việc cho rằng Phật chỉ mới vừa thành đạo.
[139] Tức là chỉ việc “cho rằng Phật chỉ vừa mới có được ba thân từ khi thành đạo dưới cội cây Bồ-đề”.
[140] Kinh văn nói: “是諸世界若著微塵及不著者 - Thị chư thế giới nhược trước vi trần cập bất trước giả…” Vì kinh văn đang nói đến các thế giới về phương đông nên có thể ngầm hiểu được, đồng thời cũng nhắc lại các thế giới mà người kia đi qua có làm rơi một hạt bụi lên đó gọi là “trước vi trần” (dính bụi), và tính luôn cả những thế giới mà người ấy không làm rơi bụi, gọi là “bất trước vi trần” (không dính bụi), nghĩa là không đi qua. Chữ “及 - cập” có nghĩa là “tính luôn, tính cả vào” chứ không có nghĩa thay thế như chữ “或 - hoặc”, như vậy để thấy rằng số lượng lớn hơn rất nhiều. Các bản dịch cũ đi sát theo nghĩa đen và dịch là “hoặc dính vi trần hoặc chẳng dính”, không diễn tả đúng ý nghĩa kinh văn. Bản Anh ngữ của H. Kern dịch từ Phạn ngữ diễn đạt ý này là “those worlds where that man deposits those atoms of dust and where he does not” (những thế giới mà người kia có làm rơi bụi và những nơi ông ấy không làm rơi bụi).
[141] Căn cơ tiệm và đốn: tiệm căn nghĩa là căn cơ có khả năng chứng ngộ qua sự tu tập dần dần, từng bước từ thấp lên cao; đốn căn là căn cơ có khả năng trực ngộ, đốn ngộ tức thời, không cần phải trải qua sự tu tập dần dần.
[142] Hoa báo: quả báo có ngay trong đời hiện tại, hoặc đến nhanh hơn các quả báo về sau, ví như hoa có trước rồi sau mới có quả. Cùng một việc thiện sẽ chiêu cảm hoa báo trước, rồi về sau tiếp tục được quả báo.
[143] 5 căn bao gồm: tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn.
[144] Nguyên tác Văn Cú gọi là “華嚴十號中 - Hoa nghiêm Thập hiệu trung”, nhưng nội dung được đề cập là trong phẩm Danh hiệu Như Lai (如來名號品). ĐCT, T10, 279, tr.57c.
[145] Văn Cú nói “例三默 - lệ tam mặc” (cũng ví như 3 lần im lặng) dường như không phù hợp với ý nghĩa trong ngữ cảnh. Văn Cú ký không giải thích nhưng khi chép lại đoạn này lại viết là “例三點 - lệ tam điểm” (cũng ví như cụm 3 dấu chấm), có nghĩa phù hợp hơn, như 3 dấu chấm nếu nhìn riêng rẽ thì mỗi chấm đều nhỏ, kết hợp thành một cụm thì là lớn.
[146] Bốn lợi ích: tức là tương ứng với 4 tất đàn: Thế giới tất đàn giúp chúng sanh hoan hỷ (vì xứng hợp căn cơ); vị nhân tất đàn giúp chúng sanh tăng trưởng căn lành; đối trị tất đàn giúp chúng sanh phá trừ tà kiến; đệ nhất nghĩa tất đàn giúp chúng sanh chứng nhập chân lý.
[147] Tức là nói pháp Tam-muội Sư tử phấn chấn (師子奮迅三昧). Đại trí độ luận có nói đến pháp tam-muội này: “菩薩依八背捨、九次第定,入師子奮迅三昧。 - Bồ Tát y bát bội xả, cửu thứ đệ định, nhập sư tử phấn chấn tam-muội.” Xem mô tả đầy đủ trong ĐCT, T25, 1509, tr.628a, d.20-26.
[148] Bốn loại ma (四魔 - tứ ma), hay tứ chủng ma. Bao gồm: ma cõi trời (天魔 - thiên ma), tức Tha hóa tự tại thiên tử ma, cũng tức là Ma vương Ba-tuần; ma năm ấm (五陰魔 - ngũ ấm ma), tức là sự ràng buộc, phụ thuộc, bám chấp vào năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức); ma chết (死魔 - tử ma), là cái chết luôn chực chờ cướp mất sinh mạng của chúng sanh, gián đoạn sự tu tập; và ma phiền não (煩悩魔 - phiền não ma), tức các phiền não như tham lam, sân hận, si mê... quấy nhiễu tâm an định, thôi thúc chúng sanh làm các việc xấu ác.
[149] Mười nghiệp lành (十善 - thập thiện): bao gồm ba nghiệp của thân là không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm; bốn nghiệp của khẩu là không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói độc ác, không nói thêu dệt vô nghĩa; ba nghiệp của ý là không tham lam, không sân hận, không si mê.
[150] Văn cú trích dẫn kinh văn và kệ tụng này từ Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh (大方廣佛華嚴經), quyển 23 (bản 60 quyển), nhưng chỉ trích đại lược ý kinh, không dẫn nguyên văn. Xem đầy đủ tại ĐCT, T9, 278, tr.543b, d.19-29.
[151] Tức chỉ Đại sư Nam Nhạc Huệ Tư (南嶽慧思), thầy của ngài Trí Khải.
[152] Văn Cú dùng “近說 - cận thuyết” để chỉ những giáo pháp Phật dạy thuộc Tích môn, dựa vào sự thị hiện thành đạo gần đây; khác với “viễn thuyết” là nói Phật đã thành đạo từ rất lâu xa trong quá khứ. Do nghĩa đó nên không xem những người ưa thích pháp này là thuộc Tiểu thừa.
[153] Nguyên tác là “三乘灰斷 - tam thừa hôi đoạn”, tức là chỉ khuynh hướng “灰身滅智 - hôi thân diệt trí” của hàng Tam thừa, cầu đoạn diệt khi chưa đạt đến giải thoát rốt ráo.
[154] Nhân môn (因門) chỉ các pháp môn tu tập của hàng Bồ Tát tạo nhân giải thoát; quả môn (果門) chỉ các pháp môn nội chứng của chư Phật, là cảnh giới mà hàng Bồ Tát không thể nhận biết được.
[155] Tức 34 tâm cuối cùng của vị Bồ Tát, khởi sinh vào sát-na trước khi thành đạo, đã có giải thích ở phần trước, bao gồm 8 nhẫn, 8 trí, 9 vô ngại và 9 giải thoát.
[156] Nguyên tác là “金剛後心 - kim cương hậu tâm”, chỉ tâm cuối cùng của vị Bồ Tát khi thành Phật, gồm 3 giai đoạn; nhập kim cương định vẫn còn là chúng sanh, xuất kim cương định là thành chánh giác. Giai đoạn trụ định viên mãn, ngay trước khi xuất định gọi là kim cương hậu tâm.
[157] Bốn thánh đế có tạo tác (有作四諦 - hữu tác tứ đế), tức là bốn thánh đế được thành tựu nhờ sự tu tập có tác ý.
[158] Ba đế (tam đế): tức giả đế, không đế và trung đế, chỉ ba sự nhận hiểu đúng thật nhờ tu tập các pháp quán giả, quán không và quán trung đạo.
[159] Nguyên tác dùng “壞草庵 - hoại thảo am” (phá bỏ am cỏ) để chỉ việc không còn cần đến những phương tiện tu tập ban đầu thuộc về hình thức, vì đã vượt qua sự bám chấp nơi hình tướng.
[160] Nguyên tác là “六句 - lục cú” (sáu câu). Văn Cú Ký giải thích: “言六句者, 初如來去, 二亦無在世去, 三非實非虛, 四非如非異, 五不如三界去, 六如斯去 - Ngôn lục cú giả, sơ Như Lai khứ, nhị diệc vô tại thế khứ, tam phi thật phi hư, tứ phi như phi dị, ngũ bất như tam giới khứ, lục như tư khứ...” (Nói 6 câu đó là: Thứ nhất, từ “Như Lai…” trở đi; thứ hai, từ “cũng không có việc ở đời…” trở đi; thứ ba, “không phải chân thật cũng không phải hư dối”; thứ tư, “không phải như vậy cũng không phải khác biệt”; thứ năm, từ “không giống như chúng sanh trong ba cõi…” trở đi; thứ sáu, từ “Những việc như vậy…” trở đi.)
[161] Nguyên tác dùng “二死 - nhị tử”, chỉ 2 cách chết trong 2 loại sinh tử là phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử. Phần đoạn tử là cách chết khi chúng sanh chấm dứt một đời sống, thân xác hủy hoại, chuyển sang đời sống mới với thân xác mới, cũng gọi là hữu vi sinh tử. Biến dịch tử là cái chết khi chúng sanh chuyển sang đời sống mới như một giai đoạn khác, chỉ với sự chuyển biến vi tế, không chấm dứt, hủy hoại thân biến dịch, cũng gọi là vô vi sinh tử. Thân biến dịch là thân của các bậc thánh đã thoát ra ngoài ba cõi.
[162] Hai hạng chúng sanh trong ba cõi (二 種三界眾生 - nhị chủng tam giới chúng sanh), chỉ hai hạng phàm và thánh, tức phàm phu và các vị chứng thánh quả nhị thừa.
[163] Đoạn này nói việc đức Phật nhìn ba cõi bằng thật trí (trí tuệ chân thật) thì thấy tướng trạng của ba cõi không giống như chúng sanh nhìn thấy; khi nhìn bằng quyền trí (trí tuệ quyền biến phương tiện) thì có thể suy lường thấy được tướng trạng của ba cõi giống như chúng sanh nhìn thấy.
[164] Nguyên tác dùng “二死 - nhị tử”, chỉ 2 cách chết là phần đoạn tử và biến dịch tử như đã giải thích ở trước.
[165] Ở đây vận dụng như lập luận trước đó: Do huân tập tham muốn mà thành tánh; do tập tánh mà khởi sinh tham muốn; không có điều nào là trước hay sau.
[166] Trí hiểu biết tương tợ: nhận biết gần giống như trí tuệ chân thật, nhưng vẫn chưa thật sự rốt ráo nên gọi là “tương tợ”.
[167] Nội phàm (內凡), ngoại phàm (外凡) là bao quát các giai vị tu tập vẫn còn xem như thuộc hàng phàm phu. Hành giả đã phát khởi trí hiểu biết tương tợ là thuộc về nội phàm; chưa được như vậy là còn ở ngoại phàm. Các tông phái cũng có sự phân định khác nhau về các giai vị thuộc nội phàm hay ngoại phàm.
[168] Tức đệ nhất nghĩa (第一義), ý nghĩa rốt ráo cùng tột.
[169] Bốn cửa vào (四門), tức 4 cách tiếp cận, bao gồm: hữu môn (有門), thấy các pháp là có; không môn (空門), thấy các pháp là không; diệc hữu diệc không môn (亦有亦空門), thấy các pháp vừa có vừa không; và phi hữu phi không môn (非有非空門), thấy các pháp chẳng phải có chẳng phải không. Trong tông Thiên Thai, mỗi giáo pháp Tạng, Thông, Biệt, Viên đều có đủ 4 cửa vào này.
[170] Kinh Duy-ma-cật, tức Duy-ma-cật sở thuyết kinh (維摩詰所說經), phẩm 9, Nhập bất nhị pháp môn (入不二法門品), từ Bồ Tát Pháp Tự Tại, Bồ Tát Đức Thủ, Bồ Tát Bất Huyễn… cho đến Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi là 32 vị Bồ Tát, đều lần lượt nói ra cách hiểu của mỗi người về việc thể nhập pháp môn bất nhị. (ĐCT, T14, 475, tr.550b, d.28 - tr.551c, d.24)
[171] Hai loại Niết-bàn: tức hữu dư Niết-bàn và vô dư Niết-bàn, đều chưa phải Niết-bàn rốt ráo của chư Phật.
[172] Kinh Tịnh Danh tức kinh Duy-ma-cật.
[173] Hai câu này giải thích theo tiến trình tu tập. Khi hành giả dứt trừ mê hoặc (diệt hoặc) dẫn đến giải thoát, đó là tiến trình dứt trừ vô thường. Khi hành giả đạt đến sự giải thoát, sự mê hoặc sẽ diệt mất, đó chính là trạng thái tịch diệt.
[174] Sáng tối không trừ bỏ nhau: khi có sáng, tuy không thấy tối nhưng không phải là tối đã mất đi, ngược lại cũng vậy. Cho nên, sáng và tối vẫn luôn tồn tại, chỉ là thay nhau hiển lộ. Ở đây nêu việc này để so sánh nói về trí tuệ và phiền não.
[175] Lập luận ở đây dựa trên mặt bản thể, nếu là khi đã đạt ngộ thì không cần phá trừ phiền não nữa; nếu là chưa đạt ngộ thì làm sao có trí tuệ để phá trừ phiền não; cho nên trong cả hai trường hợp đều không hợp lý. Từ đó thấy rằng trí tuệ và phiền não là sự biểu hiện khác nhau của cùng một bản thể, như sáng vào tối, không hề có sự loại trừ nhau.
[176] Nguyên tác dùng “二善 - nhị thiện” chỉ 2 loại pháp lành là các pháp lành chưa sinh khởi và các pháp lành đã sinh khởi.
[177] Nguyên tác dùng “二惡 - nhị ác”, chỉ 2 loại pháp xấu ác là pháp xấu ác đã sinh khởi và pháp xấu ác chưa sinh khởi.
[178] Kiến đế (見諦): tức giai đoạn tu tập thành tựu thấy rõ được ý nghĩa 4 chân đế.
[179] Tức chỉ pháp thân, báo thân và ứng thân Phật.
[180] Ở đây Văn Cú dẫn theo ý trong kinh Duy-ma-cật, phẩm Bồ Tát, Trưởng giả Duy-ma-cật nói với Bồ Tát Di-lặc: “一切眾生皆如也,一切法亦如也,眾聖賢亦如也,至於彌勒亦如也。” - Nhất thiết chúng sanh giai như dã, nhất thiết pháp diệc như dã, chúng thánh hiền diệc như dã, chí ư Di-lặc diệc như dã.” (Tất cả chúng sinh đều là như; tất cả các pháp cũng là như; các vị thánh hiền cũng là như; cho đến Di-lặc cũng là như.) (ĐCT, T14, 475, tr.542b, d.12-13)
[181] Ngoại đạo chấp không (空見外道 – không kiến ngoại đạo), chỉ hàng ngoại đạo theo quan điểm chấp không, bác bỏ nhân quả, cho rằng không hề có nhân duyên nghiệp báo thiện ác.
[182] Ngoại đạo khổ hạnh chấp có (有見苦行外道 – hữu kiến khổ hạnh ngoại đạo), chỉ hàng ngoại đạo tu khổ hạnh, tin chắc rằng việc khổ hạnh đó sẽ đưa đến giải thoát.
[183] Ở đây ý nói ngoại đạo tu thiền định dứt được phiền não nhưng chưa đoạn tận gốc rễ, do vậy về sau sẽ còn sinh khởi.
[184] Bản Hán văn là “phản phục phàm phu” (反復凡夫), chỉ hàng phàm phu quanh đi quẩn lại trong ba cõi vì các nghiệp đã tạo. Hạng này tuy mê muội nhưng khi được giáo hóa có thể tin vào khả năng thành Phật của chính mình.
[185] Bản Hán văn là “tiêu chủng Nhị thừa” (焦種二乘), chỉ hàng Nhị thừa hư mất hạt giống Phật, tức là mất niềm tin vào khả năng thành Phật của chính mình, chỉ mong cầu quả vị giải thoát của hàng Nhị thừa, tức là Niết-bàn Tiểu thừa.
[186] Bản Hán văn là “Viên giáo hậu tâm” (圓教後心), chỉ hàng Bồ Tát Viên giáo đã đạt đến trạng thái tâm cuối cùng trước khi thành Phật, tức quả vị Diệu giác (妙覺), hoặc xếp theo ngũ vị là thuộc về Cứu cánh vị (分證位).
[187] Ở đây dẫn thí dụ được nói trong kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2, ĐCT, T12, 374. Trong kinh gọi là cựu y (舊醫), thầy thuốc cũ, trước đây; và khách y (客醫), thầy thuốc từ xa mới đến sau. Nội dung thí dụ này kể chuyện một vị vua tin dùng thầy thuốc (cựu y) không giỏi trị bệnh, chỉ biết dùng sữa làm thuốc chữa tất cả các bệnh. Sau đó có một lương y giỏi từ xa đến (khách y) chỉ rõ sai lầm, được vua tin theo và đuổi thầy thuốc cũ đi. Từ đó thầy thuốc mới xin vua ra lệnh cấm dân dùng sữa, chỉ sử dụng đủ các vị chua, cay, đắng, mặn... chế thành thuốc riêng cho từng loại bệnh, người dùng đều khỏi bệnh. Nhưng khi nhà vua mắc bệnh nguy kịch không thể dùng tất cả các loại thuốc, vị lương y liền khuyên vua dùng sữa và giải thích phân biệt giữa sữa tốt có thể làm thuốc khác với sữa độc hại, do nơi cách sử dụng và nguồn gốc. Thí dụ này để nói lên trí tuệ và phương tiện khéo léo trong sự tu tập giáo pháp.
[188] Tam đạt (三達) cũng tức là tam minh (三明), nhưng tam minh có thể chỉ năng lực của Bồ Tát, A-la-hán, còn tam đạt là năng lực rốt ráo không chướng ngại của chư Phật. Ngũ nhãn (五眼) là 5 thứ mắt, tức 5 khả năng nhìn thấu khác nhau, bao gồm nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.
[189] Bản Đại Chánh tạng chép là “若十聲開” (nhược thập Thanh khai), nhầm từ chữ Thanh văn (聲聞) vì “thanh khai” không có nghĩa. (ĐCT, T34, 1718, tr.134b, d.19) Bản Càn Long chép đúng là “Thanh văn”.
[190] Văn Cú dùng “Chi Phật” (支佛), tức Bích-chi Phật (辟支佛), chỉ vị chứng quả Duyên giác.
[191] Chỉ 3 loại tánh đức chúng sanh đều sẵn có là chánh nhân Phật tánh, duyên nhân Phật tánh và liễu nhân Phật tánh.
[192] Văn Cú dùng “thập tâm số” (十心數), tức chỉ 10 tâm sở (心所) căn bản, tương ưng với tất cả các tâm, bao gồm: thụ (受), tưởng (想), tư (思), xúc (觸), dục (欲), tuệ (慧), niệm (念), tác ý (作意), thắng giải (勝解), tam-ma-địa (三摩地).
[193] Văn cú dùng “thập tín” (十信), nói đủ là thập tín tâm, chỉ 10 tâm mà Bồ Tát tu tập trong giai đoạn ở Tín vị (信位), là giai vị đầu tiên trong 52 giai vị của hàng Bồ Tát, bao gồm: 1. Tín tâm; 2. Niệm tâm; 3. Tinh tấn tâm; 4. Định tâm; 5. Tuệ tâm; 6. Giới tâm; 7. Hồi hướng tâm; 8. Hộ pháp tâm; 9. Xả tâm; 10. Nguyện tâm. Các tâm này tương quan lẫn nhau nên khi tu tập nghiêm cẩn với một tâm thì 9 tâm khác cũng được sinh khởi.
[194] Văn cú dùng ngũ phần (五分) tức chỉ Ngũ phần Pháp thân (五分法身), bao gồm: Giới thân (戒身), Định thân (定身), Tuệ thân (慧身), Giải thoát thân (解脫身) và Giải thoát tri kiến thân (解脫知見身).
[195] Văn cú chỉ nói “tam pháp” (三法), tức là chỉ ba phẩm đức của chư Phật vừa được đề cập, bao gồm Pháp thân đức, Bát-nhã đức và Giải thoát đức.
[196] Ba môn giải thoát (Tam giải thoát môn) vừa được đề cập là Không, Vô tướng, Vô tác, đều nương vào ba pháp tam-muội tương ứng để đạt được là Không tam-muội, Vô tướng tam-muội và Vô tác tam-muội.
[197] Từ đây hết quyển 9, bắt đầu quyển 10, phần thượng.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.169 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập