Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 7 »»
» Tải tất cả bản dịch (file RTF)
» Hán văn » Phiên âm Hán Việt
» Càn Long (PDF, 1.47 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.85 MB) 
Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@pgvn.org
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.
KINH VĂN
Phẩm Thụ ký, thứ sáu
Giải thích tên phẩm
Tiếng Phạn là hòa-già-la-na (vyākaraṇa), Hán dịch là thụ ký.
Hỏi: Có nhiều kinh điển bác bỏ việc thụ ký. Kinh Tịnh Danh nói: “Từ như sanh mà được thụ ký, từ như diệt mà được thụ ký, như không có sanh diệt nên biết là không có thụ ký.”[74] Kinh Tư ích [phạm thiên sở vấn][75] nói: “Nguyện không nghe đến danh xưng thụ ký.” Đại phẩm [Bát-nhã] nói: “Thụ ký chỉ là sự luận bàn vô nghĩa.” Nay kinh này vì sao [nói đến thụ ký]?
Đáp: Nếu thấy có việc thụ ký, có người được thụ ký thì chỗ thấy như vậy nên bác bỏ. Với Bồ Tát thệ nguyện được thụ ký thì nên thụ ký cho. Theo tục đế mà nói, nên có thụ ký, theo đệ nhất nghĩa đế thì không có. Lại vì thích hợp theo 4 tất đàn thì như phần sau đây sẽ nói.
[Lại có nhiều trường hợp thụ ký khác nhau.] Nếu là thụ ký chung cho khắp đại chúng thì như ở phần đầu phẩm Pháp Sư. Nếu là thụ ký riêng thì như [Phật thụ ký] sau 3 vòng thuyết pháp.[76] Nếu là thụ ký theo chánh nhân thì như Bồ Tát Thường Bất Khinh [thụ ký]. Nếu là thụ ký theo duyên nhân thì như trong phẩm Pháp Sư nói 10 loại cúng dường. Nếu là thụ ký theo liễu nhân thì như việc thụ ký cho người trong 3 hạng căn cơ.[77] Nếu thụ ký theo chánh nhân thì rộng, nếu thụ ký theo duyên nhân và liễu nhân thì hẹp. Việc thụ ký cũng có thể chậm hoặc nhanh,[78] hoặc do Phật thụ ký như trong phẩm kinh này; hoặc Bồ Tát thụ ký như Bồ Tát Thường Bất Khinh [thụ ký cho người khác], tuy không xác định tên kiếp và tên cõi nước nhưng vẫn được xem là thụ ký. Lại nếu hiện tại thụ ký tương lai[79] thì như trong Phẩm Thí dụ Hóa thành nói về những đệ tử trong tương lai.
Những kinh khác chỉ thấy thụ ký cho hàng Bồ Tát, không thấy thụ ký cho hàng Nhị thừa; chỉ thụ ký cho người hiền thiện, không thụ ký cho kẻ xấu ác; chỉ thụ ký cho nam giới, không thụ ký cho nữ giới; chỉ thụ ký cho hàng trời, người, không thụ ký cho loài súc sanh. Nay trong kinh Pháp hoa này thì tất cả đều được thụ ký.
Như trong kinh Thủ-lăng-nghiêm có 4 loại thụ ký, nay kinh Pháp hoa này cũng có đủ. Người chưa phát tâm được thụ ký là như trong phẩm Thường Bất Khinh, người vừa phát tâm [được thụ ký], hiện tiền chứng vô sanh [pháp nhẫn được thụ ký]…[80] là như Phật thụ ký trong 3 vòng thuyết pháp.
Theo kinh Bồ Tát Anh Lạc, quyển 9, nói có 8 loại thụ ký.[81] [Thứ nhất là] người được thụ ký rõ biết nhưng người khác không biết [về việc thụ ký]; thứ hai là mọi người đều biết nhưng tự thân người được thụ ký không biết; thứ ba là người được thụ ký và mọi người đều biết; thứ tư là người được thụ ký và mọi người đều không biết; thứ năm là [việc thụ ký ấy] ở gần thì rõ biết nhưng ở xa không biết; thứ sáu là ở xa rõ biết nhưng ở gần không biết; thứ bảy là gần xa đều rõ biết; thứ tám là gần xa đều không biết.
[Trường hợp thứ nhất], người được thụ ký biết nhưng người khác không biết, [đó là nói người được thụ ký] phát tâm [Bồ-đề] tự lập thệ nguyện nhưng chưa đủ lớn rộng [ảnh hưởng] đến người khác, chưa đạt được 4 pháp vô úy, chưa đạt được pháp quyền thừa khéo léo.
[Trường hợp thứ hai], mọi người đều biết nhưng tự thân người được thụ ký không biết, [là nói người được thụ ký] đã phát tâm rộng lớn, đạt được 4 pháp vô sở úy, đạt được pháp quyền thừa khéo léo.
[Trường hợp thứ ba], người được thụ ký và mọi người đều biết, đó là nói [người được thụ ký] đã đạt đến giai vị Bồ Tát Thất địa, đạt được 4 pháp vô úy, pháp quyền thừa khéo léo và đạt được pháp [tam-muội] quán không.
[Trường hợp thứ tư], người được thụ ký và mọi người đều không biết, đó là nói [người được thụ ký] chưa thể nhập giai vị [Bồ Tát] Thất địa, chưa đạt được hạnh không bám chấp. Đại lược là như thế.
[Trường hợp thứ năm], việc thụ ký đó người ở gần được biết mà người ở xa không biết, là như trường hợp của Bồ Tát Di-lặc [được Phật thụ ký], các căn lành đầy đủ, không từ bỏ hạnh không bám chấp của Như Lai.[82]
[Trường hợp thứ sáu], việc thụ ký đó người ở gần không biết nhưng người ở xa đều biết, đó là nói người được thụ ký chưa có khả năng diễn thuyết các công hạnh của bậc hiền thánh, như trường hợp của Bồ Tát Sư Tử Ưng.[83]
[Trường hợp thứ bảy], việc thụ ký đó người ở xa hay ở gần đều biết, đó là nói [người được thụ ký] có đầy đủ các căn lành, không từ bỏ hạnh không bám chấp của Như Lai, như trường hợp của Bồ Tát Nhu Thuận.
[Trường hợp thứ tám], việc thụ ký đó người ở xa hay ở gần đều không biết, đó là nói [người được thụ ký] chưa đạt được pháp quyền thừa khéo léo, không rõ biết hết kho tàng chánh pháp của Như Lai,[84] như trường hợp của Bồ Tát Đẳng Hành.[85]
Trong những kinh khác giải thích rằng, [trường hợp thụ ký mà] gần biết [nhưng xa không biết] là được đức Phật hiện tại thụ ký, như trường hợp Bồ Tát Di-lặc... [Trường hợp được thụ ký mà] xa biết, [nhưng gần không biết] nghĩa là không được đức Phật hiện tại thụ ký, mà sẽ được đức Phật tương lai thụ ký, như trường hợp đức Phật nói với Tế-ma [Ba-tuần]: “Trong tương lai Bồ Tát Di-lặc sẽ thụ ký cho ông.”[86] [Trường hợp được thụ ký mà] gần và xa đều biết nghĩa là được cả đức Phật hiện tại và đức Phật tương lai đều thụ ký cho. [Trường hợp mà] gần và xa đều không biết là nói cả đức Phật hiện tại và đức Phật tương lai đều không thụ ký.[87]
Nguyên lai chư Phật vốn đều do đại sự nhân duyên mà ra đời, để khai mở chỉ bày cho chúng sanh nhận hiểu, thể nhập tri kiến Phật. Nay đại sự đã hiển bày, Phật thuyết pháp đã xong, chúng sanh cũng đã thể nhập, bản hoài của Phật đã thông suốt, tâm nguyện của chúng sanh đã trọn vẹn, theo đúng pháp thì nên thụ ký, cũng như cha gặp lại con, có lẽ nào lại không giao phó gia tài.
Lại nữa, người tu trải qua vô số kiếp tu hành, tâm nguyện lúc nào cũng hướng về đức Phật [Thích-ca] ngày nay. [Cho nên] kinh văn nói: “Nguyện xưa vốn là như vậy nên nay được thụ ký như vậy.” Do nhân duyên giữa hai bên [Phật và đệ tử], đó là nghĩa thế giới tất đàn nên thụ ký.
Hàng Nhị thừa nghe thuyết kinh [Pháp hoa này] liền thay đổi từ Tiểu thừa sang thể nhập Đại thừa, nhân viên mãn đã trọn đủ, tất nhiên phải chiêu cảm quả [viên mãn], cho nên đức Như Lai mới thụ ký cho. Đại chúng đương thời đều rõ biết, phát nguyện, nguyện luôn được làm quyến thuộc gần gũi trong ngoài với sanh thân, pháp thân [Phật], hoặc nguyện chỉ sanh về cõi nào đó để làm lợi lạc chúng sanh. Hai trường hợp này là nghĩa vị nhân tất đàn nên thụ ký.
Lại nữa, thụ ký cho hàng Nhị thừa là phá trừ [tâm niệm của] hàng Bồ Tát muốn thối tâm Đại thừa để vào Tiểu thừa. Vì sao vậy ? Nếu xác định là có Nhị thừa mới có thể thối [tâm Đại thừa] để theo Tiểu thừa, nay [làm rõ] không có Nhị thừa thì không còn chỗ để thối tâm.
Lại cũng là phá trừ [tâm niệm của] kẻ muốn phát tâm Nhị thừa, [khiến cho họ phải suy nghĩ,] người khác đã chứng quả Nhị thừa còn tự xả bỏ, sao ta lại chọn theo [quả ấy]?
Lại cũng phá trừ [tâm niệm] của kẻ chưa thay đổi [khuynh hướng] Tiểu thừa, [khiến cho họ] liền thay đổi [từ bỏ] Tiểu thừa.
Lại đối với người sắp chứng quả Tiểu thừa, [thấy được việc thụ ký cho hàng Nhị thừa] liền không còn bám chấp nơi việc chứng quả Tiểu thừa.
Bốn trường hợp như trên là theo nghĩa đối trị tất đàn cho nên thụ ký.
Lại nữa, [người chứng đắc] vô sanh [pháp nhẫn] ngay trong hiện tại, tất nhiên là do nhận hiểu đúng thật, khai mở tri kiến Phật không sai lầm, thấu triệt sáng tỏ tánh Phật cho nên được thụ ký. Hàng Tiểu thừa thể nhập lẽ thật, quyết định sẽ được thành Phật. Nếu vậy thì tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, sao [trước đây] không được thụ ký? Là vì [trước đây] chúng sanh chỉ có chánh nhân [là tánh Phật] nhưng không có duyên nhân. Nay được nghe kinh [Pháp hoa này], tin nhận hiểu rõ, đó là duyên nhân và chánh nhân trọn đủ. Khai mở tri kiến Phật là rõ biết tánh Phật. Thấy được pháp Phật là thấy tánh Phật. Hai trường hợp này là theo nghĩa đệ nhất nghĩa tất đàn nên thụ ký.
Bốn trường hợp thụ ký [theo 4 nghĩa tất đàn] này thâu nhiếp được tất cả những trường hợp thụ ký đã nói ở trước. Đại lược là như vậy.
Chữ thụ ký (授記) mang nghĩa là trao cho, lại cũng nói là thụ ký (受記) với nghĩa là nhận được, trong đó bao gồm hai nghĩa: thụ quyết (受決) và thụ biệt (受莂). Quyết là quyết định, là xác định chắc chắn không nghi ngờ; biệt là liễu biệt, là thấu hiểu phân biệt rõ ràng. Hàng trung căn được nghe qua phần thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ, [qua đó Phật] khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa, liền nhận hiểu đầy đủ những ý nghĩa Như Lai thuật lại thành tựu, khi ấy tuy tự biết mình sẽ được thành Phật nhưng chưa thực sự hiểu rõ, nếu được nhờ nơi lời đúng thật của Phật nói cho biết về việc chứng quả [Phật] trong tương lai, với tên kiếp, tên cõi nước một cách chắc chắn, biết rõ thời gian lâu hay mau, tất nhiên sẽ hết sức hoan hỷ.
Hiện tại nhờ đức Phật ban cho lời dự ký mà biết được danh xưng [tương lai], cho nên gọi là phẩm Thụ ký.
Kinh văn phần này là tổng đoạn thứ tư trong phần thuyết thí dụ. Ba tổng đoạn trước đều dùng thí dụ để thuyết giảng, trong phần này nói việc thụ ký cũng dùng thí dụ.
Luận về thụ ký, hàm ý gì mà không có tổng đoạn thứ năm? Có người giải thích rằng, chỉ nói phần trước, phần sau lược đi không luận. Lại có người nói, trong phẩm Thí dụ Cỏ thuốc nói, hết thảy đều được thấm nhuần, tất cả đều được tăng trưởng. Xét kỹ [theo đó thì] bốn chúng đều được lợi ích, chỉ là do người chép kinh lược bớt không ghi ra mà thôi.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thuyết kệ như trên rồi liền bảo đại chúng: “Đệ tử Ma-ha Ca-diếp này của ta, trong đời tương lai sẽ được gần gũi phụng sự 300 muôn ức đức Phật Thế Tôn, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xưng tán, rộng thuyết vô số giáo pháp Đại thừa của chư Phật, đến khi thọ thân sau cùng sẽ được thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, cõi nước tên là Quang Đức, thời đại tên là Đại Trang Nghiêm. Phật [Quang Minh] sống thọ 12 tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời 20 tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ 20 tiểu kiếp. Cõi nước ấy trang nghiêm xinh đẹp, không có những sự xấu ác, ngói sỏi, gai góc, chất bài tiết dơ nhớp.[88] Mặt đất bằng phẳng, không có sự cao thấp mấp mô, hầm hố, gò đồi. Mặt đất bằng lưu ly, có cây báu xếp thành hàng, có dây bằng vàng ròng giăng theo ven đường ngăn cách lộ giới, rải lên đất các loại hoa báu, khắp nơi đều sạch đẹp. Cõi Phật ấy có vô số ngàn ức Bồ Tát, chúng Thanh văn cũng nhiều vô số, không có những việc của ma, tuy có ma và dân ma nhưng họ đều ủng hộ bảo vệ Phật pháp.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
Nghe đây, các tỳ-kheo!
Ta nay dùng Phật nhãn,
Thấy rõ Ca-diếp này,
Trong một đời tương lai,
Trải qua vô số kiếp,
Sẽ chứng quả thành Phật.
Trong tương lai Ca-diếp,
Sẽ gần gũi cúng dường,
Đến ba trăm vạn ức,
Các đức Phật Thế Tôn.
Vì cầu trí tuệ Phật,
Nên tu hạnh thanh tịnh.
Cúng dường bậc tối thượng,
Là Đấng Nhị Túc Tôn.
Rồi tu tập hết thảy,
Môn trí tuệ Vô thượng.
Cho đến thân sau cùng,
Sẽ thành tựu quả Phật.
Cõi nước ấy thanh tịnh,
Mặt đất bằng lưu ly,
Có rất nhiều cây báu,
Mọc thành hàng ven đường,
Có dây vàng ngăn lối,
Người trông thấy đều vui.
Thường lan tỏa hương thơm,
Và rải nhiều hoa quý,
Đủ các loại diệu kỳ,
Để trang hoàng, làm đẹp.
Mặt đất thật bằng phẳng,
Không có những gò, hố.
Chúng Bồ Tát ở đây,
Nhiều không thể tính đếm.
Tâm các vị nhu hòa,
Dùng sức thần thông lớn,
Cung kính giữ Kinh điển
Đại thừa của chư Phật.
Chúng đệ tử Thanh văn,
Thân sau cùng, vô lậu,
Là con Đấng Pháp Vương,
Cũng nhiều khôn kể xiết,
Dù dùng đến thiên nhãn,
Cũng không biết số lượng.
Đức Phật ấy sống thọ,
Đến mười hai tiểu kiếp.
Chánh pháp trụ ở đời,
Được hai mươi tiểu kiếp.
Tượng pháp lại cũng trụ,
Được hai mươi tiểu kiếp.
Đó là những sự việc,
Về đức Phật Quang Minh.
Kinh văn phần này lại chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất nói việc [Phật] thụ ký cho hàng trung căn. Đoạn thứ hai nói việc Phật hứa sẽ vì những người hạ căn mà kể lại [nhân duyên] đời trước.
Đoạn thứ nhất có 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là thụ ký cho ngài Ca-diếp, thứ hai là thụ ký cho 3 đại đệ tử khác, cả 2 tiểu đoạn đều có đủ 2 phần: kinh văn trường hàng và kệ tụng.
Phần kinh văn trường hàng [trong tiểu đoạn nói việc thụ ký cho] ngài Ca-diếp có 6 phân đoạn. Thứ nhất nói về nhân tu hành; thứ hai nói việc đắc quả; thứ ba nói về tên gọi Đại trang nghiêm của kiếp và [tên] cõi nước [khi ngài Ca-diếp thành Phật]; thứ tư là tuổi thọ [của đức Phật ấy]; thứ năm là thời gian chánh pháp và tượng pháp trụ ở đời bao lâu, y theo kinh văn có thể hiểu được; thứ sáu là sự thanh tịnh của cõi nước.
KINH VĂN
“Bấy giờ, các vị như Đại Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên-diên v.v.. thảy đều rúng động cả thân tâm, liền một lòng chắp tay, chăm chú không rời mắt chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, rồi tất cả đồng thanh nói kệ rằng:
“Đức Đại Hùng Thế Tôn,
Pháp vương dòng họ Thích.
Xin thương xót chúng con,
Ban cho âm thanh Phật.
Nếu biết tâm chúng con,
Thấy việc được thụ ký,
Như rưới nước cam lộ,
Trừ nóng nảy, mát lành.
Như từ vùng nạn đói,
Đến gặp tiệc của vua,
Lòng vẫn còn nghi sợ,
Chưa dám ngồi vào ăn.
Nếu như được vua bảo,
Sau đó mới dám ăn.
Chúng con nay cũng vậy,
Thường nhớ lỗi Tiểu thừa,
Chẳng biết vì lẽ nào,
Có thể được trí Phật.
Nên tuy nghe Phật dạy:
Chúng con đều thành Phật.
Vẫn ôm lòng lo nghĩ,
Như chưa dám ngồi ăn.
Mong được Phật thụ ký,
Mới yên lòng khoan khoái.
Đức Đại Hùng Thế Tôn,
Thường giúp đời an vui,
Nguyện ban lời thụ ký,
Như bảo người đói ăn.”
Tiểu đoạn thứ hai nói về [việc thụ ký cho] 3 đại đệ tử khác lại có 2 phân đoạn. Thứ nhất là thỉnh cầu [Phật] thụ ký, thứ hai là được [Phật] thụ ký.
Phân đoạn thỉnh cầu [Phật] thụ ký [chia ra 4 ý,] gồm có 7 khổ kệ. Ý thứ nhất gồm một khổ kệ, nói việc thỉnh cầu. Ý thứ hai gồm 2 khổ rưỡi kệ nêu thí dụ [so sánh]. Ý thứ ba gồm 2 khổ rưỡi kệ nói nghĩa tương hợp với thí dụ. Tiếp theo ý thứ tư gồm 1 khổ kệ là tóm kết.
KINH VĂN
Bấy giờ, đức Thế Tôn biết rõ những suy nghĩ trong tâm của các đại đệ tử, liền bảo các vị tỳ-kheo rằng: “Ông Tu-bồ-đề này, trong đời tương lai sẽ gần gũi phụng sự 300 muôn ức na-do-tha đức Phật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xưng tán, thường tu hạnh thanh tịnh, thực hành đầy đủ đạo Bồ Tát, đến khi thọ thân sau cùng sẽ được thành Phật hiệu là Danh Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thời đại ấy tên là Hữu Bảo, cõi nước tên là Bảo Sanh, đất đai bằng phẳng, mặt đất bằng pha lê, có cây báu trang nghiêm, không có những gò hố, cát sỏi, gai góc, chất bài tiết dơ nhớp, có hoa báu che phủ mặt đất, khắp nơi đều sạch đẹp. Nhân dân ở cõi ấy đều sống trong các đài báu và lầu gác quý báu xinh đẹp. Hàng đệ tử Thanh văn nhiều vô số, dùng đến các phép tính toán, thí dụ cũng không thể biết được. Chúng Bồ Tát đông đảo đến vô số ngàn muôn ức na-do-tha. Đức Phật [Danh Tướng] sống thọ 12 tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời 20 tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ 20 tiểu kiếp. Đức Phật ấy thường ở giữa hư không vì đại chúng thuyết pháp, độ thoát vô số Bồ Tát và chúng Thanh văn.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
“Này đại chúng tỳ-kheo!
Nay cho các ông biết,
Tất cả hãy một lòng,
Lắng nghe lời ta nói.
Đại đệ tử của ta,
Là ông Tu-bồ-đề,
Tương lai sẽ thành Phật,
Hiệu là Phật Danh Tướng.
Sẽ cúng dường vô số,
Muôn ức các đức Phật,
Noi theo công hạnh Phật,
Dần dần đạt đạo lớn.
Cho đến thân sau cùng,
Đủ ba mươi hai tướng,
Thân đoan nghiêm tốt đẹp,
Như một tòa núi báu.
Cõi nước của Phật ấy,
Trang nghiêm thanh tịnh nhất,
Chúng sanh được nhìn thấy,
Không ai không ưa thích.
Phật trụ nơi cõi ấy,
Hóa độ vô số chúng.
Trong giáo pháp của Phật,
Có rất nhiều Bồ Tát,
Căn tánh đều nhanh nhạy,
Chuyển giáo pháp bất thối.
Nên cõi ấy thường dùng,
Bồ Tát để trang nghiêm.
Lại có chúng Thanh văn,
Nhiều không thể nêu số,
Thảy đều đạt ba minh,
Và đủ sáu thần thông,
Trụ nơi tám giải thoát,
Có đủ oai đức lớn.
Đức Phật ấy thuyết pháp,
Thường hiện ra vô số,
Pháp thần thông biến hóa,
Thật không thể nghĩ bàn.
Chư thiên và nhân dân,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều cung kính chắp tay,
Nghe nhận lời Phật dạy.
Đức Phật ấy sống thọ,
Đến mười hai tiểu kiếp.
Chánh pháp trụ ở đời,
Được hai mươi tiểu kiếp.
Tượng pháp lại cũng trụ,
Được hai mươi tiểu kiếp.»
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo các vị tỳ-kheo: “Nay ta nói với các ông rằng, Đại Ca-chiên-diên đây trong tương lai sẽ dùng đủ các món cúng dường để cúng dường phụng sự 8.000 ức vị Phật với lòng cung kính tôn trọng; sau khi chư Phật diệt độ, sẽ xây dựng tháp miếu thờ phụng mỗi vị, cao đến ngàn do-tuần, ngang dọc vuông vức 500 do tuần, đều dùng bảy món báu là vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu, ngọc mai khôi1 để xây dựng thành, lại dùng đủ các loại hoa đẹp, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng lụa, tràng phan để cúng dường tháp miếu. Trải qua những việc ấy rồi, về sau ông lại cúng dường 20.000 ức vị Phật nữa, cũng giống như trước. Sau khi cúng dường chư Phật như vậy, lại tu tập trọn đủ đạo Bồ Tát rồi sẽ thành Phật hiệu là Diêm-phù-na-đề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước ấy đất đai bằng phẳng, mặt đất bằng pha lê, có cây báu trang nghiêm, có dây bằng vàng ròng giăng theo ven đường ngăn cách lộ giới, có hoa đẹp che phủ mặt đất, khắp nơi đều sạch đẹp, ai thấy cũng hoan hỷ. Cõi ấy không có bốn đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a-tu-la, có nhiều chư thiên và loài người. Có vô số vạn ức chúng Thanh văn và Bồ Tát trang nghiêm cho cõi nước. Đức Phật ấy sống thọ 12 tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời 20 tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ 20 tiểu kiếp.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
Này đại chúng tỳ-kheo!
Hãy một lòng lắng nghe.
Những lời ta nói ra,
Đúng thật không sai khác.
Ông Ca-chiên-diên đây,
Rồi sẽ dùng đủ loại,
Thức cúng dường hảo hạng,
Để cúng dường chư Phật.
Chư Phật diệt độ rồi,
Liền xây tháp bảy báu,
Lại dùng đủ hương, hoa,
Cúng dường xá-lợi Phật.
Cho đến thân sau cùng,
Sẽ đạt trí tuệ Phật,
Thành bậc Chánh Đẳng Giác.
Cõi nước ấy thanh tịnh,
Phật độ thoát vô số,
Ngàn muôn ức chúng sanh,
Và được khắp mười phương,
Đều cung kính cúng dường.
Hào quang của Phật ấy,
Không gì vượt hơn được.
Cho nên có hiệu là:
Phật Diêm-phù Kim Quang.
Chúng Bồ Tát, Thanh văn,
Đều không còn tái sanh,
Nhiều không thể tính đếm,
Trang nghiêm cõi Phật ấy.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo đại chúng: “Nay ta nói với các ông rằng, Đại Mục-kiền-liên đây trong tương lai sẽ dùng đủ các món tốt đẹp để cúng dường phụng sự 8.000 vị Phật với lòng cung kính tôn trọng; sau khi chư Phật diệt độ, sẽ xây dựng tháp miếu thờ phụng mỗi vị, cao đến ngàn do-tuần, ngang dọc vuông vức 500 do-tuần, đều dùng bảy món báu là vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu, ngọc mai khôi để xây dựng thành, lại dùng đủ các loại hoa đẹp, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng lụa, tràng phan để dâng lên cúng dường. Trải qua những việc ấy rồi, về sau lại cúng dường 200 muôn ức vị Phật nữa, cũng giống như trước. Sau khi cúng dường chư Phật như vậy, lại tu tập trọn đủ đạo Bồ Tát, rồi sẽ thành Phật hiệu là Đa-ma-la-bạt Chiên Đàn Hương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thời đại ấy tên là Hỷ Mãn, cõi nước tên là Ý Lạc. Đất đai nơi ấy bằng phẳng, mặt đất bằng pha lê, có cây báu trang nghiêm, có hoa bằng chân châu rải trên mặt đất, khắp nơi đều sạch đẹp, ai thấy cũng hoan hỷ. Cõi ấy có nhiều chư thiên và loài người, chúng Bồ Tát, Thanh văn nhiều vô số. Đức Phật ấy sống thọ 24 tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời 40 tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ 40 tiểu kiếp.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
“Đệ tử này của ta,
Là Đại Mục-kiền-liên,
Sau khi bỏ thân này,
Sẽ được gặp tám ngàn
Hai trăm muôn ức vị
Chánh Giác Phật Thế Tôn.
Tâm mong cầu đạo Phật,
Nên cung kính cúng dường.
Nơi đạo tràng chư Phật,
Thường tu hạnh thanh tịnh.
Trải qua vô số kiếp,
Vâng giữ theo pháp Phật.
Chư Phật diệt độ rồi,
Dùng bảy báu xây tháp,
Từ xa hiện đỉnh vàng.
Lại dùng hương, hoa, nhạc…
Để dâng lên cúng dường,
Tháp thờ xá-lợi Phật.
Dần dần tu tập đủ,
Các pháp môn Bồ Tát,
Rồi ở cõi Ý Lạc,
Thành bậc Chánh Đẳng Giác,
Hiệu là Đa-ma-la
Chiên Đàn Hương Như Lai.
Đức Phật ấy sống thọ
Hai mươi bốn tiểu kiếp,
Thường vì hàng trời người,
Giảng thuyết đạo Vô thượng.
Chúng Thanh văn vô số,
Nhiều như cát sông Hằng,
Ba minh, sáu thần thông,
Đều có oai đức lớn.
Bồ Tát cũng vô số,
Chí kiên cố, tinh tấn,
Quyết cầu trí tuệ Phật,
Tâm không hề thối chuyển.
Sau khi Phật diệt độ,
Chánh pháp trụ ở đời,
Được bốn mươi tiểu kiếp,
Tượng pháp cũng như vậy.”
[Phân đoạn thứ hai nói việc] thụ ký cho 3 vị đại đệ tử, nói về mỗi vị đều có đủ nhân tu hành, việc đắc quả, [tên] kiếp và cõi nước, tuổi thọ [của đức Phật ấy], [thời gian] giáo pháp trụ ở đời bao lâu, số lượng [chúng đệ tử Bồ Tát và Thanh văn]… Những chi tiết này y theo kinh văn đều có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Chúng đệ tử của ta,
Có đầy đủ oai đức,
Số lượng năm trăm người,
Nay ta đều thụ ký:
‘Trong tương lai các ông,
Đều sẽ được thành Phật.’
Ta cùng với các ông,
Đời trước kết nhân duyên,
Nay ta sắp nói rõ,
Các ông khéo lắng nghe.”
Từ câu “Chúng đệ tử của ta” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, [đức Phật] hứa sẽ vì những người hạ căn mà kể lại nhân duyên đời trước. Những người [hạ căn] này đã được nghe qua hai phần thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ, nay lại thấy hàng thượng căn và trung căn đều được thụ ký, nhưng trong lòng vẫn còn hồ nghi chưa dứt nên tự mình cảm thấy hết sức hổ thẹn. [Đức Phật vì] muốn làm cho họ tăng tiến trên đường đạo, nên trước tiên ban lời thụ ký chung cho tất cả, sau đó hứa sẽ nói cho nghe nhân duyên đời trước. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Phẩm Thí dụ Hóa thành, thứ bảy
Giải thích tên phẩm
“Hóa”, nghĩa là dùng do sức thần thông làm ra. Dùng sức thần thông cho nên từ chỗ không có gì mà bỗng nhiên thành có, cho nên gọi là hóa. “Thành”, nghĩa là ngăn ngừa điều sai trái, chống lại sự đối nghịch, nên gọi là thành. [Hai nghĩa này] xét theo trong giáo pháp thì tương hợp với Niết-bàn của Nhị thừa là do trí tuệ quyền biến tạo ra. [Phật] dùng năng lực của trí quyền biến, từ chỗ không có mà thuyết dạy là có [Niết-bàn của Nhị thừa]. Dùng giáo pháp để hóa ra [quả vị của Nhị thừa], vì ngăn ngừa tư hoặc, chống lại kiến hoặc nên gọi đó là [hóa thành] Niết-bàn.[89] Vì gấp rút cứu vớt mà dùng pháp này để dẫn vào [Phật đạo], thật chưa phải cứu cánh rốt ráo mà vẫn nói là diệt độ. Quyền biến mà lập ra như thế cho nên gọi là “hóa thành”.
Về nghĩa chữ “dụ” là thí dụ thì như trong phẩm [Thí dụ Cỏ thuốc ở] trước đã nói.
Trên đây là giải thích theo nghĩa nhân duyên.
Nếu giải thích dựa theo giáo nghĩa, theo Tạng giáo thì đối với Niết-bàn khởi sanh ý tưởng cho là an ổn, khởi sanh ý tưởng mình đã được diệt độ. Còn theo Thông giáo thì hàng Nhị thừa đối với Niết-bàn cũng giống như Tạng giáo, nhưng hàng Bồ Tát thì khác. Thích luận nói rằng: “Giống như một người cha vượt qua chỗ hiểm nguy, một chân đã bước vào thành [an ổn], một chân còn ở bên ngoài cửa thành, trong lòng nhớ đến vợ con nên từ trong thành [an ổn] lại quay ra chỗ nguy hiểm.” [Đó là nói Bồ Tát] lập thệ nguyện nương theo tàn dư tập khí mà vào trong sanh tử [hóa độ chúng sanh], nên chẳng lấy nghĩa không làm chỗ chứng đắc.
Giải thích theo Biệt giáo thì không nói thành [Niết-bàn đó] như phép biến hóa, mà cho rằng thành là để ngăn ngừa sự nguy hiểm. Do nơi cửa thành mà vượt qua [để tu tập tiến lên], nên dùng thành [Niết-bàn này] làm phương tiện dứt trừ kiến hoặc và tư hoặc, không nói rằng [Niết-bàn này] là rốt ráo cuối cùng.
Giải thích theo Viên giáo là rõ biết chẳng có giặc bệnh thì cũng chẳng cần đến thành, cho nên gọi là hóa thành. Nay kinh này dùng theo ý nghĩa của Viên giáo nên lấy tiêu đề là phẩm Thí dụ Hóa thành (Hóa thành dụ).
Những cách giải thích theo bản tích và quán tâm không ghi chép vào đây.
Hỏi: Phẩm này nói về những việc nhân duyên [thuở trước] giúp hàng hạ căn [ngày nay] được giác ngộ, lẽ ra nên gọi là phẩm Túc thế (Nhân duyên đời trước)?
Đáp: Ở đầu phẩm này nói rộng về nhân duyên, nhưng phần cuối kết lại thì nêu thí dụ hóa thành. Nếu theo phần trước thì nên gọi là phẩm Túc thế. Kinh này dựa theo phần sau nên gọi là phẩm Hóa thành.
Lại nữa, hàng thượng căn tâm nghi ngờ mỏng manh dễ phá, nên chỉ cần nêu việc Phật ngồi dưới cội Bồ-đề tư duy trong 21 ngày để làm rõ cơ duyên. Hàng trung căn tâm nghi có phần nặng hơn, nên dùng thêm thí dụ, tìm hiểu sâu việc hai vạn ức vị Phật [đã từng] giáo hóa [cho họ] bằng giáo pháp Đại thừa vô thượng, lấy đó làm cơ duyên. Hàng hạ căn thì tâm nghi sâu nặng hơn nữa, nên phải nói rõ cơ duyên từ rất lâu xa trong nhiều đời trước.
Nếu lấy việc trong đời trước là khởi đầu, nêu rõ nhân duyên từ rất lâu xa, thì nói đến khoảng giữa gọi là tòa thành biến hóa (hóa thành), nói đến chỗ rốt ráo cứu cánh gọi là chỗ nhiều châu báu (bảo sở). Những người chép kinh khi nêu tên phẩm thấy dùng nghĩa này thuận tiện, thâu tóm được từ trước đến sau, cho nên gọi là phẩm Thí dụ Hóa thành.
Hỏi: Hóa thành là pháp quyền biến, bảo sở là pháp chân thật, do ý nghĩa gì mà bỏ thật lấy quyền [làm tên]?
Đáp: Vì rõ biết hóa thành do biến hóa mà có, tất nhiên cũng rõ biết bảo sở là chân thật, cho nên tuy nêu hóa thành cũng chẳng làm mất nghĩa chân thật.
Phần này kinh văn chia thành 3 tổng đoạn. Nếu theo như phần trước thì lẽ ra có 4, thế nhưng hai ý nghĩa nhận hiểu và trình bày thành tựu đều ở trong phần nói việc thụ ký. Vì sao vậy? Nếu không có sự nhận hiểu thì làm sao được thụ ký để trình bày thành tựu, cho nên có thể gồm chung được 2 ý vào một tổng đoạn.
Lại nữa, 3 ý nghĩa nhận hiểu, trình bày thành tựu và được thụ ký nêu ra trước sau không nhất định. Việc nhận hiểu rồi im lặng hay nói ra cũng chẳng giống nhau. Kinh văn ngắn gọn không đủ để phân chia riêng nên nhập chung vào đoạn khác.
Phẩm này hoàn toàn nói về nhân duyên, 2 phẩm sau sẽ nói về việc thụ ký.
KINH VĂN
Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Trong quá khứ vô số a-tăng-kỳ kiếp không thể nghĩ bàn trước đây, vào lúc đó có đức Phật danh hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi Phật ấy tên là Hảo Thành, thời đại tên là Đại Tướng.
“Này các tỳ-kheo! Từ khi đức Phật ấy nhập Niết-bàn đến nay đã quá lâu xa. Ví như có người đem hết thảy đất đai trong cõi thế giới đại thiên này mài ra làm mực, rồi đi về hướng đông, cứ qua một ngàn cõi nước thì dùng mực chấm một điểm chỉ như hạt bụi cực nhỏ, lại đi tiếp qua một ngàn cõi nước mới chấm một điểm nữa… Như vậy cho đến khi hết số mực đã mài được nói trên. Các ông nghĩ sao? Nếu đếm hết những cõi nước đã đi qua như vậy thì liệu có bậc thầy toán học nào, hoặc các học trò của vị ấy, có thể thấu đạt giới hạn, biết được con số đó hay không?”
“Bạch Thế Tôn! Không thể.”
“Này các tỳ-kheo! Nếu như những cõi nước mà người ấy đã đi qua, dù có hay không có chấm mực như trên, tất cả đều đem nghiền nát thành bụi cực nhỏ, rồi mỗi hạt bụi cực nhỏ đó được tính là một kiếp, thì từ khi đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhập Niết-bàn đến nay, thời gian số kiếp còn nhiều hơn số hạt bụi đó đến vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp.
“Ta dùng sức thấy biết của Như Lai nên quán sát được lâu xa như vậy vẫn thấy rõ giống như việc ngày nay.”
Tổng đoạn đầu tiên chia thành 2 đoạn. Đoạn thứ nhất là nêu tri kiến [của đức Như Lai] rất dài lâu, đoạn thứ hai là nói rõ sự kết duyên trong đời trước. Đức Như Lai có 3 năng lực siêu việt,[90] nhìn thấu việc xa xôi trong quá khứ giống như thấy việc ngày nay. Cho nên trước hết dẫn việc đã qua để xác quyết lời Phật không hư dối, sau đó nói rõ về những việc đời trước. Cả hai đoạn này đều gồm đủ văn trường hàng và kệ tụng.
Trong đoạn thứ nhất, tiểu đoạn thứ nhất là văn trường hàng lại chia thành 3 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu những việc Phật nhìn thấy, tức là nói cõi nước tên Hảo Thành, thời đại tên là Đại Tướng, Phật hiệu Đại Thông Trí Thắng v.v. Phân đoạn thứ hai nêu thí dụ để làm rõ thời gian rất lâu xa. Phân đoạn thứ ba kết lại, nói việc Phật có thể nhìn thấy việc thuở xưa giống như ngày nay. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
Ta nhớ đời quá khứ,
Vô lượng vô số kiếp,
Có Đấng Lưỡng Túc Tôn,
Hiệu Đại Thông Trí Thắng.
Ví như người dùng sức,
Mài nát cõi đại thiên,
Hết thảy bao đất đai,
Đều nhuyễn ra thành mực.
Đi qua ngàn cõi nước,
Chấm một điểm mực nhỏ,
Cứ vậy mà tiếp tục,
Cho đến khi hết mực.
Bao nhiêu cõi nước ấy,
Có điểm mực hay không,
Đều đem nghiền thành bụi,
Mỗi hạt bụi: một kiếp.
Số hạt bụi như vậy,
Số kiếp còn nhiều hơn.
Phật Đại Thông nhập diệt,
Lâu xa đến như thế.
Trí Như Lai vô ngại,
Thấy Phật ấy diệt độ,
Cùng Thanh văn, Bồ Tát…
Như đang thấy hôm nay.
Các tỳ-kheo, nên biết,
Trí tuệ Phật nhiệm mầu,
Không lậu hoặc, ngăn ngại,
Thông suốt vô số kiếp.
Tiểu đoạn thứ hai gồm 7 khổ kệ, tụng lại 3 ý nghĩa trong văn trường hàng ở trước, y theo kinh văn có thể hiểu được, [không cần giảng giải].
KINH VĂN
Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Đức Phật Đại Thông Trí Thắng sống thọ đến 540 muôn ức na-do-tha[91] kiếp. Khi đức Phật ấy ngồi nơi đạo trường phá trừ hết quân ma, đã sắp đạt được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà pháp của chư Phật vẫn chưa hiện ra trước. Cứ như vậy trải qua một tiểu kiếp, thậm chí cho đến mười tiểu kiếp ngồi kết già, thân tâm không hề dao động, mà pháp của chư Phật cũng vẫn chưa hiện ra trước.
“Bấy giờ, chư thiên ở cõi trời Đao-lợi trước đó đã vì đức Phật ấy mà trải tòa sư tử dưới gốc cây bồ-đề, cao đến một do-tuần. Đức Phật ngồi nơi tòa sư tử này sẽ chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong lúc Phật ngồi nơi tòa này, các vị Phạm thiên vương làm mưa xuống các loại hoa trời, phủ khắp quanh tòa ngồi đến trăm do-tuần, có gió thơm thường thổi qua, cuốn đi những hoa đã héo, lại mưa xuống hoa tươi. Cứ như vậy không dứt, trải qua đủ mười tiểu kiếp cúng dường lên Phật, rồi đến khi Phật diệt độ cũng thường mưa hoa như vậy. Bốn vị thiên vương[92] thường đánh trống trời để cúng dường lên Phật, chư thiên khác thì trỗi lên các loại nhạc trời, trải qua đủ mười tiểu kiếp, rồi đến khi Phật diệt độ cũng cúng dường như vậy.
Đoạn thứ hai từ câu “… Đức Phật… …sống thọ đến 540 muôn ức na-do-tha kiếp” trở đi, nói rõ về sự kết duyên [trong quá khứ]. Về nguyên do lại có 2 tiểu đoạn, nói nguyên do xa và nguyên do gần.
Tiểu đoạn thứ nhất nói nguyên do xa lại chia thành 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói việc đức Phật Đại Thông Trí Thắng thành đạo. Phân đoạn thứ hai nói việc các vị Phạm thiên vương trong mười phương đến thỉnh cầu Phật chuyển pháp luân.
Phân đoạn thứ nhất nói việc thành đạo lại có 5 ý. Ý thứ nhất nói thọ mạng của Phật dài lâu. Ý thứ hai từ câu “Khi đức Phật ấy ngồi nơi đạo trường…” trở đi, nêu những việc trước khi Phật thành đạo. Tuy rằng đạo của chư Phật đều đồng như nhau, nhưng duyên sự khác nhau. Đức Phật Thích-ca tu khổ hạnh 6 năm, [ngồi yên một chỗ,] cỏ mọc xuyên qua đùi chạm lên khuỷu tay vẫn không hay biết, chư thiên gào khóc chấn động cõi đất cũng không nghe, khi dời chỗ ngồi [đến dưới cội Bồ-đề] thì đắc đạo. Đức Phật Di-lặc thì đắc đạo ngay trong ngày xuất gia. Đức Phật Đại Thông Trí Thắng thì [ngồi yên] đến 10 tiểu kiếp “mà pháp của chư Phật cũng vẫn chưa hiện ra trước”. Không phải do căn tánh [chư Phật] lại có sự nhanh nhạy hay trì độn khác nhau, cũng không phải do đạo [của mỗi vị Phật lại] có khó hay dễ khác biệt. Chỉ là do cơ duyên nên gấp rút hay trì hoãn mà cần phải thị hiện thời gian [thành Phật] kéo dài hay nhanh chóng.
KINH VĂN
“Này chư tỳ-kheo! Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua 10 tiểu kiếp như vậy rồi, pháp của chư Phật mới hiện ra trước, thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Đức Phật ấy khi chưa xuất gia có 16 người con trai. Người con lớn nhất tên là Trí Tích. Mỗi người con này đều có đủ các món đồ chơi trân quý hiếm lạ, khi nghe cha mình đã thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đều vất bỏ hết mọi thứ quý giá, tìm đến chỗ Phật. Những người mẹ khóc lóc đi theo đưa tiễn, ông nội là Chuyển luân Thánh vương, cùng với 100 vị quan đại thần và hơn trăm ngàn muôn ức người dân vây quanh, cũng cùng đi đến đạo trường nơi Phật thành đạo. Tất cả đều mong muốn được gần gũi đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xưng tán.
“Khi đến chỗ Phật rồi, tất cả đều cúi đầu chạm mặt lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật rồi chắp tay một lòng chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Các vương tử cùng đọc kệ rằng:
Thế Tôn đại oai đức,
Vì muốn độ chúng sanh,
Trải vô lượng ức kiếp,
Nay mới thành quả Phật.
Các nguyện đã đầy đủ,
Lành thay, tối thượng hiền.
Thế Tôn rất ít có,
Ngồi xuống mười tiểu kiếp,
Thân thể cùng tay chân,
Đều an nhiên không động.
Trong tâm thường an tĩnh,
Chưa từng có tán loạn,
Rốt ráo thường tịch diệt,
Trụ yên pháp vô lậu.
Nay được thấy Thế Tôn,
An ổn thành Phật đạo,
Chúng con được lợi lành,
Rất hoan hỷ, xưng tán.
Chúng sanh thường khổ não,
Mù, không thầy dẫn đường,
Không rõ đạo dứt khổ,
Không biết cầu giải thoát.
Đêm dài thêm đường ác,
Càng ít sanh cõi trời.
Từ tối đi vào tối,
Không nghe danh hiệu Phật.
Nay Phật đạt tối thượng,
Đạo an ổn, vô lậu,
Chúng con hàng trời, người,
Được lợi ích lớn nhất,
Nên cùng nhau cúi đầu,
Nương theo Đấng Vô Thượng.
Bấy giờ, 16 vị vương tử đọc kệ xưng tán Phật rồi liền thưa thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân, cùng nói rằng: “Đức Thế Tôn thuyết pháp mang lại nhiều sự an ổn, thương xót làm lợi ích cho chư thiên và loài người.”
Các vị đọc kệ lặp lại ý này như sau:
Bậc Thế Hùng tối thượng,
Trăm phúc tự trang nghiêm.
Được trí tuệ Vô thượng,
Xin vì đời nói ra.
Để độ thoát chúng con,
Cùng muôn loài chúng sanh.
Xin phân biệt chỉ bày,
Khiến được trí tuệ ấy.
Nếu chúng con thành Phật,
Thì chúng sanh cũng vậy.
Thế Tôn rõ tâm niệm,
Của hết thảy chúng sanh,
Biết pháp họ thực hành,
Cũng như sức trí tuệ,
Chỗ ưa muốn, tu phúc,
Nghiệp đã tạo đời trước,
Thế Tôn đã biết hết,
Nguyện thuyết pháp Vô thượng.
Ý thứ ba là từ câu “Này chư tỳ-kheo! Đức Phật… …trải qua 10 tiểu kiếp…” trở đi, nói về việc thành đạo.
Ý thứ tư, từ câu “Đức Phật ấy khi chưa xuất gia…” trở đi là nói rõ việc sau khi thành đạo, quyến thuộc đến cúng dường.
Ý thứ năm, từ câu “Các vương tử cùng đọc kệ rằng…” trở đi [cho đến hết phần kệ tụng] là nêu rõ việc thỉnh chuyển pháp luân.
Ý thứ nhất kinh văn rõ ràng dễ hiểu. Ý thứ hai nói việc trước khi thành Phật lại có 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất nêu việc Phật ngồi nơi đạo tràng, trải qua thời gian. Tiểu ý thứ hai nói việc chư thiên cúng dường.
KINH VĂN
Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Khi đức Phật Đại Thông Trí Thắng chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, 500 muôn ức cõi nước của chư Phật ở mỗi phương trong khắp mười phương đều chấn động theo sáu cách. Trong các cõi nước ấy, những nơi tối tăm ánh sáng mặt trời mặt trăng không soi chiếu đến thì nay đều sáng rực. Những chúng sanh nơi ấy đều nhìn thấy nhau, liền nói rằng: ‘Ở nơi đây sao bỗng dưng lại sanh ra chúng sanh!’
“Lại cũng trong những cõi nước ấy, cung điện của chư thiên, cho đến cung điện của Phạm thiên vương,[93] đều chấn động sáu cách, có hào quang chói sáng soi chiếu mọi nơi, tỏa khắp thế giới, chói sáng hơn hào quang của chư thiên.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo... …chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác…” trở đi, nói việc các vị Phạm thiên vương thỉnh [Phật chuyển pháp luân]. Phân đoạn này chia làm 2 ý. Ý thứ nhất là hào quang soi chiếu chấn động [mười phương]. Ý thứ hai là các vị Phạm thiên vương trong mười phương đến thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Ý thứ nhất nói về hào quang soi chiếu, kinh Nhân quả quá khứ[94] nói rằng: “Khi Bồ Tát Tất-đạt-đa ở trong thai mẹ, các cõi nước trong thế giới đại thiên[95] bỗng nhiên có hào quang rực sáng, những nơi mặt trời, mặt trăng không soi chiếu đến bỗng dưng được chiếu sáng, nên ở những nơi đó các chúng sanh liền được nhìn thấy nhau.”[96] Lúc Phật mới thành đạo cũng có hào quang giống như vậy. Kinh Nhân quả quá khứ cũng nói rằng, Bồ Tát buổi sáng [thuyết pháp] vì chư thiên ở cõi Sắc, buổi trưa [thuyết pháp] vì chư thiên ở cõi Dục, rồi buổi chiều vì quỷ thần mà thuyết pháp. Buổi tối cũng lại [thuyết pháp] như vậy.[97]
Giải thích theo quán tâm thì nói “bỗng dưng sanh ra chúng sanh” có nghĩa là nói tâm tánh [chúng sanh] vốn thanh tịnh, chỉ vì ấm, nhập, giới che lấp nên bị tối tăm. Nếu tu tập quán tuệ thì lý của bản tánh sẽ hiển lộ. Lại nữa, [ví như] 2 ngọn núi là 2 chân đế,[98] ở khoảng giữa là trung đạo; ánh sáng mặt trời, mặt trăng là 2 trí [quyền và thật], hào quang của Phật là trung đạo. Ánh sáng của trí tuệ vô phân biệt soi chiếu sáng tỏ cả 3 chân đế[99] vốn có.
KINH VĂN
“Lúc bấy giờ, ở trong 500 muôn ức cõi nước phương đông, những cung điện của Phạm thiên vương đều được soi chiếu rực rỡ, sáng hơn nhiều lần so với bình thường. Các vị Phạm thiên vương trong những cõi nước ấy đều nghĩ rằng: ‘Nay cung điện của ta rực sáng là điều trước đây chưa từng có, không biết do nhân duyên gì mà hiện ra tướng trạng này?’
“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương liền đến gặp nhau để cùng bàn luận việc này. Trong số đó có một vị Phạm thiên vương[100] tên là Cứu Nhất Thiết, vì các Phạm thiên vương khác mà nói kệ rằng:
Cung điện của chúng ta,
Sáng rực chưa từng có,
Là do nhân duyên gì,
Chúng ta nên tìm hiểu.
Thiên tử đại đức sanh,
Hay đức Phật ra đời,
Nên có hào quang lớn,
Soi chiếu khắp mười phương?
“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương ở 500 muôn ức cõi nước phương đông, cùng mang theo cung điện của mình, mỗi vị đều dùng đãy lớn đựng các loại hoa trời, cùng nhau đi về hướng tây để tìm nguyên nhân của sự chiếu sáng. Các vị liền nhìn thấy đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nơi đạo tràng dưới gốc cây bồ-đề. Đức Phật ngồi trên tòa sư tử, có chư thiên, long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân… đều cung kính vây quanh, lại cũng thấy 16 vị vương tử đang thỉnh Phật chuyển pháp luân.
“Các vị Phạm thiên vương liền cúi đầu chạm mặt lễ kính dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời tung rải phía trên thân Phật. Hoa được tung rải như núi Tu-di,2 cũng dùng để cúng dường cây bồ-đề của Phật. Cây bồ-đề ấy cao đến 10 do-tuần.3 Sau khi cúng dường hoa trời xong, các vị Phạm thiên vương đều dâng cung điện4 của mình lên đức Phật, thưa rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn thương xót làm lợi ích cho chúng con. Nay chúng con dâng cúng những cung điện này, nguyện Phật rủ lòng thương mà thọ nhận.’ Các vị Phạm thiên vương liền đối trước Phật, đồng thanh một lòng đọc kệ xưng tán rằng:
Thế Tôn thật ít có!
Rất khó được gặp Phật.
Đủ vô lượng công đức,
Thường cứu độ tất cả,
Bậc thầy của trời, người,
Thương xót khắp thế gian.
Chúng sanh trong mười phương,
Đều được nhờ lợi ích.
Chúng con đến đây từ
Năm trăm muôn ức nước,
Từ bỏ vui thiền định,
Vì muốn cúng dường Phật.
Nhờ phúc đức đời trước,
Được cung điện trang nghiêm,
Nay xin dâng cúng Phật,
Nguyện xót thương thọ nhận.
“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương đọc kệ xưng tán Phật rồi, mỗi vị đều nói: ‘Nguyện đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp độ thoát chúng sanh, mở đường đến Niết-bàn.’
“Rồi các vị Phạm thiên vương đồng thanh một lòng đọc kệ rằng:
Thế Hùng Lưỡng Túc Tôn,
Cúi xin diễn thuyết pháp,
Dùng sức đại từ bi,
Cứu chúng sanh khổ não.
“Bấy giờ, đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời.
“Lại nữa, này các tỳ-kheo! Các vị Phạm thiên vương ở 500 muôn ức cõi nước về phương đông nam, mỗi vị cũng đều tự thấy cung điện của mình được soi chiếu sáng rực, trước đây chưa từng có. Các vị đều vui mừng phấn khích, khởi tâm cho là việc hy hữu, liền đi đến gặp nhau để cùng bàn luận việc này. Bấy giờ trong số đó có một vị Phạm thiên vương tên là Đại Bi, vì các vị Phạm thiên vương khác mà nói kệ rằng:
Là do nhân duyên gì,
Hiện ra tướng trạng này?
Cung điện của chúng ta,
Sáng rực chưa từng có.
Thiên tử đại đức sanh,
Hay đức Phật ra đời?
Chưa từng thấy tướng này,
Hãy cùng nhau tìm kiếm.
Qua ngàn muôn ức cõi,
Theo ánh sáng mà suy,
Chắc hẳn Phật ra đời,
Độ chúng sanh thoát khổ.
“Bấy giờ, 500 muôn ức vị Phạm thiên vương cùng với cung điện của mình, mỗi vị đều dùng đãy lớn đựng các loại hoa trời, cùng đi về hướng tây bắc để tìm nguyên nhân của sự chiếu sáng. Các vị liền nhìn thấy đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nơi đạo tràng dưới gốc cây bồ-đề. Đức Phật ngồi trên tòa sư tử, có chư thiên, long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân… đều cung kính vây quanh, lại cũng thấy 16 vị vương tử đang thỉnh Phật chuyển pháp luân. Các vị Phạm thiên vương liền cúi đầu chạm mặt lễ kính dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời tung rải phía trên thân Phật. Hoa được tung rải rơi xuống như núi Tu-di, cũng dùng để cúng dường cây bồ-đề của Phật. Sau khi cúng dường hoa trời xong, các vị Phạm thiên vương đều dâng cung điện của mình lên đức Phật, thưa rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn thương xót làm lợi ích cho chúng con. Nay chúng con dâng cúng những cung điện này, nguyện Phật rủ lòng thương mà thọ nhận.’
“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương liền đối trước Phật, một lòng đồng thanh đọc kệ xưng tán rằng:
Thánh chủ, vua chư thiên,
Tiếng như chim ca-lăng.
Bậc thương xót chúng sanh,
Chúng con xin kính lễ.
Thế Tôn rất ít có,
Thật lâu mới ra đời.
Một trăm tám mươi kiếp,
Trống không, không có Phật.
Ba đường ác đông đảo,
Sanh cõi trời hiếm hoi.
Nay Phật đã ra đời,
Giúp chúng sanh thấy rõ,
Làm chỗ đời nương theo,
Cứu giúp cho hết thảy.
Là cha lành chúng sanh,
Thương xót làm lợi ích
Chúng con nhờ phúc xưa,
Nay được gặp Thế Tôn.
“Bấy giờ các vị Phạm thiên vương đọc kệ tán Phật rồi, mỗi người đều nói rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn thương xót tất cả mà chuyển bánh xe pháp độ thoát chúng sanh.’
“Khi ấy, các vị Phạm thiên vương một lòng đồng thanh đọc kệ rằng:
Đại thánh chuyển pháp luân,
Chỉ bày các tướng pháp.
Độ chúng sanh khổ não,
Khiến cho rất vui mừng.
Chúng sanh nghe pháp này,
Đạt đạo sanh cõi trời,
Ít người vào đường ác,
Người nhẫn thiện nhiều hơn.
“Bấy giờ, đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời.
“Lại nữa, này các tỳ-kheo! Các vị Phạm thiên vương ở 500 muôn ức cõi nước về phương nam, mỗi vị cũng đều tự thấy cung điện của mình được soi chiếu sáng rực, trước đây chưa từng có. Các vị đều vui mừng phấn khích, khởi tâm cho là việc hy hữu, liền đi đến gặp nhau để cùng bàn luận: ‘Do nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng chói lọi này?’
“Bấy giờ trong số đó có một vị Phạm thiên vương tên là Diệu Pháp, vì các vị Phạm thiên vương khác mà nói kệ rằng:
Cung điện của chúng ta,
Có ánh sáng chói lòa,
Không thể không nhân duyên,
Nên phải tìm hiểu xem.
Trải qua trăm ngàn kiếp,
Chưa từng thấy tướng này.
Thiên tử đại đức sanh,
Hay đức Phật ra đời?
“Bấy giờ, 500 muôn ức vị Phạm thiên vương mang theo cung điện của mình, mỗi vị đều dùng đãy lớn đựng các loại hoa trời, cùng đi về hướng bắc để tìm nguyên nhân của sự chiếu sáng. Các vị liền nhìn thấy đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nơi đạo tràng dưới gốc cây bồ-đề. Đức Phật ngồi trên tòa sư tử, có chư thiên, long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân… đều cung kính vây quanh, lại cũng thấy 16 vị vương tử đang thỉnh Phật chuyển pháp luân.
“Các vị Phạm thiên vương liền cúi đầu chạm mặt lễ kính dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời tung rải phía trên thân Phật. Hoa được tung rải rơi xuống như núi Tu-di, cũng dùng để cúng dường cây bồ-đề của Phật. Sau khi cúng dường hoa trời xong, các vị Phạm thiên vương đều dâng cung điện của mình lên đức Phật, thưa rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn thương xót làm lợi ích cho chúng con. Nay chúng con dâng cúng những cung điện này, nguyện Phật rủ lòng thương mà thọ nhận.’
“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương liền đối trước Phật, đồng thanh một lòng đọc kệ xưng tán rằng:
Thế Tôn thật khó gặp,
Phá trừ các phiền não.
Hơn trăm ba mươi kiếp,
Nay mới gặp một lần.
Những chúng sanh đói khát,
Được mưa pháp đầy đủ.
Xưa nay chưa từng thấy,
Bậc trí tuệ vô lượng,
Như hoa ưu-đàm-bát,
Đến nay mới được gặp.
Cung điện của chúng con,
Hào quang chiếu trang nghiêm,
Thế Tôn đại từ bi,
Nguyện xót thương thọ nhận.
“Bấy giờ các vị Phạm thiên vương đọc kệ tán Phật rồi, mỗi người đều nói rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, khiến cho hết thảy chư thiên, ma, phạm chí, sa-môn, bà-la-môn trong thế gian đều an ổn mà được độ thoát.’
Khi ấy, các vị Phạm thiên vương đồng thanh một lòng đọc kệ rằng:
Nguyện đức Thiên Nhân Tôn,
Chuyển pháp luân vô thượng,
Đánh tiếng trống pháp lớn,
Thổi vang kèn pháp lớn,
Đổ trận mưa pháp lớn,
Độ vô số chúng sanh.
Chúng con đồng thỉnh nguyện,
Xin giảng pháp sâu xa.
“Bấy giờ, đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời.
“Từ phương tây nam cho đến phương dưới cũng đều [xảy ra những việc] như vậy.
“Bấy giờ các vị Phạm thiên vương ở 500 muôn ức cõi nước về phương trên, mỗi vị cũng đều tự thấy cung điện của mình được soi chiếu sáng rực, trước đây chưa từng có. Các vị đều vui mừng phấn khích, khởi tâm cho là việc hy hữu, liền đi đến gặp nhau để cùng bàn luận: ‘Do nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng chói lọi này?’
“Bấy giờ trong số đó có một vị Phạm thiên vương tên là Thi Khí, vì các vị Phạm thiên vương khác mà nói kệ rằng:
Nay do nhân duyên gì,
Cung điện của chúng ta,
Có ánh sáng rực rỡ,
Trang nghiêm chưa từng có!
Tướng nhiệm mầu thế này,
Chưa từng được thấy nghe.
Thiên tử đại đức sanh,
Hay đức Phật ra đời?
“Bấy giờ, 500 muôn ức vị Phạm thiên vương mang theo cung điện của mình, mỗi vị đều dùng đãy lớn đựng các loại hoa trời, cùng đi về hướng dưới để tìm nguyên nhân của sự chiếu sáng. Các vị liền nhìn thấy đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nơi đạo tràng dưới gốc cây bồ-đề. Đức Phật ngồi trên tòa sư tử, có chư thiên, long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân… đều cung kính vây quanh, lại cũng thấy 16 vị vương tử đang thỉnh Phật chuyển pháp luân.
“Các vị Phạm thiên vương liền cúi đầu chạm mặt lễ kính dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời tung rải phía trên thân Phật. Hoa được tung rải rơi xuống như núi Tu-di, cũng dùng để cúng dường cây bồ-đề của Phật. Sau khi cúng dường hoa trời xong, các vị Phạm thiên vương đều dâng cung điện của mình lên đức Phật, thưa rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn thương xót làm lợi ích cho chúng con. Nay chúng con dâng cúng những cung điện này, nguyện Phật rủ lòng thương mà thọ nhận.’
“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương liền đối trước Phật, đồng thanh một lòng đọc kệ xưng tán rằng:
Lành thay gặp chư Phật!
Bậc tôn thánh cứu đời,
Ở trong ngục ba cõi,
Cứu thoát các chúng sanh.
Bậc trí tuệ bao trùm,
Thương xót chúng mê mờ,
Thường mở cửa cam lộ,
Rộng cứu độ hết thảy.
Quá khứ vô số kiếp,
Trống không, không có Phật.
Thế Tôn chưa ra đời,
Mười phương thường tối tăm,
Ba đường ác tăng nhiều,
A-tu-la đông đảo,
Chư thiên ngày càng ít,
Chết sanh đường ác nhiều.
Không theo Phật nghe pháp,
Nên thường làm việc ác,
Hình sắc và trí tuệ,
Cả hai đều suy giảm.
Do nhân duyên tội nghiệp,
Không vui, không ý vui.
Đắm trong pháp tà kiến,
Không rõ phép tắc lành.
Không được Phật giáo hóa,
Thường sa đọa đường ác.
Phật là mắt thế gian,
Rất lâu mới ra đời,
Vì thương xót chúng sanh,
Xuất hiện giữa thế gian,
Siêu việt thành Chánh giác,
Chúng con rất vui mừng,
Cùng bao chúng sanh khác,
Mừng khen: Chưa từng có!
Cung điện của chúng con,
Hào quang chiếu trang nghiêm,
Nay dâng cúng Thế Tôn,
Nguyện xót thương thọ nhận.
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Chúng con và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.
“Lúc bấy giờ, 500 muôn ức vị Phạm thiên vương đọc kệ xưng tán Phật rồi, mỗi vị đều bạch Phật: “Nguyện đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp để nhiều chúng sanh được an ổn, nhiều chúng sanh được độ thoát.’
“Khi ấy, các vị Phạm thiên vương lại nói kệ rằng:
Thế Tôn chuyển pháp luân,
Đánh trống pháp cam lộ,
Độ chúng sanh khổ não,
Chỉ bày đường Niết-bàn.
Xin nhận lời con thỉnh,
Dùng âm thanh vi diệu,
Thương xót mà giảng giải,
Pháp tu vô số kiếp.
Ý thứ hai từ câu “Lúc bấy giờ, ở trong 500 muôn ức cõi nước phương đông…” trở đi, nói việc các vị Phạm thiên vương trong 10 phương [đến thỉnh Phật chuyển pháp luân]. Ý này lại chia làm 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất nói về 9 phương và tiểu ý thứ hai nói về phương trên.
Tiểu ý nói về 9 phương lại có 4 điều, thứ nhất là phương đông, thứ hai là phương đông nam, thứ ba là phương nam và thứ tư là nói chung về 6 phương khác.
Về 3 phương được nêu trước tiên, nói về các vị Phạm thiên vương thì kinh văn mỗi điều đều có 7 chi tiết. Thứ nhất là các vị đều thấy điềm lành, thứ hai là kinh ngạc, thứ ba là hỏi nhau và bàn luận để xác quyết, thứ tư là tìm theo ánh sáng đến gặp Phật, thứ năm là cúng dường Phật bằng cả 3 nghiệp [thân, khẩu, ý], thứ sáu là thỉnh Phật chuyển pháp luân, thứ bảy là [đức Phật] im lặng nhận lời. Những phần này đều có thể y theo kinh văn mà hiểu được.
Tiểu ý thứ hai nói về các vị Phạm thiên vương ở phương trên chỉ có 6 chi tiết, vì đức Thế Tôn nhận lời “liền chuyển pháp luân” cho nên không có chi tiết “im lặng nhận lời”.
Các nhà cựu giải cho rằng, [các vị Phạm thiên vương ở] 2 phương đông và đông nam thỉnh [Phật thuyết] Tiểu thừa, 7 phương khác thỉnh [Phật thuyết] Đại thừa, phương trên thỉnh [Phật thuyết] cả Tiểu thừa và Đại thừa.
Nếu theo Thích luận thì nói các vị Phạm thiên vương vốn chỉ thỉnh [Phật thuyết pháp] Đại thừa, tuy Phật có thuyết pháp Tiểu thừa nhưng như vậy [là các vị] chưa toại nguyện. Nếu Phật thuyết giáo pháp Bát-nhã thì vẫn là khác với chỗ thỉnh cầu của các vị Phạm thiên vương.
Nếu dựa theo kinh văn trong phẩm Phương tiện thì các vị Phạm thiên vương thỉnh pháp Đại thừa. Tuy nhiên, hết thảy pháp của chư Phật đều đồng đẳng như nhau, không nên có sự thưa thỉnh thiên lệch. Chỉ vì kinh luận hiện còn đều nói sơ lược, nên các bậc thầy dựa theo đó mà hiểu thiên lệch. Lại xét theo như đức Phật [Thích-ca Mâu-ni] ngày nay,[101] từ khởi đầu cho đến cuối cùng, chuyển pháp luân [5 thời có] 5 vị giáo pháp,[102] mỗi lần đều là đáp lại sự thưa thỉnh của Phạm thiên vương. Đối với đức Phật Đại Thông Trí Thắng hẳn là cũng giống như vậy.
Ban sơ 16 vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân viên mãn,[103] giống như Phật Thích-ca ngày nay thuyết giảng giáo pháp Hoa nghiêm. [Các vị Phạm thiên vương ở] 2 phương đông và đông nam thỉnh Phật chuyển pháp luân [quyền thừa] không viên mãn, giống như Phật Thích-ca ngày nay thuyết giảng giáo nghĩa Tam tạng. Sau đó [các vị Phạm thiên vương ở] 7 phương khác thỉnh Phật chuyển pháp luân chỉ ra pháp không viên mãn để nêu rõ giáo pháp viên mãn,[104] giống như ngày nay Phật Thích-ca thuyết giảng kinh Phương đẳng. [Các vị Phạm thiên vương ở] phương trên thỉnh Phật chuyển pháp luân giữ pháp không viên mãn và giảng rõ pháp viên mãn,[105] giống như ngày nay Phật Thích-ca thuyết giảng pháp Bát-nhã. Sau đó nữa, 16 vị vương tử thỉnh Phật [chuyển pháp luân] bỏ pháp không viên mãn, giảng rõ pháp viên mãn, giống như ngày nay Phật Thích-ca thuyết giảng kinh Pháp hoa là giáo pháp của vị đề hồ. So sánh [các phần giảng pháp của Phật] ngày nay với [Phật Đại Thông Trí Thắng] ngày xưa thì ý nghĩa kinh văn đều tương hợp. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
“Bấy giờ, đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh cầu của các vị Phạm thiên vương trong mười phương cũng như của 16 vị vương tử, liền chuyển pháp luân 3 lần với 12 hành tướng.[106] Nếu là sa-môn, bà-la-môn, hoặc chư thiên, ma, phạm chí cũng như các hạng chúng sanh khác trong thế gian, đều không có khả năng chuyển pháp luân như vậy.
“Đức Phật dạy rằng: ‘Đây là khổ; đây là nguyên nhân của khổ; đây là sự chấm dứt khổ; đây là phương thức để chấm dứt khổ.’ Đức Phật cũng giảng rộng giáo pháp 12 nhân duyên: ‘Vô minh làm duyên sanh ra hành, hành làm duyên sanh ra thức, thức làm duyên sanh ra danh sắc, danh sắc làm duyên sanh ra sáu nhập, sáu nhập làm duyên sanh ra sự xúc chạm, sự xúc chạm làm duyên sanh ra cảm thụ, cảm thụ làm duyên sanh ra luyến ái, luyến ái làm duyên sanh ra chấp thủ, chấp thủ làm duyên sanh ra hiện hữu, hiện hữu làm duyên sanh ra sự sanh, sự sanh làm duyên sanh ra già chết cùng với buồn đau khổ não… Do vậy, nếu vô minh diệt rồi thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, sáu nhập diệt thì sự xúc chạm diệt, sự xúc chạm diệt thì cảm thụ diệt, cảm thụ diệt thì luyến ái diệt, luyến ái diệt thì chấp thủ diệt, chấp thủ diệt thì hiện hữu diệt, hiện hữu diệt thì sự sanh diệt, sự sanh diệt thì già chết cùng với buồn đau khổ não diệt.’
“Khi đức Phật Đại Thông Trí Thắng thuyết giảng pháp này giữa đại chúng trời, người thì có 600 muôn ức na-do-tha người do không nạp thọ hết thảy các pháp nên tâm được giải thoát đối với các lậu hoặc, đều đạt thiền định thâm sâu mầu nhiệm, chứng được ba minh[107] và sáu thần thông,[108] đủ tám môn giải thoát.[109]
“Khi Phật thuyết pháp lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, số lượng chúng sanh do không nạp thọ hết thảy các pháp mà tâm được giải thoát đối với các lậu hoặc đã nhiều như số cát của ngàn muôn ức na-do-tha con sông Hằng. Từ đó về sau, chúng Thanh văn của Phật ấy nhiều đến vô lượng vô biên, không thể nêu lên số lượng.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Bấy giờ, đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh cầu… …mười phương” trở đi, nói về nguyên do gần của sự kết duyên. Nguyên do là đức Phật nhận lời thỉnh cầu thuyết pháp cho nên sau đó [đại chúng] mới được nghe thuyết giảng, tạo thành việc kết duyên. Tiểu đoạn này chia làm 2 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất nói việc trước tiên Phật chuyển pháp luân với pháp chưa rốt ráo.[110] Phân đoạn thứ hai nói việc các vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân bỏ pháp không viên mãn, giảng rõ pháp viên mãn.
Phân đoạn thứ nhất lại chia làm 3 ý. Ý thứ nhất là Phật chấp nhận lời thỉnh cầu, ý thứ hai là Phật chuyển pháp luân, ý thứ ba là [đại chúng] nghe pháp đạt đạo. Phần này lẽ ra nói đến 3 thừa giống như kinh văn trong phẩm Tựa có nói, nhưng lại không nói, đó là vì hàng hạ căn mà luận về [nguyên do] kết duyên [để đến ngày nay] có những việc khai thị trừ bỏ ba thừa,] hiển bày [Nhất thừa] v.v. Và lược bớt không nói về 6 ba-la-mật.
[Kinh nói] “chuyển pháp luân 3 lần” tức là thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển. Nếu đem 3 lần chuyển pháp luân so với [4 giai đoạn giáo hóa gồm] “thị, giáo, lợi, hỷ”, thì “thị” tức là thị chuyển, “giáo” tức là khuyến chuyển, “lợi” và “hỷ” tức là chứng chuyển; lại cũng tương đương với [các giai đoạn] kiến đế (thấy biết chân lý), tư duy (suy ngẫm) và vô học (không còn phải học).
[Đức Phật] vì hàng Thanh văn mà chuyển pháp luân 3 lần, vì hàng Duyên giác mà chuyển 2 lần, vì hàng Bồ Tát mà chuyển 1 lần. Vì sao lại như vậy? Vì căn tánh nhanh nhạy hoặc trì độn khác nhau, điều này đã nói qua một lần rồi. Đối với [chư thiên] trong 10 phương thì theo lệ xem như đều chuyển pháp luân 3 lần. Vì sao lại 3 lần? Vì lời chư Phật thuyết giảng, hết thảy các pháp đều giảng đến 3 lần, do chúng sanh có 3 loại căn cơ. Trong luận Đại Trí độ và luận Tỳ-bà-sa đều nói như vậy.
Hỏi: Lần đầu tiên [Phật thuyết pháp] vì 5 người, làm sao có thể nói [trong đó có] 3 hạng căn cơ? Lại [khi thuyết pháp] cho 80.000 chư thiên, sao có thể nói [trong đó] không có đủ 3 căn cơ?
Đáp: Vì [giúp cho chúng sanh] khởi sanh tam tuệ[111] nên ba hạng căn cơ vận dụng ba phần giáo pháp.
[Kinh nói] “12 hành tướng”, thứ nhất là dựa theo giáo pháp bốn chân đế, thứ hai là dựa theo 16 hành tướng.
Dựa theo giáo nghĩa thì 12 [hành tướng] nghĩa là [3 lần chuyển pháp luân gồm] thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển, mỗi lần đều thuyết 4 chân đế.
Dựa theo pháp hành thì 12 [hành tướng] nghĩa là 3 lần chuyển pháp luân, mỗi lần đều khởi sanh [4 giai đoạn] nhãn (thấy chân lý), trí (thể chứng chân lý bằng trí tuệ), minh (hiển lộ sáng tỏ chân lý) và giác (thực chứng, giác ngộ chân lý).[112]
Lại nữa, 12 hành tướng nói theo giáo nghĩa là công năng chuyển, nói theo pháp hành là đối tượng được chuyển, cho nên 12 pháp hành là pháp luân, 12 giáo nghĩa chưa phải pháp luân.
Nếu theo nghĩa 2 pháp luân thì nhãn, trí, minh, giác, dựa theo 48 pháp[113] mà mở rộng 4 tâm này thành 16 tâm. Đó là nói khổ pháp nhẫn là nhãn, khổ pháp trí là trí, so [loại trí] nhẫn là minh, so [loại] trí là giác.[114] Ngoài ra 3 chân đế [tập, diệt và đạo] cũng đều như vậy. Cho nên thành ra 16 tâm. Ba hạng căn cơ, mỗi hạng đều có 16 tâm, cho nên thành ra 48 hành tướng. [Như vậy] 12 đế là giáo pháp luân, 12 hành là hành pháp luân.
Giáo pháp luân thì có công năng chuyển chỉ một quyền trí, đối tượng được chuyển thì có 12 giáo. Hành pháp luân thì có công năng chuyển 12 giáo, đối tượng được chuyển là hành cũng có 12. Điều này có thể vận dụng với cả 3 hạng căn cơ, hoặc chỉ nói một hạng. Nay lại nói về giai vị Kiến đế của 3 hạng căn cơ. Hàng lợi căn nghe thị chuyển liền lập tức khởi sanh nhãn, trí, minh, giác. Cả ba hạng [đều khởi sanh như thế nên] hợp lại cùng nêu ra, nói là 12 hành.
Kinh nói “không có khả năng chuyển pháp luân”, tức là nói những sa-môn không được nghe [pháp], vốn đã không thể hiểu, nói gì đến chuyển; hàng Bích-chi Phật tuy có giác ngộ, nhưng miệng không thể thuyết giảng; hàng bà-la-môn tuy có nghe được tên gọi nhưng không hiểu được lý; cho đến Ma vương, Phạm chí lại cũng như vậy.
Nói “chuyển” tức là chuyển được pháp [Tứ đế] này vào tâm người khác, giúp cho họ được giác ngộ và phá trừ 62 kiến chấp, như vậy mới gọi là chuyển pháp luân. Vì không đáp ứng được ý nghĩa này [cho nên nói] Ma vương, Phạm chí… không có khả năng chuyển pháp luân. Lại có người giải thích về Tứ đế của Đại thừa, tiếp theo là chuyển Nhị đế, tiếp theo nữa chuyển Nhất đế và sau nữa chuyển Vô đế. Những cách hiểu này đều là sự linh hoạt tóm gọn hoặc giảng rộng.
Bốn chân đế của Tiểu thừa lấy sanh diệt làm thể, Đại thừa thì dùng vô sanh diệt làm thể. Đại lược là như vậy.
[Kinh nói] 12 nhân duyên, đó là tướng riêng quán xét chi tiết về bốn chân đế. Dựa theo [hai chân đế] khổ và tập liền có từ vô minh cho đến lão tử; dựa theo đạo đế và diệt đế liền có diệt vô minh cho đến diệt lão tử.
Lại như người trong cả ba thừa cũng đều quán 12 duyên; 12 duyên sanh diệt của hàng Nhị thừa là 12 duyên không sanh của hàng Bồ Tát; 12 duyên không sanh [là nghĩa] xưa vốn không sanh, nay không có diệt; nếu là theo nhau sanh ắt lại sanh, lại nối nhau diệt… Đại lược là như vậy.
Lại nữa, cả ba thừa đều luận về bốn chân đế, nhưng bốn chân đế của hàng Nhị thừa có hạn lượng, còn bốn chân đế của hàng Bồ Tát không có hạn lượng.
Lại nữa, 6 ba-la-mật cũng là chung với 3 hạng căn cơ trong ba thừa.
Kinh Đại phẩm Bát-nhã,[115] phẩm Phát thú nói rằng: “A-la-hán, Bích-chi Phật, nhờ nơi 6 ba-la-mật đến được bờ giải thoát.” Luận Nhiếp Đại thừa[116] nói rằng: “Người phàm phu với hàng Nhị thừa cũng đều có đủ 6 ba-la-mật, chỉ là không giống như nhau.” Nếu vậy thì nên gọi tên giống nhau là ba-la-mật. Tuy nhiên, hàng Nhị thừa thực hành ba-la-mật đạt đến bờ bên kia là Niết-bàn [Tiểu thừa], cũng được gọi là ba-la-mật, nhưng không thể đạt đến bờ bên kia là Phật đạo, nên so với Bồ Tát là khác biệt. Luận A-tỳ-đàm[117] có nói đến 6 sự đầy đủ,[118] đây chính là 6 ba-la-mật. Kinh Bảo Vân[119] nêu rõ giới luật[120] của ba thừa.[121] Đại lược là như thế.
Ý thứ ba là đại chúng nghe pháp được giác ngộ, ban đầu còn ít hơn, đến khoảng giữa thì rất nhiều. Kinh nói “không thọ” là không thọ 4 kiến chấp,[122] tức là chứng ngộ sơ quả; “được giải thoát” là thoát khỏi 2 sự trói buộc của quả báo trong hiện tại và tương lai,[123] tức là chứng quả vô học; “đạt thiền định thâm sâu mầu nhiệm” tức là có đủ 2 pháp định, tuệ đạt đến giải thoát.[124] Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
“Bấy giờ, 16 vị vương tử đều xuất gia làm sa-di lúc còn nhỏ tuổi, căn tánh thông minh nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt thấu triệt, đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức các vị Phật, thanh tịnh tu tập Phạm hạnh, cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên cùng bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Vô số ngàn muôn ức vị đại đức Thanh văn này đều đã tu tập thành tựu, đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con mà thuyết pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chúng con được nghe rồi sẽ cùng nhau tu học. Bạch Thế Tôn! Chí nguyện của chúng con đều muốn được sự thấy biết của Như Lai. Đó là tâm niệm sâu thẳm trong lòng chúng con, hẳn Phật đã tự rõ biết.”
“Khi ấy, trong số người đi theo Chuyển luân Thánh vương, có 8 muôn ức người thấy 16 vị vương tử xuất gia thì cũng xin được xuất gia. Chuyển luân Thánh vương liền cho phép.
“Bấy giờ, đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhận sự thỉnh cầu của 16 vị sa-di rồi, trải qua đến 20.000 kiếp mới ở giữa 4 chúng mà thuyết kinh Đại thừa này, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Phật thuyết giảng kinh này rồi, 16 vị sa-di vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên đều thọ nhận giữ gìn, tụng đọc thông suốt.
“Khi Phật thuyết giảng kinh này, 16 vị sa-di đều tin nhận. Trong đại chúng Thanh văn cũng có một số người tin hiểu được, còn lại ngàn muôn ức chúng sanh khác đều sanh tâm nghi hoặc. Đức Phật Đại Thông Trí Thắng đã thuyết giảng kinh này trong suốt 8.000 kiếp chưa từng ngưng dứt. Thuyết giảng kinh này xong, đức Phật vào một am thất yên tĩnh,[125] trụ trong thiền định đến 84.000 kiếp.”
Từ câu “Bấy giờ, 16 vị vương tử đều xuất gia…” trở đi là phân đoạn thứ hai, thưa thỉnh Phật lần thứ hai để xin chuyển Pháp luân viên mãn. Phân đoạn này lại có 7 ý. Thứ nhất là nói [16 vương tử] xuất gia, thứ hai nói việc thỉnh chuyển pháp luân, thứ ba nói việc những người đi theo cũng xuất gia, thứ tư nói việc Phật nhận lời thưa thỉnh, thứ năm nói việc trong thính chúng có người hiểu, có người không hiểu, thứ sáu nói về thời gian [thuyết giảng], thứ bảy nói việc Phật thuyết pháp xong liền nhập định.
Ý thứ nhất, kinh văn nói “căn tánh thông minh nhanh nhạy” nghĩa là [16 vị vương tử có] 6 căn thanh tịnh, cho nên nói là “thông minh nhanh nhạy”. Lại nữa, 6 căn có thể vận dụng hỗ tương với nhau nên nói là “thông minh”, thể nhập cảnh giới Phật nên nói là “nhanh nhạy”. “Trí tuệ sáng suốt thấu triệt”, tức là nói đã được khai mở, chỉ bày, chứng ngộ, thể nhập [tri kiến Phật].
[Ý thứ hai,] đức Phật Đại Thông Trí Thắng ban sơ thuyết pháp viên đốn, các vị vương tử liền được đầy đủ công đức Đại thừa, nhưng vì thương xót mở bày phương tiện [độ sanh] nên thưa thỉnh lần nữa để Phật chỉ bày trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp chân thật. “Các vị Thanh văn đều đã thành tựu”, là nêu rõ việc các vị này đã trừ được che chướng, cơ duyên Đại thừa đã động khởi, cho nên mới vì họ thưa thỉnh [Phật thuyết pháp Đại thừa]. “Chí nguyện của chúng con đều muốn được sự thấy biết của Như Lai.” Vì kinh Pháp hoa này chỉ nêu rõ sự thấy biết của Phật, nên chỉ muốn đạt đến sự thấy biết ấy, tức là phần kinh văn thỉnh Phật nói pháp viên mãn rốt ráo, trừ bỏ pháp quyền thừa không rốt ráo. Ý nghĩa hết sức rõ ràng như vậy.
[Ý thứ ba có thể y theo kinh văn hiểu được.]
[Ý thứ tư, kinh văn nói] “trải qua đến 20.000 kiếp”, là nghĩa phần trên nói việc thiết lập ba thừa đã lâu, khoảng thời gian ở giữa đó không thể nói là không có việc gì. Cứ theo ý kinh văn phần sau thì trong 20.000 kiếp đó chắc hẳn là Phật đã thuyết các kinh Phương đẳng, Bát-nhã. Kinh văn [phần kệ tụng] nói: “Thuyết sáu ba-la-mật, cùng những việc thần thông.” Bát-nhã là hạnh, thần thông là sự. Trong các kinh Phương đẳng phần nhiều nêu rõ những hạnh và sự không thể nghĩ bàn. Trong kinh văn kệ tụng lại cũng nói: “Phân biệt pháp chân thật.” Đây tức là ý nói về thật tướng Bát-nhã như được nêu trong kinh Đại phẩm Bát-nhã.
Ý thứ năm, kinh văn nói “16 vị sa-di tin nhận”, cùng với hàng Nhị thừa, tức là nói những người tin nhận và hiểu được [Đại thừa]. “Còn lại ngàn muôn ức chúng sanh đều sanh tâm nghi hoặc”, tức là nói những người không thể nhận hiểu được. Chính những người không hiểu được này đã cùng với 16 vị sa-di thuở ấy kết thành nhân duyên Pháp hoa.
[Ý thứ sáu nói thời gian thuyết giảng, y theo kinh văn có thể hiểu được.]
Ý thứ bảy[126] nêu việc đức Phật Đại Thông Trí Thắng thuyết pháp xong rồi nhập định. Đây chính là nguyên do gần của việc kết duyên [đời trước]. Do Phật nhập định và chưa xuất định nên những người còn nghi hoặc không có ai để thưa hỏi, 16 vị sa-di sau đó liền vì những người chưa hiểu mà thuyết giảng lại kinh Pháp hoa.
Trong kinh văn nói về nơi chốn Phật nhập định, tức là “vào một am thất yên tĩnh”, nói việc nhập định tức là “trụ trong thiền định”, nói thời gian nhập định tức là 84.000 kiếp. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
“Bấy giờ, 16 vị Bồ Tát sa-di biết Phật đã vào am thất tịch lặng, an nhiên thiền định, mỗi vị cũng đều vì 4 chúng mà lên pháp tòa phân biệt giảng rộng kinh Diệu Pháp Liên Hoa trong 84.000 kiếp, mỗi vị đều hóa độ chúng sanh nhiều như số cát của 600 muôn ức na-do-tha con sông Hằng, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu,[127] khiến cho thảy đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.[128]
“Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua 84.000 kiếp rồi, ra khỏi thiền định, đi đến pháp tòa, ngồi xuống an nhiên điềm đạm nói với đại chúng: ‘Mười sáu sa-di này thật rất hiếm có, căn tánh đều thông minh nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt, đã từng cúng dường vô số ngàn muôn ức vị Phật, thường tu tập hạnh thanh tịnh ở nơi đạo tràng chư Phật, thọ nhận giữ gìn trí tuệ Phật, khai mở chỉ bày chúng sanh, khiến cho đều được thể nhập trí tuệ ấy, đại chúng nên thường luôn gần gũi cúng dường các vị này. Vì sao vậy? Nếu trong hàng Thanh văn, Duyên giác hoặc Bồ Tát, người nào có thể tin nhận giáo pháp kinh điển do 16 vị Bồ Tát sa-di này thuyết giảng, thọ nhận giữ gìn không để mất, thì những người ấy đều sẽ đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được trí tuệ của Như Lai.’”
Từ câu “Bấy giờ, 16 vị Bồ Tát sa-di biết Phật đã vào am thất…” trở đi là tổng đoạn thứ 2, là nói việc kết duyên. Tổng đoạn này có 2 đoạn. Đoạn thứ nhất nói thuyết pháp kết duyên, đoạn thứ hai nói thí dụ kết duyên.
Đoạn thứ nhất nói việc thuyết pháp lại có 3 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc thuở xưa đã cùng nhau kết duyên. Tiểu đoạn thứ hai nêu việc trong khoảng thời gian từ đó đến nay vẫn thường gặp lại gặp nhau. Tiểu đoạn thứ ba nói việc ngày nay lại thuyết giảng kinh Pháp hoa.
Tiểu đoạn thứ nhất lại có 4 phân đoạn. Thứ nhất là nêu việc biết Phật nhập định, thứ hai là nêu việc 16 vị Bồ Tát sa-di giảng lại [kinh Pháp hoa], thứ ba là nói việc thính chúng đều được lợi ích, thứ tư là nói việc đức Phật sau khi xuất định ngợi khen tán thán 16 vị Bồ Tát sa-di do Phật nhập định nên có cơ hội thuyết giảng.
Đức Phật Đại Thông Trí Thắng rõ biết việc giáo hóa một lần đã xong, lúc này không còn chúng sanh nào có cơ duyên thành thục nữa, nên để cho 16 vị vương tử cùng những người chưa được hóa độ kết duyên, lại cũng rõ biết là những người này cuối cùng sẽ nhờ các vương tử mà được hóa độ. Do vậy mà đức Phật mới nhập định thời gian lâu không xuất định. Đại lược là như thế.
Từ câu “Bấy giờ 16 vị Bồ Tát sa-di…” trở đi là phân đoạn thứ nhất, nêu việc biết rõ Phật đã nhập định. “Mỗi vị cũng đều vì bốn chúng mà lên pháp tòa nói pháp”, là phân đoạn thứ hai, nói việc [16 vị Bồ Tát] giảng lại kinh Pháp hoa. “Mỗi vị đều hóa độ chúng sanh…” là phân đoạn thứ ba, nói việc thuyết pháp làm lợi ích. “Thảy đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, cho nên nói rằng được hóa độ. Vào lúc vừa mới phát tâm, nếu lập thệ nguyện chính mình sẽ thành Phật là đã vượt hơn thế gian, tức là nghĩa vượt qua bờ bên kia của 7 hạng phương tiện.
“Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua 84.000 kiếp rồi…” là phân đoạn thứ tư, nói việc đức Phật sau khi xuất định xưng tán [16 vị Bồ Tát thuyết pháp], khuyến khích thính chúng khởi lòng tin. Phân đoạn này lại có 2 ý. Ý thứ nhất là xưng tán các vị Bồ Tát [thuyết pháp]. Ý thứ hai từ câu “Đại chúng nên thường luôn gần gũi cúng dường…” là khuyên chúng sanh nên gần gũi thân cận [người thuyết pháp]. Ý thứ hai này lại có 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất khuyên chúng sanh nên gần gũi. Tiểu ý thứ hai từ câu “Vì sao vậy?” trở đi, giải thích sự khuyến khích trong tiểu ý thứ nhất.
KINH VĂN
Đức Phật Thích-ca bảo các tỳ-kheo: “Mười sáu vị Bồ Tát ấy thường vui thích thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, mỗi vị đều giáo hóa số chúng sanh nhiều như số cát của 600 muôn ức na-do-tha con sông Hằng, những chúng sanh ấy đời đời sẽ luôn được sanh ra cùng Bồ Tát, theo Bồ Tát nghe thuyết pháp rồi đều tin hiểu. Nhờ nhân duyên đó nên sẽ được gặp 400 muôn ức đức Phật Thế Tôn, đến nay việc ấy vẫn còn chưa dứt.
“Này các tỳ-kheo! Nay ta nói cùng các ông, 16 vị sa-di đệ tử của Phật Đại Thông Trí Thắng, đến nay đều đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiện tại đang thuyết pháp trong các cõi nước mười phương, có vô số trăm ngàn muôn ức Bồ Tát, Thanh văn làm quyến thuộc.
Từ câu “Đức Phật Thích-ca bảo các vị tỳ-kheo…” trở đi là tiểu đoạn thứ hai, nêu việc trong khoảng thời gian từ đó đến nay [16 vị Bồ Tát và những chúng sanh được nghe các vị thuyết pháp] vẫn thường gặp lại nhau. Chúng sanh thường gặp lại đó có 3 hạng.
Hạng thứ nhất khi thường gặp lại được thọ nhận Đại thừa. Hạng này trong thời gian từ đó đến nay hẳn đều đã thành tựu cả rồi, không còn đến ngày hôm nay. Hạng thứ hai khi gặp lại nhau, [Bồ Tát] thấy họ thối tâm Đại thừa liền dùng pháp Tiểu thừa để dẫn dắt. Hạng này do vậy nên từ đó đến nay vẫn còn chưa hết [gặp gỡ], nay được nghe lại giáo pháp Đại thừa. Hạng thứ ba là những người chỉ gặp Tiểu thừa, không được gặp Đại thừa, cho nên từ đó đến nay chưa được hóa độ. Hạng này đến ngày nay cũng vẫn còn. Những người này ngày nay mới bắt đầu thọ nhận Đại thừa, cho nên đến sau khi Phật diệt độ rồi họ mới đạt đạo.
Hỏi: Như trên đã nói thì [Phật] thụ ký phải qua thời gian lâu xa số kiếp nhiều như số hạt bụi, đến nay mới chứng quả A-la-hán, vậy nên biết rằng đâu dễ gì đạt được vô sanh pháp nhẫn?
Đáp: Có thuyết nói rằng, bậc Đại Thánh khéo léo nương theo 4 pháp tất đàn để thuyết dạy như vậy. Hoặc nói Phật đạo xa xôi dài lâu, hoặc nói quả Phật dễ thành.
Để đối trị người sinh tâm chán nản với việc tu đạo lâu dài thì nói đường tu ngắn. Đối trị với người sanh tâm dể duôi cho rằng việc tu đạo dễ dàng thì nói đường tu phải lâu dài. Hoặc vì giúp phát khởi căn lành từ đời trước, hoặc tùy thuận chỗ mong muốn của người thế gian, hoặc vì có những người được nghe nói đường tu dài, hoặc được nghe nói đường tu ngắn, liền thể nhập vào đệ nhất nghĩa.
Nên biết rằng, tuy Phật đã thụ ký về số kiếp nhưng mãi đến nay mới đạt được quả A-la-hán, đó chính là quyền hành theo 4 tất đàn để dẫn dắt những người thực hành đi vào chánh đạo mà thôi.
Từ câu “Này các tỳ-kheo! Nay ta nói cùng các ông…” trở đi là tiểu đoạn thứ ba, nêu việc ngày nay cũng lại thuyết giảng kinh Pháp hoa. Tiểu đoạn này lại chia làm 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu những việc tương hợp thuở xưa với ngày nay. Phân đoạn thứ hai nêu việc nay lại thuyết giảng kinh Pháp hoa.
KINH VĂN
“Ở phương đông có 2 vị sa-di thành Phật, một vị hiệu A-súc, ở cõi nước Hoan Hỷ, vị thứ hai hiệu Tu-di Đỉnh.
“Ở phương đông nam có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu Sư Tử Âm, vị thứ hai hiệu Sư Tử Tướng.
“Ở phương nam có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu Hư Không Trụ, vị thứ hai hiệu Thường Diệt.
“Ở phương tây nam có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu Đế Tướng, vị thứ hai hiệu Phạm Tướng.
“Ở phương tây có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu A-di-đà, vị thứ hai hiệu Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não.
“Ở phương tây bắc có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu Đa-ma-la-bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai hiệu Tu-di tướng.
“Ở phương bắc có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu Vân Tự Tại, vị thứ hai hiệu Vân Tự Tại Vương.
“Ở phương đông bắc có một vị thành Phật hiệu Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy.
“Vị sa-di thứ mười sáu chính là ta, Phật Thích-ca Mâu-ni, ở thế giới Ta-bà này thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Này các tỳ-kheo! Khi 16 người chúng ta còn làm sa-di, mỗi người đều đã giáo hóa chúng sanh nhiều như số cát của vô số trăm ngàn muôn ức con sông Hằng. Những chúng sanh ấy đều theo chúng ta nghe thuyết pháp vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đến nay có những người đang ở địa vị Thanh văn, vẫn thường được ta giáo hóa bằng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những người này nên dùng pháp như thế để dần dần từng bước thể nhập Phật đạo. Vì sao vậy? Vì trí tuệ của Như Lai thật khó tin, khó hiểu.
“Những chúng sanh nhiều như số cát của vô số con sông Hằng được ta giáo hóa từ thuở ấy, chính là chúng tỳ-kheo các ông ngày nay, cùng với các đệ tử Thanh văn trong đời vị lai sau khi ta nhập diệt.
“Sau khi ta nhập diệt, lại có những đệ tử không được nghe kinh này, không hay không biết gì đến những công hạnh của hàng Bồ Tát. Những người ấy do nơi công đức đã đạt được mà tự sanh khởi ý tưởng cho rằng mình đã được diệt độ, sẽ nhập Niết-bàn. Khi ấy, ta làm Phật ở cõi nước ngoài ba cõi,[129] lại có danh hiệu khác. Những người ấy tuy khởi sanh ý tưởng diệt độ, đã nhập Niết-bàn Tiểu thừa, nhưng lại ở cõi nước ngoài ba cõi ấy cầu trí tuệ Phật, được nghe kinh này, liền biết rằng chỉ duy nhất Phật thừa mới được diệt độ, ngoài ra không có thừa nào khác, trừ ra trong pháp phương tiện mà các đức Như Lai thuyết giảng.
Phân đoạn thứ nhất lại có 2 ý. Ý thứ nhất nêu mối liên kết giữa [16 vị] thầy thuở xưa và thành tựu hiện nay của các vị. Ý thứ hai nêu sự tương hợp giữa chúng đệ tử thuở xưa cũng chính là chúng đệ tử ngày nay.
[Ý thứ nhất nêu rõ] 16 vị sa-di thuở xưa ngày nay là chư Phật trong 8 phương.
Ý thứ hai từ câu “Này các tỳ-kheo! Khi 16 người chúng ta còn làm sa-di, mỗi người đều đã…” trở đi, nêu sự tương hợp của chúng đệ tử, lại có 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất nói về chúng đệ tử hiện tại, tiểu ý thứ hai nêu việc tương lai.
Tiểu ý thứ nhất nói việc hiện tại lại có 4 điều. Thứ nhất là nói những người không thối chuyển, tức trụ yên [tu tập] Chánh giác. Thứ hai là nói trong số chúng sanh này có những người thối chuyển [tâm Bồ-đề] thì nay trụ ở hàng Thanh văn. Thứ ba, từ câu “Vì sao vậy?” trở đi, giải thích ý trụ yên hay thối chuyển. Thứ tư, từ câu “Những chúng sanh nhiều như số cát của vô số con sông Hằng được ta giáo hóa…” trở đi là tóm kết lại mối liên hệ giữa thuở xưa và ngày nay.
Tiểu ý thứ hai từ câu “Cùng với các đệ tử Thanh văn trong đời vị lai sau khi ta nhập diệt…” trở đi, nói về các đệ tử trong tương lai. Tiểu ý này lại có 2 điều. Thứ nhất là nói việc tương hợp [với chúng đệ tử thuở xưa]. Thứ hai, từ câu “sau khi ta nhập diệt, lại có…” là giải thích chỗ nghi.
Có người nghi ngờ rằng, những người trong hiện tại nghe Phật thuyết kinh Pháp hoa, được thể nhập đạo Nhất thừa, có thể nói là đã được kết duyên, còn những người trong tương lai, chưa được nghe kinh Pháp hoa mà đã nhập Niết-bàn [của Nhị thừa] rồi, làm sao có thể buông xả Tiểu thừa mà thể nhập Nhất thừa?
Giải thích rằng, [những người ấy] tuy đã nhập Niết-bàn [của Nhị thừa], nhưng cuối cùng rồi cũng được nghe [kinh Pháp hoa]. Kinh nói: “Ta làm Phật ở cõi nước ngoài ba cõi…” [cho đến] “những người ấy… được nghe kinh này.” “Cõi nước ngoài ba cõi”[130] tức là cõi hữu dư của ba thừa Thông giáo. “Trừ ra trong pháp phương tiện mà các đức Như Lai thuyết giảng”, đây là [giải thích để] dứt lòng nghi. Ba thừa chỉ là [chư Phật] phương tiện nói ra, chân thật vốn không có ba.
KINH VĂN
“Này các tỳ-kheo! Nếu đức Như Lai tự biết đã đến lúc nhập Niết-bàn, đại chúng lại thanh tịnh, có sự tin hiểu vững chắc, rõ biết thấu triệt pháp không, thể nhập sâu vào thiền định, ngài liền triệu tập các vị Bồ Tát và chúng Thanh văn để thuyết giảng kinh này, nói rõ trong thế gian không có hai thừa được diệt độ, chỉ duy nhất một Phật thừa đạt được diệt độ mà thôi.
“Các tỳ-kheo nên biết! Đức Như Lai dùng phương tiện thể nhập sâu vào tâm tánh của chúng sanh, rõ biết tâm chí họ ưa thích pháp Tiểu thừa, bám chấp sâu nặng năm món dục,[131] nên vì những người này mà thuyết dạy Niết-bàn Tiểu thừa. Những người ấy nếu được nghe liền tin nhận.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Này các tỳ-kheo! Nếu đức Như Lai…” trở đi, nêu việc ngày nay lại thuyết giảng kinh Pháp hoa. Phân đoạn này lại có 3 ý. Thứ nhất là nói thời điểm đại chúng thanh tịnh; thứ hai là nêu việc thuyết giảng kinh Pháp hoa; thứ ba là giải thích ý nghĩa trước đây thiết lập ba thừa.
[Ý thứ nhất,] “đến lúc nhập Niết-bàn”, là nói chư Phật ra đời giáo hóa chánh đạo, lúc sắp hoàn tất đều thuyết giảng kinh này, như Phật Ca-diếp, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh v.v. Khi chư Phật thuyết giảng kinh này xong liền nhập Niết-bàn. Đức Phật Thích-ca thuyết giảng kinh Pháp hoa xong, cũng noi theo đó mà tuyên bố sắp nhập Niết-bàn.
“Đại chúng lại thanh tịnh”, tức là nói về đoạn đức. “Sự tin hiểu vững chắc”, tin là nói 4 niềm tin không thể phá hoại;[132] hiểu tức là hiểu biết chân chánh pháp vô lậu, thấu triệt rõ ràng các chân đế, đầy đủ các pháp thiền định. Đây tức là thiết lập đủ trí đức và đoạn đức. Lúc bấy giờ đủ sức nhận lãnh lời dạy về đạo Đại thừa, được nghe rồi liền tin nhận.
Lại nữa, nói “đại chúng lại thanh tịnh” là nghĩa được sự lợi ích từ giáo pháp Tam tạng, đã miễn trừ được các khổ nạn; “sự tin hiểu kiên cố” là nghĩa trong lòng đã có sự tin cậy đối với giáo pháp Phương đẳng; “rõ biết thấu triệt pháp không”, là nghe thuyết giảng giáo pháp Bát-nhã nên ở trong pháp không tâm được thấu triệt. Đây tức là ý nghĩa chuyển đổi giáo pháp.
Ý thứ hai từ câu “liền triệu tập các vị Bồ Tát…”, nêu việc thuyết giảng kinh Pháp hoa. “Triệu tập các vị Bồ Tát” là tụ hội những người trong thân tộc…, tức là để thuyết giảng kinh này. Phần trước có giải thích “thân tộc” là các vị pháp thân đại sĩ, là thuộc chúng ảnh hưởng,[133] dùng đoạn kinh văn này để suy nghiệm ý nghĩa đó thì rất sáng tỏ. [So với thí dụ trong phẩm Tin hiểu thì] “triệu tập các vị Bồ Tát” là “tụ hội thân tộc”, “và chúng Thanh văn” tức là “gọi người con đến”.
Ý thứ ba từ câu “Các tỳ-kheo nên biết! Đức Như Lai dùng phương tiện…” trở đi là giải thích ý nghĩa thiết lập ba thừa. Nếu như ở thế gian không có hai thừa đều được diệt độ thì vì sao đức Như Lai trước đây thuyết dạy giáo pháp quyền biến? Giải thích rằng, nên biết đó là phương tiện của đức Như Lai, vì rõ biết sâu xa chúng sanh có sự ưa thích pháp Tiểu thừa, bám chấp 5 trần cảnh, chìm đắm trong 5 sự uế trược, cho nên trước đây thuyết dạy ba thừa để giúp cho chúng sanh phá sự mê đắm, trừ các khổ nạn, sau đó mới thuyết dạy Nhất thừa.
KINH VĂN
“Ví như có con đường nhiều nguy hiểm, dài năm trăm do-tuần, hoang vắng không người, thật rất đáng sợ. Có rất nhiều người muốn vượt qua con đường ấy để đến nơi có nhiều châu báu quý giá. Có một vị thầy dẫn đường thông minh sáng suốt, biết rõ trên con đường nguy hiểm này có những chỗ nào thông suốt, những chỗ nào tắt nghẽn, hướng dẫn mọi người vượt qua con đường khó khăn này.
“Những người được dẫn đi ấy, đến giữa đường thì nản lòng, thưa với vị thầy: ‘Chúng tôi mệt mỏi quá rồi, lại thêm sợ hãi, không thể nào đi tiếp được nữa. Đường phía trước vẫn còn xa, nay chúng tôi muốn quay lại.’
“Vị thầy dẫn đường vốn có nhiều phương tiện, nghĩ rằng: ‘Những người này thật đáng thương, vì sao lại từ bỏ châu báu quý giá mà muốn quay trở lại?’ Nghĩ như vậy rồi liền dùng sức phương tiện biến hóa ra một tòa thành ở khoảng giữa con đường nguy hiểm đó, cách đầu đường 300 do-tuần, rồi nói với mọi người: ‘Các người đừng sợ hãi, đừng quay trở lại. Nay có tòa thành lớn kia, có thể nghỉ ngơi trong đó, tùy ý muốn làm gì cũng được. Nếu vào thành ấy sẽ được vui thích an ổn, rồi nếu muốn đi tiếp đến chỗ có châu báu thì cũng có thể rời đi.’
“Bấy giờ, những người mệt mỏi kia hết sức vui mừng, ngợi khen là chưa từng có: ‘Chúng ta nay đã thoát khỏi con đường nguy hiểm này, được vui thích an ổn.’
“Liền đó mọi người đi tới để vào tòa thành biến hóa, khởi sanh ý tưởng rằng mình đã qua hết con đường, rằng đã được an ổn.
Đoạn thứ hai từ câu “Ví như có con đường nhiều nguy hiểm, dài năm trăm do-tuần…” là nêu ra thí dụ. [Đoạn này có 2 tiểu đoạn.] Tiểu đoạn thứ nhất nêu thí dụ, tiểu đoạn thứ hai nói nghĩa tương hợp của thí dụ.
Tiểu đoạn thứ nhất nêu thí dụ lại chia làm 2 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất nêu thí dụ có bậc thầy dẫn đường, đây là ví với phần trước nói việc [16 vị sa-di] giảng lại kinh [Pháp hoa] kết duyên Đại thừa [với đại chúng], tức là dựa theo phần lược tụng trong phẩm Phương tiện và thí dụ tổng quát về ngôi nhà đang bốc cháy [trong phẩm Thí dụ].
Phân đoạn thứ hai nêu thí dụ vị thầy sẽ dẫn đường, đây là ví với phần trước nói trong khoảng thời gian từ thuở xưa đến nay [16 vị Bồ Tát thuyết giảng kinh và thính chúng] vẫn thường gặp lại nhau, cho đến ngày nay lại thuyết giảng kinh Pháp hoa. Nếu là những người trong khoảng thời gian ở giữa đó gặp lại thầy, nghe thuyết pháp đều là vì cầu quả Chánh giác, thì không vì những người ấy mà nêu thí dụ. Nếu là những người trong khoảng thời gian ở giữa đó gặp lại mà “nay có những người đang ở địa vị Thanh văn” thì chính là vì những người này mới nêu ra thí dụ thứ hai, tức là dựa theo phần kệ tụng mở rộng trong phẩm Phương tiện và thí dụ cụ thể về ngôi nhà đang bốc cháy [trong phẩm Thí dụ].
Phân đoạn thứ nhất nêu thí dụ bậc thầy dẫn đường lại có 5 ý, tức là dựa theo 6 ý trong thí dụ tổng quát về ngôi nhà đang bốc cháy [trong phẩm Thí dụ] và phần lược tụng trong phẩm Phương tiện.
Ý thứ nhất nêu thí dụ “con đường dài năm trăm do-tuần” là ví với phần trước nói về đại chúng chưa được hóa độ, ưa thích đắm chấp trong các cảnh giới luân hồi, tức là dựa theo thí dụ tổng quát nói căn nhà rộng lớn đang bốc cháy [trong phẩm Thí dụ], ví như ba cõi không được an ổn, là ý trong phẩm Phương tiện nêu sự an ổn để đối lại với không an ổn.
Ý thứ hai nêu thí dụ về “con đường nhiều nguy hiểm… rất đáng sợ” là ví với phần trước nói về đại chúng chưa được hóa độ, phiền não uế nhiễm sâu nặng, đối với trí tuệ của đức Như Lai rất khó tin nhận, rất khó hiểu được, tức là dựa theo thí dụ lửa bốc lên bên trong căn nhà đang cháy [trong phẩm Thí dụ] và trong phẩm Phương tiện nói pháp an ổn để đối lại với sự không an ổn.
Ý thứ ba nêu thí dụ “có rất đông người” là ví với phần trước nói có trăm ngàn muôn ức loài chúng sanh đều sanh tâm nghi ngờ hoặc không hiểu được, tức là dựa theo thí dụ trong căn nhà đang bốc cháy có 30 đứa con và 500 người [trong phẩm Thí dụ] và trong phẩm Phương tiện nói [Như Lai] rõ biết chỗ tham muốn trong tâm tánh của chúng sanh.
Ý thứ tư nêu thí dụ “muốn vượt qua con đường ấy để đến nơi có nhiều châu báu quý giá”. Các nhà cựu giải không xem đây là một thí dụ riêng, nhưng nay cho rằng thí dụ này là ví với phần trước nói việc [16 vị sa-di] giảng lại kinh Pháp hoa, tức là dựa theo phẩm Thí dụ Cỏ thuốc nói nước mưa chỉ có một vị, thí dụ căn nhà đang bốc cháy chỉ có duy nhất một cửa thoát ra [trong phẩm Thí dụ] và phẩm Phương tiện nói ý tuyên giảng chỉ bày Phật đạo.
Ý thứ năm nêu thí dụ “có một vị thầy dẫn đường”, ví với phần trước nói về vị vương tử thứ 16, tức là như trong phẩm Thí dụ Cỏ thuốc nói đến vầng mây đen dày, như thí dụ ông trưởng giả với căn nhà đang bốc cháy [trong phẩm Thí dụ] và phẩm Phương tiện nói ý “đức Như Lai cũng giống như vậy”.
Hỏi: Trong các thí dụ ở phần này, vì sao không có những ý như “cha con thất lạc nhau” [trong phẩm Tin hiểu], hoặc “ông trưởng giả không hề nói dối” [trong phẩm Thí dụ]?
Đáp: Thông thường việc nêu ra các thí dụ đều có khuynh hướng thuận theo ý nghĩa. Các phần trước lấy nghĩa tùy cơ ứng cảm hoặc có hoặc không, cho nên nói thí dụ “cha con thất lạc nhau”, rồi “cha con gặp lại nhau”. Nếu lấy nghĩa cảm ứng tức thời theo cơ duyên thì mới nói thí dụ “hốt hoảng vào căn nhà đang cháy”. Trong phần này nói thí dụ “[vị thầy dẫn đường] hướng dẫn mọi người”, ứng với nghĩa “đời đời thường gặp nhau” trong kinh văn phần trước, làm sao có thể nói nghĩa “thất lạc nhau”; [kinh văn nói] trước đây đã từng kết duyên từ rất lâu, làm sao có thể nói nghĩa “cảm ứng tức thời”? Vì những nghĩa này nên không nêu ra thí dụ [tương ứng với những nghĩa] như “cha con thất lạc nhau” hoặc “hốt hoảng vào nhà đang cháy”, như vậy thì ý nghĩa mới thông suốt.
Hỏi: Vì sao không nêu ra thí dụ [ứng với nghĩa] “không hư dối”?
Đáp: Từ trước đến đây đã có 22 lần nói việc trừ bỏ pháp quyền thừa, hiển bày pháp chân thật,[134] nên ý nghĩa này đã rất rõ ràng. Nói nghĩa “không hư dối” vốn là muốn khuyến khích niềm tin, niềm tin hạ căn không lâu dài nên không cần [nêu ví dụ này].
Về ý thứ nhất “con đường dài 500 do-tuần”, Cơ sư giải thích rằng, phiền não kết sử trong ba cõi là số 300, [cộng với] những tập khí hàng Bồ Tát Thất địa dứt trừ được thành 400, [cộng với] sự vô minh mà hàng Bồ Tát Bát địa trở lên phá trừ được là 500. Nay cho rằng giải thích như vậy chẳng phải nghĩa theo Biệt giáo, cũng chẳng phải nghĩa theo ba thừa Thông giáo. Lại có người nói rằng: Trong 4 loại sanh tử là sanh tử nổi trôi, sanh tử biến dịch, sanh tử trung gian, sanh tử phần đoạn,[135] chỉ tính 3 loại mở rộng ra thành số 500, không tính đến sanh tử nổi trôi. Vì sanh tử nổi trôi là dạng thức sơ khai của mọi chúng sanh có tình thức, trở ngược về nguồn cội ban đầu cho nên không tính đến.
Có người chất vấn điều này, dẫn kinh Thắng Man nói rằng: “Nhân có 5, quả có 2.” Quả có 2 là nói quả sanh tử phần đoạn và sanh tử biến dịch. Nhân có 5 là nói 5 trụ địa phiền não.[136] Nói về quả đã đặc biệt mở rộng thêm [2 loại] sanh tử nổi trôi với sanh tử trung gian, vậy nói về nhân lẽ ra cũng nên mở rộng nhiều hơn 5 trụ địa phiền não. [Lập luận này] không có căn cứ nên không thể vận dụng.
Luận Đại Trí độ nói rõ Bồ Tát nhục thân là sanh tử phần đoạn, Bồ Tát pháp thân là sanh tử biến dịch. Lại nói rằng, vị A-la-hán xả bỏ báo thân trong 3 cõi thì thọ thân pháp tánh, cho nên biết là sanh tử có 2 loại.
Có người nói rằng, 300 do-tuần là ví cho 3 cõi, 400 do-tuần ví cho [hàng Bồ Tát] thất địa, như 2 cõi nước ở khoảng giữa khó vượt qua, 500 do-tuần ví cho hàng Bồ Tát bát địa trở lên. Những người chất vấn lập luận này thì nói: “Nếu 400 do-tuần ví cho hàng Bồ Tát thất địa thì lẽ ra 300 do-tuần phải ví cho hàng Bồ Tát lục địa, vì Bồ Tát lục địa với hàng Nhị thừa công phu tu tập như nhau.” Hàng Nhị thừa tu tập lâu dài nhất cũng chỉ đến 60 kiếp, hoặc 100 kiếp, trong khi Bồ Tát tu tập đến giai vị lục địa là 22 đại tăng-kỳ kiếp. Hàng Nhị thừa đối với con đường tu tập Phật đạo còn loanh quanh qua lại, công phu không thể ngang bằng [với hàng Bồ Tát]. Nay cho rằng đây không phải nghĩa của Biệt giáo, cũng không phải nghĩa theo Thông giáo.
Có người nói rằng: “[Vượt qua] ba cõi là 300 do-tuần, hàng Bồ Tát thất trụ và Nhị thừa là 400 do-tuần, từ hàng Bồ Tát thất trụ trở lên là 500 do-tuần.” Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Từ sơ quả phải trải qua 80.000 kiếp mới đạt đến tâm Bồ-đề.” Ba hạng căn cơ[137] đạt đến chỗ này liền trình bày nhận hiểu; 5 hạng hành giả[138] đến nơi này gọi là vượt qua 500 do-tuần. [Kinh văn] ở đây lấy theo người trì độn, chậm chạp nhất mà nói, cho nên phải đến 80.000 kiếp; người nhanh nhạy thì không cần đến thời gian quá lâu như vậy, như những trường hợp chứng đắc 4 thánh quả vào thời Phật tại thế. Nếu những người khi được nghe kinh Pháp hoa đều phát tâm [Bồ-đề] thì đâu cần phải đến 80.000 kiếp.
Có người chất vấn rằng, kinh nói vượt qua 300 do-tuần, thiết lập [hóa thành là] địa vị của Nhị thừa, đâu phải là hóa độ cho cả 3 hạng căn cơ? Nếu 5 hạng hành giả cùng phát tâm Bồ-đề thì gọi là vượt qua 500 do-tuần.
Chỗ này cùng một ý nghĩa với kinh Đại Bát Niết-bàn. Nói rằng 5 hạng hành giả cùng phát tâm là lìa 5 quả vị, đó không phải ý kinh ở chỗ này. Ý kinh ở đây nêu rõ ở khoảng 300 do-tuần lập hóa thành là pháp quyền thừa hóa độ; vượt 500 do-tuần đến nơi có nhiều châu báu quý giá, gọi là chân thật hóa độ, từ bỏ hóa thành tiến đến nơi có nhiều châu báu. Nếu nói 5 hạng hành giả đều vượt qua, đều tiến đến, thì đó là không hiểu được ý nghĩa của thí dụ hóa thành.
Có người nói rằng: Ba cõi là trong vòng 300 do-tuần; hàng Thanh văn là đến 400 do-tuần; quả vị Duyên giác là vượt qua 500 do-tuần. Phàm phu bị che chướng trong ba cõi; hàng Nhị thừa bị che chướng bởi Niết-bàn, đều chưa dứt được hai kiến chấp: chấp có và chấp không. Kinh Hoa nghiêm nói: “Cây thuốc không sanh nơi chỗ nước sâu hoặc hầm lửa.” Hầm lửa tức là 3 cõi, nước sâu là chỉ Nhị thừa. Ba cõi là lao ngục của Nhị thừa, Nhị thừa là lao ngục của Bồ Tát. Hơn nữa, phúc đức và trí tuệ nếu nghiêng về một bên[139] thì không thể tự mình thực hành, không thể giáo hóa người khác. Đại phẩm [Bát-nhã] nêu 400 do-tuần, hợp với Nhị thừa là 100 do-tuần, Pháp hoa khai mở thành 500 do-tuần. Đại phẩm nói Bồ Tát vượt qua cả hai giai vị phàm thánh, chưa nêu Nhị thừa là pháp quyền, không có ý nghĩa hóa thành. Đã chưa luận về “hóa thành” hẳn cũng chưa nêu “bảo sở”.
Đáp rằng, Đại phẩm [Bát-nhã] hiển bày pháp chân thật, cho nên đã biện rõ “bảo sở”, chỉ vì chưa trừ bỏ pháp quyền nên chẳng nêu “hóa thành”.
Kinh văn phần sau nói, vì muốn tạo ra chỗ tạm dừng nghỉ cho nên nói có 2 loại Niết-bàn. Đây là khiến cho vượt qua 300 do-tuần. Lại nói “chỗ an trụ của các ông đã gần đến được trí tuệ Phật”, là khiến vượt ra khỏi 200 do-tuần nữa. Kinh văn rất rõ ràng, không phải nhọc công nghi hoặc.
Lại cũng nêu rõ Nhị thừa có 6 nghĩa tương đồng và 10 nghĩa khác biệt.[140] [Sáu nghĩa tương đồng là:]
- Thứ nhất, đồng thoát ra ngoài ba cõi;
- Thứ hai, đồng chứng tận [trí] và vô sanh [trí];
- Thứ ba, đồng dứt hết phiền não;
- Thứ tư, đồng chứng đạt Niết-bàn hữu dư, vô dư;
- Thứ năm, đồng đạt nhất thiết trí;[141]
- Thứ sáu, đồng một danh xưng là Tiểu thừa.
- Do những tương đồng như trên nên hợp làm một hóa thành.
Nghĩa khác biệt mở ra có 10 nghĩa:
- Thứ nhất, tu hành gieo nhân đã lâu xa hoặc gần đây, như 60 kiếp hoặc 100 kiếp.
- Thứ hai, [Duyên giác] căn cơ nhanh nhạy, [Thanh văn] căn cơ trì độn hơn.
- Thứ ba, [Thanh văn] theo thầy được khai ngộ, [Duyên giác] riêng mình tự ngộ.
- Thứ tư, đều không còn lo buồn nhưng [Duyên giác như] xe hươu, [Thanh văn như] xe dê.
- Thứ năm, [Duyên giác duyên nơi] hình tướng [mà đạt ngộ], [Thanh văn duyên nơi giáo pháp được nghe mà đạt ngộ,] không nhờ duyên nơi hình tướng.
- Thứ sáu, [Thanh văn] quán lược [bốn chân đế], Duyên giác quán rộng [12 nhân duyên].
- Thứ bảy, [Thanh văn] có thể thuyết pháp [giúp người khác] chứng bốn quả thánh, [Duyên giác thậm chí] không thể thuyết pháp [giúp người khác] đạt noãn pháp.[142]
- Thứ tám, [Thanh văn] gặp Phật ra đời, [Duyên giác] không gặp Phật ra đời.
- Thứ chín, [Duyên giác] tu chứng nhanh chóng tức thời, [Thanh văn] tu chứng chậm chạp dần dần.
- Thứ mười, [Duyên giác] phần nhiều hiển lộ thần thông, ít thuyết pháp; Thanh văn không nhất định.
Trong thí dụ căn nhà đang cháy nêu 3 loại xe, nay trong thí dụ này là 200 do-tuần.[143] Ba hạng căn cơ đều ở trong căn nhà [ba cõi] bị lửa thiêu đốt. Ba hạng căn cơ đều mong cầu ra khỏi nên ví với 3 loại xe. Đối với con đường thành Phật xa xôi lâu dài thì cảnh giới Nhị thừa là đường xấu ác, cho nên nói còn 200 do-tuần cần phải lìa khỏi vượt qua. Phật thừa không phải là chướng ngại, cho nên chỉ nêu 200 do-tuần [này thôi].
[Hỏi:] Vì sao đối với phàm phu nói trừ bỏ ba, [ví như 300 do-tuần], đối với bậc thánh [Nhị thừa] nói trừ bỏ hai, [ví như 200 do-tuần]?
[Đáp:] Đây là cách nói để dẫn dắt sách tấn mà thôi. Chúng sanh được hóa độ [lên hàng Nhị thừa] còn ít, chúng sanh chưa được hóa độ [ở hàng phàm phu] thì nhiều.
[Hỏi:] Nếu vậy thì chưa trọn thành nghĩa rốt ráo?
[Đáp:] Con đường tu hành thành Phật tuy dài xa như đi qua muôn dặm, nhưng chỉ có 500 do-tuần [đầu tiên] là khó khăn, đoạn còn lại đều dễ dàng.
Hỏi: Nói 200 do-tuần là ví như khó khăn của hàng Nhị thừa; nói ba cõi [như 300 do-tuần] là khó khăn của hàng phàm phu. Vậy Bồ Tát có khó khăn chăng?
[Đáp:] Bồ Tát không xem [ba cõi như] nhà đang cháy là khó khăn, cho nên không mong cầu được xe mà vẫn thoát ra. [Hàng Nhị thừa] đã do mong cầu được xe nên mới thoát ra thì làm sao không bị chướng ngại bởi 200 do-tuần? Đại lược là như vậy.
Luận Đại [Trí độ], quyển 66 nói: “[Trong ví dụ này,] con đường nguy hiểm là chỉ cho hết thảy thế gian. Trong vòng 100 do-tuần là chúng sanh cõi Dục, 200 do-tuần là chúng sanh cõi Sắc, 300 do-tuần là chúng sanh cõi Vô sắc, 400 do-tuần là hàng Nhị thừa.” Nếu tính ngược lại thì còn phải đi 100 do-tuần là hàng Nhị thừa, còn 200 do-tuần là chúng sanh cõi Vô sắc, còn 300 do-tuần là chúng sanh cõi Sắc, còn 400 do-tuần là chúng sanh cõi Dục. Kinh này nêu rõ, vượt qua 500 do-tuần là Bồ Tát đạo, nếu hơn 500 do-tuần tức là thể nhập Phật đạo. Đại lược là như thế.
Các bậc thầy và kinh luận giải thích khác nhau như đã nêu trên. Nay dựa theo chính kinh này để phán xét, còn chịu quả báo trong ba cõi là [phạm vi] 300 do-tuần, cõi nước ngoài ba cõi là 400 do-tuần, cõi Thật báo là 500 do-tuần. Kinh văn phần sau nêu sự tương hợp với các thí dụ nói “biết rõ con đường sanh tử”. Sanh tử rõ ràng là chỉ nơi chốn, nhưng chỉ vì ý Phật khó nhận hiểu nên cần giảng rộng. Kiến hoặc là 100 do-tuần, 5 hạ kết[144] phân ra 200 do-tuần, 5 thượng kết[145] phân ra 300 do-tuần, trần sa hoặc là 400 do-tuần, vô minh hoặc là 500 do-tuần.
Kinh văn phần sau nêu sự tương hợp các thí dụ nói về phiền não như con đường “xấu ác đầy khó khăn nguy hiểm”, ý nghĩa tương đồng, phù hợp.
[Hành giả] nhập không quán có thể vượt qua 300 do-tuần, nhập giả quán có thể vượt qua 400 do-tuần, nhập trung quán có thể vượt qua 500 do-tuần.
Kinh văn phần sau nêu sự tương hợp với các thí dụ nói “biết rõ trên con đường nguy hiểm này có những chỗ nào thông suốt, những chỗ nào tắt nghẽn”, tức là cùng lúc rõ biết 2 loại nhân quả, ý nghĩa 500 do-tuần là tương ứng, phù hợp.
Ý thứ hai nói về “con đường nhiều nguy hiểm… …rất đáng sợ”, đây là ví cho nhân quả sanh tử. Phần đoạn và biến dịch là quả hiểm nạn, kiến hoặc với tư hoặc, 5 trụ địa phiền não[146] là nhân hiểm nạn. Do nhân và quả này cho nên nói là “đường nhiều nguy hiểm”. “Hoang vắng không người”, là nói đường đi có 2 loại, thứ nhất là xa xôi vắng vẻ nhưng có người để noi theo, thứ hai là [hoang vắng] không có người để noi theo. Đây là ví như trong sanh tử có Niết-bàn, trong phiền não có Bồ-đề, tuy là xa xôi vắng vẻ nhưng còn có người để noi theo. Nếu trong sanh tử không có Niết-bàn, trong phiền não không có Bồ-đề, như trong thuốc không có bệnh, trong bệnh không có thuốc, đó chính là “hoang vắng không người”, không có người để noi theo.
Ý thứ ba nói “có rất đông người”. Đây là ví cho những chúng sanh được các vị vương tử giáo hóa nhưng chưa được độ thoát.
Ý thứ tư nói “muốn vượt qua con đường nguy hiểm này”. Vì cầu đạt đến quả giác ngộ viên mãn[147] nên nói là “đến nơi có nhiều châu báu quý giá”.
Ý thứ năm nói “có một vị thầy dẫn đường”, tức là chỉ vị vương tử thứ 16. Mắt, tai thanh tịnh gọi là “thông minh”, ý thanh tịnh gọi là “sáng suốt”, nói chung là nghĩa 6 căn đều thanh tịnh. [Vị thầy dẫn đường có] trí, đây tức là “một tâm ba trí”.[148] Nói “sáng suốt” tức là đầy đủ 5 loại mắt.[149] Lại nữa, đủ ba minh[150] là sáng suốt, đủ mười lực[151] là thấu đạt.
Từ câu “hướng dẫn mọi người vượt qua con đường khó khăn này” trở đi là phân đoạn thứ hai, nêu thí dụ “dẫn đường”. Thí dụ này ý nghĩa tương đồng với sự vận dụng phương tiện cụ thể trong thí dụ căn nhà đang cháy [ở phẩm Thí dụ]. Nói chung, phần kinh văn này có 3 ý.
Ý thứ nhất nêu thí dụ “dẫn dắt đông người”, ví cho việc thuở xưa vốn đã kết duyên với những người chưa được độ, duyên xưa chẳng mất đi nên nay được gặp thầy dẫn dắt. Thí dụ này tương đồng với trong phẩm Thí dụ ở trước nói khi căn nhà bốc cháy, ông trưởng giả nhìn thấy lửa thì kinh sợ, cũng tương đồng với trong phẩm Phương tiện [đức Phật] nhìn thấy [thế gian với] 5 sự uế trược mà khởi tâm đại bi.
Ý thứ hai nêu thí dụ “giữa đường nản chí thối lui”, ví cho việc ở phần trên nói trong khoảng thời gian ở giữa [thầy trò] gặp lại nhau, có những người thối tâm Đại thừa, vị thầy liền dùng Tiểu thừa dẫn dắt. Thí dụ này tương đồng với trong thí dụ căn nhà bốc cháy [trong phẩm Thí dụ], [ông trưởng giả] không dùng đến thân mạnh tay khỏe mà [dẫn dụ bằng cách] khen ngợi 3 loại xe là hiếm có, cũng tương đồng với trong phẩm Phương tiện nói ý nghĩa Phật dừng việc giáo hóa bằng Đại thừa, nghĩ đến việc vận dụng phương tiện.
KINH VĂN
Khi ấy, vị thầy dẫn đường biết mọi người đều đã được nghỉ ngơi, không còn quá mệt mỏi nữa, liền làm cho tòa thành biến mất rồi nói với mọi người: ‘Các người nên đi tới nữa, chỗ có châu báu cũng gần đây. Tòa thành lúc nãy chỉ là do ta biến hóa ra để các người tạm nghỉ ngơi mà thôi.’
Ý thứ ba từ câu “Khi ấy, vị thầy dẫn đường biết mọi người đều đã được nghỉ ngơi…” trở đi, nêu thí dụ “diệt hóa thành dẫn đến bảo sở”, ví cho việc ở phần trên nói “rồi lại vì họ thuyết kinh Pháp hoa”, “liền triệu tập các vị Bồ Tát và chúng Thanh văn để thuyết giảng kinh này”. Thí dụ này tương đồng với thí dụ căn nhà đang cháy [trong phẩm Thí dụ nói việc] ông trưởng giả ban cho các con cùng một loại xe lớn, cũng tương đồng với trong phẩm Phương tiện nói ý “Chính thức bỏ phương tiện, chỉ thuyết đạo Vô thượng.”
Phần phân chia kinh văn đã xong, tiếp theo đây là phần giải thích.
Về ý thứ nhất nói “dẫn dắt đông người”, theo nghĩa chung là chỉ cho đại chúng đã từng kết duyên [với Phật]. Nếu xét theo nghĩa riêng thì những người thuở xưa nhận được sự lợi ích của Đại thừa, xem như việc dẫn dắt đã xong. Những người chưa được sự lợi ích của Đại thừa mới chính là những người ngày nay được dẫn dắt. Nếu dựa theo [trong phẩm Thí dụ thì đó là] 500 người [trong căn nhà bốc cháy] và 30 người con [của ông trưởng giả], chính là những người chưa được khai ngộ.
Về ý thứ hai “giữa đường nản chí thối lui”, tức là thí dụ thứ hai. Kinh văn lại có 2 tiểu ý, thứ nhất là thối tâm Đại thừa, thứ hai là được dẫn dắt bằng Tiểu thừa. “Thối tâm Đại thừa” là noi theo phần trước nói dừng việc giáo hóa Nhất thừa, “dẫn dắt bằng Tiểu thừa” là noi theo phần trước nói thiết lập ba thừa.
Tiểu ý thứ nhất nói “thối tâm Đại thừa” lại có 3 điều. Thứ nhất nói “giữa đường nản chí thối lui”, tức là noi theo phần trước nói không có cơ duyên Đại thừa. Thứ hai là “thưa với vị thầy”, tức là noi theo phần trước nói “chúng sanh không nhận lời khuyên bảo khuyến khích”. Nói rằng “chúng tôi mệt mỏi quá rồi” tức là không nhận lời khuyên bảo khuyến khích, nói “lại thêm sợ hãi” tức là không nhận lời khuyên răn. Thứ ba là “không thể nào đi tiếp được nữa”, tức là noi theo phần trước nói “dừng việc giáo hóa”.
Phần phân chia kinh văn [của tiểu ý thứ nhất] đã xong, tiếp theo đây là phần giải thích [các điều].
£ Điều thứ nhất nói “giữa đường”, không phải là đến một nửa đường gọi là “giữa đường”, mà chỉ lấy lúc phát tâm là đầu tiên, cho đến khi thành Phật là cuối cùng, giữa hai thời điểm này khởi lên ý thối lui cho nên gọi là “giữa đường”.
£ Điều thứ hai nói “thưa với vị thầy”, là nghĩa tự mình có vị đạo sư từ bi thông thạo đường lối. Như trong kinh văn nói “có một vị thầy dẫn đường thông minh sáng suốt, hướng dẫn mọi người vượt qua con đường khó khăn” chính là ý này.
- Tự mình sẵn có vị đạo sư đã kết duyên từ trước. Như trong kinh văn nói “những người được dẫn đi ấy, đến giữa đường thì nản lòng, thưa với vị thầy…” chính là ý này.
- Tự mình có vị đạo sư với trí tuệ quyền biến. Như kinh văn nói “vị thầy dẫn đường vốn có nhiều phương tiện” chính là ý này.
- Tự mình có vị đạo sư với trí tuệ chân thật. Như kinh văn nói “vị thầy dẫn đường biết mọi người đều đã được nghỉ ngơi…” chính là ý này.
Nay nói “thưa với vị thầy” chính là nói thưa với vị thầy kết duyên. Vì những người ấy thối tâm Đại thừa tức là pháp Đại thừa mất đi, được dẫn dắt bằng Tiểu thừa tức là pháp Tiểu thừa khởi sanh. Một pháp sanh một pháp diệt, chiêu cảm nơi pháp thân nên gọi là “thưa với”. Vị vương tử [thứ 16] rõ biết sự thối tâm Đại thừa của những người này, tức là nghe được lời thưa của họ. Căn lành nhỏ yếu lại bị vô minh che lấp, cho nên nói là “mệt mỏi quá rồi”; kinh sợ sanh tử cho nên nói là “lại thêm sợ hãi”.
£ Điều thứ ba nói “không thể nào đi tiếp được nữa”. Nói “đường phía trước vẫn còn xa” nghĩa là kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc khó có thể tức thời đoạn dứt. Nhưng dùng pháp Tiểu thừa để dẫn dắt, không để cho phải quay lại chốn cũ thì cũng có nghĩa là đi tiếp.
Tiểu ý thứ hai từ câu “Vị thầy dẫn đường vốn có nhiều phương tiện…” trở đi, nói nghĩa dùng pháp Tiểu thừa để dẫn dắt. Phần trước trong thí dụ căn nhà đang cháy [ở phẩm Thí dụ] và trong phẩm Phương tiện nói việc mở bày giáo pháp ba thừa pháp, đều có 4 ý. Trong tiểu ý này cũng có đủ 4 điều.
- Thứ nhất nói “có nhiều phương tiện” là nghĩa dự tính [sự giáo hóa] thích hợp.
- Thứ hai từ câu “vị thầy… nghĩ rằng” trở đi, xót thương những người này bỏ mất “châu báu quý giá”, ví cho việc chỉ biết có Tiểu thừa mà chẳng biết còn có Đại thừa.
- Thứ ba từ câu “Nghĩ như vậy rồi…” trở đi, nói việc “biến hóa ra một tòa thành”, là ví cho việc chính thức dùng phương tiện [dắt dẫn].
- Thứ tư từ câu “Bấy giờ, những người mệt mỏi kia...” trở đi, nói việc mọi người vào thành, ví cho sự chứng ngộ thể nhập ba thừa.
Hai điều thứ nhất và thứ hai có thể y theo kinh văn mà hiểu được. Điều thứ ba nói việc tạo ra hóa thành lại chia làm hai. Trước là biến hóa tạo ra, sau là nói về sự biến hóa.
Từ câu “dùng sức phương tiện…” trở đi là nói biến hóa tạo ra. Từ câu “rồi nói với mọi người” trở đi là nói về sự biến hóa đó.
Phần trước trong thí dụ cho xe, [ông trưởng giả] nói rằng: “Ta vì các con mà tạo ra những xe này.” Nay tòa thành là pháp có, cho nên trước tiên phải tạo ra.
Nói thí dụ hóa thành là noi theo các nghĩa ở phần trước gồm khuyến chuyển, thị chuyển và chứng chuyển. “Các người đừng sợ hãi, đừng quay trở lại”, đó là khuyến chuyển, làm cho tiến tới phía trước mà vào thành. “Nay có tòa thành lớn kia, có thể nghỉ ngơi trong đó, tùy ý muốn làm gì cũng được.” Đây chính là thị chuyển, nói thành này “có thể nghỉ ngơi trong đó”. “Nếu vào thành ấy sẽ được vui thích an ổn.” Đây chính là chứng chuyển, ngợi khen xưng tán sự an ổn trong thành.
“Nếu muốn đi tiếp đến chỗ có châu báu thì cũng có thể rời đi”, đây là nói trong Tạng giáo chưa bàn đến việc tu tiến hơn nữa.
Có thuyết giải thích rằng, đây là lời nói trong thời thuyết giáo pháp ba thừa, ý nói nếu phát tâm Đại thừa cầu thành Phật thì tốt, nhưng nếu như không thể được vậy thì ở hàng Nhị thừa cũng tốt.
Theo như trong kinh Thắng Man thì ngay cả nghiệp ban sơ của ba thừa cũng không ngu muội không biết pháp [Đại thừa], thảy đều tự rõ biết mình có thể thành Phật, chỉ do quá chán sợ [sanh tử] không kham chịu nổi cho nên mới chọn sự tịch diệt vĩnh viễn. Nếu giải thích như trên thì thành Biệt giáo.
Lại có thuyết nói rằng, [dụng ý là] khiến cho vào hóa thành, rồi sau đó lại đi tiếp về phía trước. Trong Đại phẩm [Bát-nhã] và kinh Tịnh Danh đều có ý này. Đây chính là ý nghĩa dùng Biệt giáo dẫn tiếp Thông giáo.
Tuy nhiên ở đây là thời gian trước khi Phật còn chưa khai thị trừ bỏ [ba thừa], hiển bày [nhất thừa], chưa đủ sáng tỏ để hiểu theo ý này. Nếu như bàn về đời quá khứ thì mới có thể nói như vậy. Vì sao? Vì [khi ấy] đã rõ ràng biết được tâm ý thối thất Đại thừa [trong thính chúng]. Vương tử khi giáo hóa có thể dạy rằng: “Các người nếu sợ sanh tử, cũng có thể tạm chứng Niết-bàn [Tiểu thừa] để nghỉ ngơi, sau đó nếu muốn tiếp tục tu hành đạo Đại thừa cũng có thể tùy ý.”
Lại cũng như người thời nay muốn học pháp Đại thừa mà kinh sợ sanh tử nên muốn thối tâm, liền có người khuyên rằng: “Ông hãy tạm thời dứt trừ phiền não, chứng quả A-la-hán, rồi sau muốn tu tập Đại thừa cũng có thể được.”
Còn như ngày nay đức Phật giáo hóa một lần chưa xong thì không thể bỗng dưng nói ra lời như vậy. Nếu là lúc khai thị trừ bỏ pháp quyền thừa, hiển bày pháp chân thật thì có thể nói như vậy. Như trong thời thuyết giáo pháp Niết-bàn, những vị chứng quả A-la-hán đều là hợp với ý nghĩa này.
“Hết sức vui mừng” tức là [ví cho việc được] văn tuệ, “chưa từng có” tức là được noãn vị, “đã thoát khỏi con đường nguy hiểm” tức là được đảnh vị, “được vui thích an ổn” tức là được nhẫn vị, “vào tòa thành” tức là đạt đến giai vị kiến đế, “tưởng rằng mình đã qua” tức là đạt đến giai vị vô học. Chỗ này ý nghĩa tương đồng với trong thí dụ căn nhà bốc cháy [ở phẩm Thí dụ] nói những người con thấy “hợp với ý thích, tất cả đều hết sức nhanh chóng thúc đẩy chen lấn, tranh nhau cùng chạy nhanh ra khỏi căn nhà đang cháy”. “Tưởng rằng mình đã qua” là giống như đạt được tận trí, nghĩ rằng “được vui thích an ổn” là giống như đạt được vô sanh trí. Lại nữa, đầy đủ trí đức là như “đã qua”, chứng được đoạn đức là như “an ổn”.
Có người giải thích về “chỗ nhiều châu báu quý giá”, nói rằng vượt qua ba cõi và các giai vị Nhị thừa là đến Phật đạo. Phật đạo đó chính là “chỗ nhiều châu báu”.
Kinh Đại Bát Niết-bàn có 3 cách nói. Thứ nhất là đạt đến tâm Bồ-đề, thứ hai là đạt đến Bồ-đề và thứ ba là đến cửa Niết-bàn. Nếu đạt đến tâm Bồ-đề thì tất nhiên sẽ đến Bồ-đề và đến Niết-bàn. Nay dẫn 3 cách nói này có nghĩa rằng, đạt đến tâm Bồ-đề là nói đạt đến nhân, đạt đến Bồ-đề và Niết-bàn là nói đạt đến quả. Trong quả lại có trí tuệ và đoạn trừ, Bồ-đề tức là quả trí tuệ, Niết-bàn là quả đoạn trừ. Vì nói đầy đủ từ trước đến sau, nói đầy đủ trí và đoạn, cho nên [kinh văn] có 3 cách nói như vậy.
Nhưng [thí dụ] “vượt qua 500 do-tuần” lại có 3 nghĩa. Thứ nhất là thoát khỏi, vượt qua con đường nguy hiểm xấu ác, thứ hai là đến được con đường tốt đẹp, thứ ba là đến chỗ có nhiều châu báu. [Thứ nhất,] phát tâm Bồ-đề nghĩa là qua khỏi con đường nguy hiểm xấu ác. [Thứ hai,] tu hành đạo Bồ-đề ví như con đường bằng phẳng tốt đẹp. Thứ ba là đạt đến Phật đạo, ví như đến được chỗ nhiều châu báu.
Kinh văn phần sau nói: “Nay thuyết pháp chân thật: ‘Các ông chưa diệt độ.’”[152] Đây chính là nêu rõ việc vượt qua con đường nguy hiểm xấu ác dài 500 do-tuần. Kinh nói: “Muốn thành Phật toàn trí, phải hết sức tinh tấn.” Đây là nói phải đi theo con đường Bồ-đề tốt đẹp. Lại cũng nói: “Nếu được Nhất thiết trí, Mười lực, các pháp Phật…” Đó là nói đạt được Phật đạo.
Vì sao cần phải vượt qua 500 do-tuần? Đó là nói hàng Nhị thừa ví như vượt qua 300 do-tuần, Bồ Tát vượt qua 400 do-tuần, Phật thừa là vượt qua 500 do-tuần.
Ý thứ ba từ câu “Khi ấy, vị thầy dẫn đường biết…” trở đi, nói việc diệt mất hóa thành và dẫn dắt đến chỗ có nhiều châu báu. Kinh văn phần này có 2 tiểu ý. Thứ nhất là biết [mọi người] đã nghỉ ngơi xong, thứ hai là hướng về chỗ có nhiều châu báu. Vì đã nghỉ ngơi nên không còn mệt mỏi, ví với phần trước nói đến lúc [Phật sắp nhập] Niết-bàn, đại chúng lại thanh tịnh. Thoát khỏi khổ nạn là cơ duyên Đại thừa khởi phát, liền diệt mất hóa thành để dẫn dắt hướng đến chỗ có nhiều châu báu. Đây là ví với phần trước nói việc thuyết giảng kinh Pháp hoa, chỉ bày tướng chân thật.
“Chỗ có nhiều châu báu” có 2 ý nghĩa. Nếu dùng nghĩa rốt ráo thì quả vị rốt ráo cuối cùng là “chỗ có nhiều châu báu”. Như kinh văn phần trước nói: “Chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ rốt ráo.” Nếu dùng nghĩa thể nhập một phần thì ban sơ phát tâm Bồ-đề đã là ở nơi chỗ nhiều châu báu. Cho nên kinh văn phần trước nói: “Bao nhiêu báu vô thượng, không cầu tự nhiên được.” Lại nói: “Có phần trong pháp Phật.” Và: “Những gì hàng con Phật cần phải đạt được thì nay chúng con đều đã đạt được.”
Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: Hàng Tu-đà-hoàn qua 80.000 kiếp thì đến. “Đến” tức là đến chỗ phát tâm Bồ-đề. Đây là nói theo kẻ căn cơ trì độn, cần phải nỗ lực qua 80.000 hoặc 10.000 kiếp… mới đến. Nếu như là những người chứng 4 quả thánh trong Tạng giáo thì không cần trải qua thời gian ngắn đều đã thể nhập Đại thừa, lẽ nào phải cần đến 80.000 hay 10.000 kiếp? Đại lược là như vậy.
“Chỗ có châu báu cũng gần đây. Tòa thành lúc nãy chỉ là do ta biến hóa ra…” Tức là nêu ra thí dụ để nói việc trừ bỏ pháp quyền thừa, để thuận hợp theo thí dụ hiển bày chân thật. [Kinh văn] phần trước nói: “Trí tuệ của Như Lai thật khó tin, khó hiểu.” [Và nói:] “Những người này nên dùng pháp như thế để dần dần từng bước thể nhập Phật đạo.” Đây là noi theo trong phẩm Phương tiện nói: “Ta dạy cho thoát khổ, nhưng chưa được Niết-bàn.” [Lại cũng nói:] “Phật dùng sức Phương tiện, tạm bày ra ba thừa.”
Các nhà cựu giải đặt câu hỏi: “[Kinh văn nêu] 3 loại xe [trong phẩm Thí dụ] và hóa thành [trong phẩm này] đều là dụ cho trí tuệ vô sanh [của Nhị thừa].[153] Vì sao xe lại không nhìn thấy mà thành thật có hiện ra?[154] Lại nữa, xe thì có 3 mà thành chỉ có 1, xe động mà thành tĩnh, là những ý nghĩa gì?
Đáp: Ông trưởng giả nói “ngoài cửa có xe”, vì có ngăn cách nên các con không nhìn thấy được, do đó có thể giả thiết cho rằng ngoài cửa có xe, dù thật không có xe. Thành thì nổi lên trên đất trống, không thể chỉ giả thiết là có cho nên thành phải hiện ra thật có. Dựa theo lý và giáo mà nói, chấp nơi giáo pháp ba thừa để cầu lý thì cả ba thừa đều được lý. Đây là nghĩa “có”, cũng như thành là có. Nếu theo lý đó mà cầu giáo pháp, lý vốn chỉ có một thì giáo đó tức là không, quả của ba thừa là nghĩa xe, dựa trên “không”.
Về nghĩa xe có 3, thành chỉ có 1, là vì mọi người cùng dừng nghỉ một chỗ, cho nên chỉ có 1 thành; xe thì dựa theo người trong ba thừa, người trong ba thừa ưa thích không giống nhau, cho nên có 3 loại xe. Dựa theo lý và giáo mà nói thì ba thừa đạt đến tận trí và vô sanh trí đều chẳng khác nhau, giống như một thành. Người trong ba thừa tuy đều dứt hết phiền não chánh sử nhưng phiền não tập khí thì có người dứt hết, có người chưa dứt hết; lại có người gần đạt được tri kiến, có người không đạt được tri kiến, cho nên khi dùng những phẩm tính này để trang nghiêm tận trí và vô sanh trí thì ý nghĩa không tương đồng, cũng như 3 loại xe khác nhau. Lại khi người trong ba thừa đạt đến tận trí và vô sanh trí, nêu rõ nhân đã dứt thì quả không còn. Đây là chỗ tột cùng, ví như thành tĩnh; tận trí và vô sanh trí vận hành, thể nhập Niết-bàn vô dư, ví như xe động. Những điều chất vấn đại lược là như vậy.
Nay nêu rõ nghĩa, nếu dựa theo tâm chúng sanh thì xe và thành đều là có; dựa theo trí tuệ Phật mà nói thì cũng có, cũng không; dựa theo trí quyền thừa mà xét thì là có, ví như thành; dựa theo trí chân thật mà xét thì là không, ví như xe. Đại lược là như thế.
Ý nghĩa chính của [thí dụ] hóa thành là vì người thối tâm Đại thừa mà chấp nhận Tiểu thừa, bên cạnh đó là thương xót những người đang học Tiểu thừa. Hai vòng thuyết pháp[155] trong kinh văn ở trước thì ý nghĩa chính là vì thương xót những người đang học Tiểu thừa, bên cạnh đó là vì người thối tâm Đại thừa. Thí dụ ba loại xe vận dụng cho cả thuở xưa và ngày nay; thí dụ hóa thành chính là ý giáo hóa dẫn dắt, vì chưa đạt đến đạo [Đại thừa] nên là hóa tác.
Hỏi: [Thí dụ] hóa ra 3 loại xe so với hóa thành có gì khác nhau?
Đáp: [Thí dụ] ba loại xe là [Phật dùng] thuyết pháp luân tạo ra; [thí dụ] hóa thành là [Phật dùng] thần thông luân tạo ra.[156] Lại nữa, ba xe là dựa vào âm thanh mà nêu ra trong thí dụ, những người con nghe biết nhưng không nhìn thấy; thành là hình sắc tạo ra trong thí dụ, [được nhìn thấy].
Hỏi: [Thí dụ hóa] thành so với [thí dụ] 2 người được [ông trưởng giả] sai đi [trong phẩm Tin hiểu] thì thế nào?
Đáp: Người được sai đi [ví cho] khả năng dẫn dắt chỉ bày, giống như giáo pháp dùng để chuyển tải chân lý. Thành là để ngăn dứt mối lo khổ nạn. Giáo pháp là động, thành là tĩnh.
Giáo pháp tức là bốn chân đế, 12 duyên, nên có khác biệt. Thành tức là 2 trí [quyền, thật], thể nhập [Niết-bàn] vô dư không có khác biệt.
Giáo pháp gồm thông cả nhân lẫn quả; thành và ba xe [trong thí dụ] chỉ ví nơi quả, [không nói nhân].
Giáo pháp gồm thông cả [2 pháp] hữu vi và vô vi; thành và ba xe [trong thí dụ] chỉ [có nghĩa] vô vi, [không nói hữu vi].
Theo trí quyền thừa thì nói ba xe là không, gọi là chỉ do giáo pháp bày ra thí dụ. Theo trí chân thật thì nói ba xe là có, vì không lìa văn tự mà nói giải thoát.
Dùng trí quyền thừa soi chiếu thì thành là có, vì dẫn dắt chúng sanh; dùng trí chân thật soi chiếu thì thành là không, vì lẽ chân thiên lệch thì chẳng phải thật.
Cho nên trí quyền thừa soi chiếu thấy xe là ba, vì hợp với cơ duyên ba thừa; trí chân thật soi chiếu thấy xe là một, vì cùng quy về Nhất thừa.
Trí quyền thừa soi chiếu thấy thành là một, vì là lẽ chân thiên lệch; trí chân thật soi chiếu thấy thành là ba, vì đó là Như Lai Tạng. Trí quyền thừa soi chiếu thấy thành là tĩnh, vì là hủy thân diệt trí;[157] trí chân thật soi chiếu thấy thành là động, vì diệt mất sự hóa hiện đó.
Trí quyền thừa soi chiếu thấy xe là vận động, vì vận động để thể nhập [Niết-bàn] vô dư; trí chân thật soi chiếu thấy xe là tĩnh lặng, vì không dao động, không ra khỏi.
Giải thích như vậy, đâu lẽ nào lại giống với các nhà cựu giải? Các nhà cựu giải khi giải thích ý nghĩa chỉ dựa vào [giáo pháp] Tiểu thừa mà thôi.
Hỏi: [Kinh này có] 5 chỗ nêu việc khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển lộ Nhất thừa, có khác biệt gì chăng?
Đáp: Luận theo nghĩa chung thì không khác, nhưng xét theo nghĩa riêng thì có khác biệt.
Trong phẩm Phương tiện thì dựa vào giáo nghĩa để khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Kinh văn nói: “Như Lai chỉ dùng một Phật thừa vì chúng sanh thuyết pháp, không có thừa nào khác như Nhị thừa, Tam thừa.”
[Trong phẩm Thí dụ thì nêu thí dụ] căn nhà bốc cháy là dựa vào thực hành để khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Xe là nghĩa vận chuyển, vận chuyển là thí dụ sự thực hành. Kinh văn nói: “Mỗi người đều đi trên một cỗ xe lớn.” Lại nói: “Ngồi trên cỗ xe quý, dạo chơi khắp bốn phương, cùng chơi đùa vui thích…”
Trong phẩm Tin hiểu thì dựa vào con người để khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Kết lại cuối cùng [trong thí dụ thì] người cùng khổ làm thuê chính là con của ông trưởng giả. [Kinh văn nói:] “Chúng con từ xưa nay vốn thật sự là con của đức Như Lai.”
Trong phẩm Thí dụ Cỏ thuốc thì dựa vào sự khác biệt và không khác biệt để nêu rõ [hai pháp] quyền và thật, không nhắm đến việc lấy hay bỏ mà chỉ nêu việc chúng sanh không biết nên đức Phật giúp cho rõ biết. Nếu 7 hạng phương tiện có sự khác biệt liền rõ biết đó là pháp quyền, nếu cùng y theo một lý không khác biệt liền rõ biết đó là pháp thật. Khác biệt tức là không khác biệt, không khác biệt mà khác biệt. [Mục đích của thí dụ trong phẩm này là] làm cho rõ biết ý nghĩa như vậy mà thôi, rốt cùng cũng không hề nói là có Nhất thừa hay không có Nhất thừa. Đây là dựa theo việc tự thực hành trí quyền thừa và trí chân thật, tùy tự ý [đức Phật] nói ra. Cho nên, Phật có khả năng rõ biết mà chúng sanh thì không biết. Ý nghĩa này cũng gồm thông với phần trước và phần sau, [nghĩa là] dựa vào chỗ rõ biết hay không rõ biết mà phân biệt giữa quyền và thật.
Trong phẩm Thí dụ Hóa thành này thì dựa vào lý để khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Chỗ có nhiều châu báu (bảo sở) và hóa thành đều là dựa vào 2 lý Tiểu thừa và Đại thừa. Phá trừ lý hóa [thành] của Nhị thừa là hiển bày một lý bảo sở chân thật. Trong kinh văn phần sau, 500 vị đệ tử khi trình bày sự nhận hiểu của mình nêu lên thí dụ hạt châu [giấu bên trong áo], cũng là dựa vào lý.
KINH VĂN
“Này các tỳ-kheo! Đức Như Lai cũng giống như vậy, nay vì các ông làm vị thầy lớn dẫn đường, biết rõ con đường sanh tử phiền não xấu ác đầy khó khăn nguy hiểm, dằng dặc xa xôi cần phải tiến bước vượt qua. Nếu như chúng sanh chỉ được nghe duy nhất về Phật thừa, ắt sẽ không muốn gặp Phật, không muốn gần gũi mà tự nghĩ rằng: ‘Con đường thành Phật xa xôi dằng dặc, phải chuyên cần chịu nhiều khó nhọc mới có thể thành tựu.’
Tiểu đoạn thứ hai, từ câu “Này các tỳ-kheo! Đức Như Lai cũng giống như vậy…” trở đi nêu sự tương hợp với các thí dụ. [Tiểu đoạn này có 2 phân đoạn,] trước tiên nêu nghĩa tương hợp, sau đó nêu các thí dụ thuận hợp. Tuy nhiên, phần này không trình bày theo thứ tự [như phần trước].
[Phân đoạn thứ nhất,] từ câu “Đức Như Lai cũng giống như vậy…” trở đi.
Ý thứ nhất tương hợp với ý thứ năm ở phần trước nêu thí dụ về vị thầy dẫn đường.
Ý thứ hai từ câu “Nay vì các ông…” trở đi, tương hợp với ý thứ ba ở phần trước nêu thí dụ “có rất đông người”.
Ý thứ ba từ câu “biết rõ con đường sanh tử phiền não…” trở đi, tương hợp với ý thứ hai ở phần trước nêu thí dụ về con đường hiểm ác.
Ý thứ tư nói “dằng dặc xa xôi” là tương hợp với ý thứ nhất ở phần trước nêu thí dụ “con đường dài 500 do tuần”.
Ý thứ năm nói “cần phải tiến bước vượt qua” là tương hợp với nghĩa phần trước nói “thông minh sáng suốt”, lại cũng là tương hợp với ý thứ tư phần trước nói “muốn vượt qua con đường ấy để đến nơi có nhiều châu báu quý giá”.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Nếu như chúng sanh chỉ được nghe…” trở đi, tương hợp với thí dụ “dẫn đường” ở phần trước. Phần thí dụ ở trước có 3 ý, phần này cũng tương hợp đủ 3 ý.
Ý thứ nhất nói “Nếu như chúng sanh…” là tương hợp với ý thứ nhất ở phần trước, nói về những người được dẫn dắt đi.
Ý thứ hai từ câu “chỉ được nghe duy nhất về Phật thừa…”, tương hợp với ý thứ hai ở phần trước nêu thí dụ về việc thối tâm Đại thừa, [được thầy dùng] Tiểu thừa để dẫn dắt.
Ý thứ ba từ câu “Nếu chúng sanh dừng trụ nơi địa vị Nhị thừa…” trở đi, tương hợp với ý thứ ba ở phần trước, nêu thí dụ “diệt mất hóa thành, dẫn đến nơi có nhiều châu báu”.
Thí dụ trong ý thứ hai ở phần trước chia thành 2 tiểu ý, nêu việc thối tâm Đại thừa và được dẫn dắt bằng Tiểu thừa. Trong phần này nêu nghĩa tương hợp có đủ 2 tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất, theo phần trên nêu nghĩa thối tâm Đại thừa có 3 điều.
£ Thứ nhất, “chỉ được nghe duy nhất về Phật thừa” là tương hợp với phần trước nói “giữa đường nản lòng muốn thối lui”, hàm ý không có cơ duyên [Đại thừa].
£ Thứ hai, “chẳng muốn gặp Phật, chẳng muốn gần gũi”, tương hợp với phần trước nói “thưa với vị thầy”, hàm ý là không nhận pháp khuyên răn.
£ Thứ ba, “mà tự nghĩ rằng”, tương hợp với phần trước nói “không thể nào đi tiếp được nữa”, hàm ý [đức Phật] dừng sự giáo hóa [bằng Đại thừa].
KINH VĂN
Đức Phật biết rõ tâm ý yếu ớt thấp hèn của chúng sanh như vậy, nên dùng sức phương tiện, vì muốn tạo một chỗ dừng nghỉ ở giữa đường mà thuyết dạy có Niết-bàn Nhị thừa. Nếu chúng sanh dừng trụ ở địa vị Nhị thừa, đức Như Lai liền vì họ mà dạy rằng: ‘Chỗ tu tập của các ông chưa trọn đủ, nhưng chỗ dừng trụ của các ông đã đến gần trí tuệ Phật rồi, nên phải quán sát suy lường rằng Niết-bàn mà các ông đạt được đó chẳng phải là chân thật. Đó chỉ là do sức phương tiện của Như Lai, từ nơi một Phật thừa mà phân biệt thuyết dạy thành ba thừa.’
“Cũng như vị thầy dẫn đường kia, vì muốn tạo chỗ tạm nghỉ mà biến hóa ra tòa thành lớn. Khi thấy mọi người đã được nghỉ ngơi rồi, liền bảo họ: ‘Chỗ có châu báu cũng gần đây, tòa thành này không hề có thật, chỉ do ta biến hóa tạo ra mà thôi.’”
Tiểu ý thứ hai từ câu “Đức Phật biết rõ tâm ý…”, tương hợp với phần trước nói nghĩa “dùng Tiểu thừa dẫn dắt”. Phần trước vốn có 4 điều, trong phần này [gộp lại] tương hợp thành 3 điều.
£ Điều thứ nhất nói “Đức Phật biết rõ tâm ý…” là tương hợp với điều thứ nhất phần trước nói “vị thầy dẫn đường vốn có nhiều phương tiện…”, noi theo ý [đức Phật] dự định dùng Tiểu thừa là thích hợp [trong phẩm Phương tiện]. Điều thứ hai nói “yếu ớt thấp hèn…” là tương hợp với điều thứ hai phần trước nói “những người này thật đáng thương…”, [noi theo ý [đức Phật] rõ biết [chúng sanh] có căn cơ Tiểu thừa [trong phẩm Phương tiện]. Điều thứ ba nói “vì muốn tạo một chỗ dừng nghỉ ở giữa đường…” là tương hợp với phần trước ở điều thứ ba nói “biến hóa ra một tòa thành” và điều thứ tư nói “mọi người… vào tòa thành”, tức là ý nghĩa “ở giữa đường mà thuyết dạy có Niết-bàn Nhị thừa”.
Khi lậu hoặc phiền não trong ba cõi đã dứt, khi vô minh hoặc và trần sa hoặc chưa phá trừ, [đức Phật] đối với 2 cột mốc ấy mà dạy rằng có Niết-bàn hữu dư và Niết-bàn vô dư, cũng chính là Niết-bàn của hàng Thanh văn và Niết-bàn của hàng Duyên giác.
Lại nữa, sanh tử phần đoạn đã dứt, sanh tử biến dịch còn chưa trừ, trong khoảng giữa 2 loại sanh tử ấy mà dạy rằng có Niết-bàn hữu dư và Niết-bàn vô dư, cho nên nói là “ở giữa đường”. Đại lược là như vậy.
Ý thứ ba từ câu “Nếu chúng sanh dừng trụ ở địa vị Nhị thừa…” trở đi, tương hợp với ý thứ ba phần trước nói thí dụ “dẫn đến chỗ có nhiều châu báu”. Kinh văn phần trước có 2 tiểu ý, phần này cũng tương hợp đủ 2 tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất là câu “Nếu chúng sanh dừng trụ ở địa vị Nhị thừa”, tương hợp với phần trước nói “biết mọi người đều đã được nghỉ ngơi”. Câu “Đức Như Lai liền vì họ mà dạy rằng…” trở đi là tương hợp với phần trước nói “hướng đến chỗ có nhiều châu báu”.
Tiểu ý thứ hai từ câu “Cũng như vị thầy dẫn đường kia”, là lặp lại thí dụ để chỉ rõ sự tương hợp. Lặp lại thí dụ dẫn dắt người thối tâm Đại thừa, tương hợp với ý khai thị trừ bỏ ba thừa; lặp lại thí dụ diệt mất hóa thành, tương hợp với ý hiển bày Nhất thừa. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được. Đại lược là như thế.
Kệ tụng
Phần kệ tụng thứ hai có 49 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa phần [kinh văn trường hàng] ở phần trước. Kinh văn trường hàng có 2 đoạn, [phần kệ tụng này cũng chia làm 2 đoạn.] Đoạn thứ nhất có 22 khổ rưỡi kệ, tụng lại nguyên do kết duyên trong kinh văn trường hàng. Đoạn thứ hai có 27 khổ kệ, tụng lại nội dung chính của sự kết duyên trong kinh văn trường hàng.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
Phật Đại Thông Trí Thắng,
Mười kiếp ngồi đạo trường,
Pháp Phật chẳng hiện ra,
Chưa trọn thành Phật đạo.
Chư thiên, thần, long vương,
Với chúng a-tu-la,
Thường mưa xuống hoa trời,
Để cúng dường Phật ấy.
Chư thiên đánh trống trời,
Cùng diễn xướng âm nhạc,
Gió thơm cuốn hoa héo,
Lại thay bằng hoa tươi.
Trải qua mười tiểu kiếp,
Mới thành tựu quả Phật,
Chư thiên và loài người,
Đều vui mừng phấn khích.
Mười sáu người con Phật,
Cùng quyến thuộc vây quanh,
Số lượng ngàn muôn ức,
Cùng đi đến chỗ Phật.
Đầu mặt lễ sát chân,
Thỉnh Phật chuyển pháp luân.
“Đại Thánh ban mưa pháp,
Thấm nhuần khắp chúng sanh.”
Đoạn thứ nhất trong kinh văn trường hàng nói nguyên do kết duyên có chia ra 2 tiểu đoạn nói nguyên do gần và nguyên do xa, nay trong kệ tụng thì tiểu đoạn thứ nhất gồm 12 khổ kệ đầu tụng lại nguyên do xa. Tiếp đến từ câu “Thế Tôn Vô Lượng Tuệ” trở đi là tiểu đoạn thứ hai gồm 10 khổ rưỡi kệ, tụng về nguyên do gần.
Tiểu đoạn nói về nguyên do xa ở trước có 2 phân đoạn, [nay phần kệ tụng này cũng chia làm 2]. Phân đoạn thứ nhất gồm 6 khổ kệ đầu tiên, tụng việc đức Phật Đại Thông [Trí Thắng] thành đạo. Phân đoạn thứ hai gồm 6 khổ kệ tiếp theo, tụng về việc các vị Phạm thiên trong khắp mười phương đến thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Phân đoạn nói việc Phật Đại Thông thành đạo ở trước có 5 ý, [phần kệ tụng này chỉ có 3 ý]. Ý thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng lại ý thứ hai ở trước, nói việc trước khi Phật thành đạo. Ý thứ hai từ câu “Trải qua mười tiểu kiếp” trở đi có 1 khổ kệ, tụng lại ý thứ ba ở trước, về nội dung chính của việc Phật thành đạo. Ý thứ ba từ câu “Mười sáu người con Phật” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng lại ý thứ năm ở trước, nói việc 16 vị vương tử thỉnh chuyển pháp luân, cũng gồm cả ý thứ tư nói việc sau khi Phật thành đạo rồi quyến thuộc đến cúng dường. Phần kệ tụng này lược bớt không tụng lại ý thứ nhất ở trước, nói về tuổi thọ lâu dài của Phật.
KINH VĂN
Thế Tôn rất khó gặp,
Lâu xa mới ra đời,
Vì giác ngộ chúng sanh,
Gây chấn động khắp thảy.
Các thế giới phương đông,
Năm trăm muôn ức nước,
Cung Phạm thiên rực sáng,
Xưa nay chưa từng có.
Các Phạm vương thấy vậy,
Tìm đến đạo tràng Phật,
Rải hoa trời cúng dường,
Rồi dâng cúng cung điện.
Thỉnh Phật chuyển pháp luân,
Và đọc kệ xưng tán.
Phật biết chưa phải lúc,
Nhận lời nhưng ngồi yên.
Ba phương chính, bốn phụ,
Phương trên, dưới cũng vậy,
Rải hoa, dâng cung điện,
Thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Thế Tôn rất khó gặp,
Nguyện dùng đại từ bi,
Rộng mở cửa cam lộ,
Chuyển Vô thượng pháp luân.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Thế Tôn rất khó gặp” trở đi, gồm 6 khổ kệ, tụng lại việc các vị Phạm thiên trong mười phương thỉnh Phật. Phân đoạn này ở phần trước có 2 ý, [kệ tụng cũng có 2]. Ý thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng về hào quang nhiệm mầu chấn động [cung điện các cõi trời]. Ý thứ hai từ câu “Các thế giới phương đông” trở đi, gồm 5 khổ kệ, tụng về việc các vị Phạm thiên trong mười phương tìm theo ánh sáng mà đến [chỗ Phật]. Trong ý này, 3 khổ kệ trước tụng về phương đông, 2 khổ kệ sau tụng tổng quát về 9 phương [còn lại].
KINH VĂN
Thế Tôn Vô Lượng Tuệ,
Nhận bao lời thỉnh cầu,
Vì chúng sanh thuyết pháp:
“Bốn đế, mười hai duyên,
Vô minh đến già chết…
Đều duyên nhau mà có,
Từ đó sanh khổ não,
Các người nên rõ biết.”
Khi Phật thuyết pháp này,
Có sáu trăm muôn ức
Na-do-tha chúng sanh,
Dứt khổ thành La-hán.
Thuyết pháp lần thứ hai,
Chúng sanh nhiều như cát,
Của ngàn muôn sông Hằng,
Cũng thành A-la-hán.
Người đạt đạo về sau,
Nhiều không thể tính đếm,
Dù muôn kiếp tính toán,
Cũng không đếm hết được.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Thế Tôn Vô Lượng Tuệ” trở đi gồm 10 khổ kệ rưỡi, tụng về nguyên do gần. Trong kinh văn trường hàng, tiểu đoạn này có 2 phân đoạn. Nay trong kệ tụng thì 5 khổ kệ đầu là phân đoạn thứ nhất, tụng lại phân đoạn thứ nhất ở trước, nêu việc chuyển pháp luân với giáo pháp Nhị thừa. Tiếp theo, phân đoạn thứ hai từ câu “Mười sáu vị vương tử” trở đi gồm 5 khổ rưỡi kệ, tụng lại phân đoạn thứ hai ở trước, nêu việc thỉnh Phật một lần nữa, xin chuyển pháp luân với giáo pháp Đại thừa.
Phân đoạn thứ nhất ở trước có 3 ý, [kệ tụng cũng có đủ 3 ý]. Ý thứ nhất từ câu “Thế Tôn Vô Lượng Tuệ” trở đi gồm nửa khổ kệ, tụng lại ý thứ nhất ở trước nói việc [đức Phật] nhận lời thỉnh cầu. Ý thứ hai từ câu “Vì chúng sanh thuyết pháp” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý thứ hai ở trước, nêu nội dung chuyển pháp luân với giáo pháp Nhị thừa. Ý thứ ba từ câu “Khi Phật thuyết pháp này” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng lại ý thứ ba ở trước, nêu việc đại chúng nghe pháp đạt đạo.
KINH VĂN
Mười sáu vị vương tử,
Xuất gia thành sa-di,
Cùng nhau thỉnh nguyện Phật,
Thuyết giảng pháp Đại thừa.
“Chúng con và thị tùng,
Đều sẽ thành Phật đạo.
Nguyện được như Thế Tôn,
Mắt tuệ thanh tịnh nhất.”
Phật biết tâm con trẻ,
Cùng công hạnh đời trước,
Dùng vô số nhân duyên,
Và đủ mọi thí dụ,
Thuyết sáu ba-la-mật,
Cùng những việc thần thông.
Phân biệt pháp chân thật,
Công hạnh đạo Bồ Tát.
Thuyết kinh Pháp hoa này,
Hằng sa các bài kệ.
Phật ấy thuyết kinh rồi,
Vào tĩnh thất nhập định.
Nhất tâm ngồi an tịnh,
Tám mươi bốn ngàn kiếp.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Mười sáu vị vương tử” trở đi gồm 5 khổ rưỡi kệ, tụng lại việc các vương tử thưa thỉnh lần nữa, [xin Phật chuyển pháp luân]. Phân đoạn này trước có 7 ý, [nay chỉ tụng còn 5]. Ý thứ nhất gồm hai câu kệ, tụng lại ý thứ nhất ở trước, nói về việc các vị vương tử xuất gia. Ý thứ hai từ câu “cùng nhau thỉnh nguyện Phật” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý thứ hai ở trước, là nội dung thỉnh Phật chuyển pháp luân với giáo pháp Đại thừa. Ý thứ ba từ câu “Phật biết tâm con trẻ” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng về việc trong thời gian 20.000 kiếp từ thuở ấy đến nay thuyết các kinh Phương đẳng, Bát-nhã. Ý thứ tư từ câu “thuyết kinh Pháp hoa này” trở đi gồm nửa khổ kệ, tụng lại phần thứ tư ở trước nói việc Phật nhận lời thưa thỉnh thuyết giảng kinh Pháp hoa. Ý thứ năm từ câu “Phật ấy thuyết kinh rồi” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý thứ bảy ở trước, Phật thuyết kinh xong rồi nhập định.
[Như vậy, phần kệ tụng này] lược bớt không tụng lại ý thứ ba nói 80.000 người đi theo đức vua đều xin xuất gia; ý thứ năm nói đại chúng nghe thuyết kinh có người hiểu, có người không hiểu; ý thứ sáu nói thời gian thuyết giảng kinh lâu dài.
KINH VĂN
Mười sáu vị sa-di,
Biết Phật chưa xuất định,
Liền vì vô số chúng,
Thuyết trí tuệ Vô thượng.
Mỗi vị đều lên tòa,
Thuyết kinh Đại thừa này.
Từ sau Phật nhập định,
Thuyết pháp giúp giáo hóa.
Mỗi một vị sa-di,
Hóa độ số chúng sanh,
Rất nhiều như số cát,
Sáu triệu ức sông Hằng.
Sau khi Phật nhập diệt,
Những người đã nghe pháp,
Thường nơi các cõi Phật,
Được sanh ra cùng thầy.
Đoạn thứ hai từ câu “Mười sáu vị sa-di” trở đi gồm 27 khổ kệ, tụng vào nội dung kết duyên. Kinh văn phần trước có 2 tiểu đoạn, phần này cũng vậy. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 8 khổ kệ tụng lại nghĩa thuyết chánh pháp. Tiểu đoạn thứ hai gồm 19 khổ kệ, tụng về thuyết thí dụ.
Tiểu đoạn thuyết chánh pháp ở trước có 3 phân đoạn, [kệ tụng cũng có 3]. Phân đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng lại phân đoạn thứ nhất ở trước nói về sự kết duyên từ thuở xưa. Phân đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ, tụng lại phân đoạn thứ hai ở trước, nêu việc trong khoảng thời gian từ thuở ấy đến nay [thầy trò vẫn thường] gặp lại nhau. Phân đoạn thứ ba gồm 4 khổ kệ, tụng lại phân đoạn thứ ba ở trước nêu việc ngày nay lại cũng thuyết kinh Pháp hoa.
Phân đoạn thứ nhất ở trước có 4 ý, [kệ tụng chỉ có 3]. Ý thứ nhất gồm nửa khổ kệ tụng về việc Phật nhập định. Ý thứ hai từ câu “Liền vì vô số chúng” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng vào việc [các vị sa-di] giảng lại [kinh Pháp hoa]. Ý thứ ba từ câu “Mỗi một vị sa-di” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại việc nghe thuyết pháp được lợi ích. [Như vậy, phần kệ tụng] lược bớt không tụng ý thứ tư ở trước nói việc đức Phật ra khỏi thiền định rồi ngợi khen tán thán các vị sa-di].
Phân đoạn thứ hai từ câu “Sau khi Phật nhập diệt” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại việc trong khoảng thời gian từ thuở ấy đến nay [thầy trò] vẫn thường gặp lại nhau.
KINH VĂN
Mười sáu sa-di này,
Tu hành trọn Phật đạo,
Nay ở trong mười phương,
Đều trọn thành Chánh giác.
Người nghe pháp thuở ấy,
Nay đều sanh chỗ Phật.
Có người trụ Thanh văn,
Dần dần học Phật đạo.
Ta là một trong số
Mười sáu vị thuyết pháp,
Cho nên dùng phương tiện,
Dẫn vào trí tuệ Phật.
Nhân duyên xưa như vậy,
Nay thuyết kinh Pháp hoa,
Khiến cho vào Phật đạo,
Đừng ôm lòng kinh sợ.
Phân đoạn thứ ba từ câu “Mười sáu sa-di này” trở đi gồm 4 khổ kệ, tụng việc ngày nay lại thuyết kinh Pháp hoa. Kinh văn ở trước phần này có 2 ý. Ý thứ nhất nói việc tương đồng giữa thuở xưa với ngày nay, trong đó có hiện tại, có tương lai. Trong kệ tụng thì ý này gồm 3 khổ kệ, nói tóm lại về các vị thầy và đệ tử trong hiện tại. Ý thứ hai từ câu “Nhân duyên xưa như vậy” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng về việc lại thuyết kinh Pháp hoa. Kinh văn trường hàng ở trước phần này có 3 tiểu ý, [kệ tụng chỉ có 2]. Tiểu ý thứ nhất có 1 câu kệ, tụng lại tiểu ý thứ nhất ở trước, nói việc đại chúng khi ấy thanh tịnh. Do nhân duyên thuở xưa như vậy nên ngày nay đại chúng tránh được các nan xứ,1 cơ duyên [Đại thừa] khởi phát. Tiểu ý thứ hai từ câu “Nay thuyết kinh Pháp hoa” trở đi, tụng lại tiểu ý thứ hai ở trước, nói việc vì [đại chúng] thuyết kinh này. [Như vậy, phần kệ tụng này] lược bớt không tụng lại tiểu ý thứ ba ở trước giải thích ý nghĩa việc khai thị trừ bỏ ba thừa.
KINH VĂN
Như đường xa nguy hiểm,
Vắng vẻ, nhiều thú dữ,
Lại không cỏ, không nước,
Người người đều kinh sợ.
Vô số muôn ngàn người,
Muốn qua đường hiểm này,
Mà đường quá xa xôi,
Đến năm trăm do tuần.
Có vị thầy dẫn đường,
Biết nhiều, có trí tuệ,
Tâm sáng suốt, quả quyết,
Đưa cả đoàn vượt nguy.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Như đường xa nguy hiểm” trở đi có 19 khổ kệ, [gồm 2 phân đoạn], tụng lại các phần nêu thí dụ và tương hợp thí dụ. Phân đoạn thứ nhất có 11 khổ rưỡi kệ, tụng lại nghĩa nêu thí dụ. Phân đoạn thứ hai có 7 khổ rưỡi kệ, tụng lại nghĩa tương hợp các thí dụ. Phân đoạn thứ nhất trong kinh văn phần trước có 2 ý, [kệ tụng cũng có 2]. Ý thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng lại về thí dụ [con đường] 500 do tuần. Ý thứ hai gồm 8 khổ rưỡi kệ, tụng về thí dụ có vị thầy sẽ dẫn mọi người đi.
Ý thứ nhất nêu thí dụ con đường 500 do-tuần, trong kinh văn ở trước có 5 tiểu ý, [kệ tụng chỉ có 4]. Tiểu ý thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng lại tiểu ý thứ hai ở trước nói về con đường nguy hiểm đáng sợ. Tiểu ý thứ hai từ câu “Vô số muôn ngàn người” trở đi gồm nửa khổ kệ, tụng lại tiểu ý thứ ba ở trước, nói “có rất nhiều người”. Tiểu ý thứ ba từ câu “mà đường quá xa xôi” trở đi, gồm nửa khổ kệ, tụng lại tiểu ý thứ nhất ở trước nói về con đường dài 500 do-tuần. Tiểu ý thứ tư [gồm 1 khổ kệ,] câu “Có vị thầy dẫn đường” tụng lại tiểu ý thứ năm ở trước, nói về vị thầy dẫn đường; và từ câu “Biết nhiều, có trí tuệ” trở đi gồm 3 câu, tụng về [vị thầy] “thông minh sáng suốt”. [Như vậy, phần kệ tụng này] không tụng lại tiểu ý thứ tư ở trước.
KINH VĂN
Mọi người đều mệt mỏi,
Nên thưa với vị thầy:
“Chúng tôi đều quá mệt,
Đến đây xin quay về.”
Thầy dẫn đường tự nghĩ:
“Những người này đáng thương,
Vì sao lại muốn về,
Bỏ mất đi châu báu?”
Liền nghĩ cách phương tiện,
Phải dùng sức thần thông,
Hóa ra tòa thành lớn,
Nhiều nhà cửa rộng rãi,
Bao quanh có vườn cảnh,
Có kênh ngòi, ao tắm,
Cửa nhiều lớp, lầu cao,
Trai gái đều đông vui.
Hóa hiện như thế rồi,
Bảo mọi người: “Đừng sợ,
Các người vào thành này,
Đều tùy ý vui chơi.”
Mọi người vào thành rồi,
Trong lòng rất mừng vui,
Đều cho là an ổn,
Tự nghĩ: Đến nơi rồi!
Ý thứ hai từ câu “Mọi người đều mệt mỏi” trở đi, gồm 8 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý thứ hai ở trước, nêu thí dụ về việc vị thầy sắp dẫn mọi người đi. Kinh văn phần trước có 3 tiểu ý, phần kệ tụng này cũng có 3. Hai chữ “mọi người” là tụng lại tiểu ý thứ nhất ở trước, nói việc sắp dẫn [mọi người] đi. Từ cụm chữ “đều mỏi mệt” trở đi là tiểu ý thứ hai, gồm 3 chữ với 3 câu và 5 khổ kệ, tụng lại tiểu ý thứ hai ở trước nêu thí dụ mọi người đều mỏi mệt thối chí, [vị thầy dẫn đường liền] quyền biến hóa ra tòa thành. Tiểu ý thứ ba từ câu “Thầy biết nghỉ ngơi xong” trở đi, gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại tiểu ý thứ ba ở trước, nêu thí dụ về diệt mất hóa thành, dẫn dắt đến chỗ có nhiều châu báu.
Tiểu ý thứ hai trong kinh văn ở trước có 2 điều. Thứ nhất là nêu sự mỏi mệt thối chí, thứ hai là nêu sự dẫn dắt với người thối chí. Nay trong phần kệ tụng này cũng vậy. Điều thứ nhất gồm 3 chữ và 3 câu tụng lại ý mỏi mệt thối chí. Điều thứ hai gồm 5 khổ kệ, tụng lại ý tạo ra hóa thành để dẫn dắt người thối chí.
£ Điều thứ nhất nêu sự mỏi mệt thối chí, kinh văn phần trước có 3 khoản, kệ tụng ở đây lược bớt không tụng khoản thứ nhất nói ý “giữa đường”, [chỉ còn 2 khoản].
£ Điều thứ hai nêu ý tạo ra hóa thành để dẫn dắt, nay tụng lại đầy đủ 4 khoản như trong kinh văn trường hàng.
¡ Khoản thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng lại khoản thứ hai ở trước, nói việc vị thầy xót thương [những người thối chí, ví như] bỏ mất Đại thừa.
¡ Khoản thứ hai từ câu “Liền nghĩ cách phương tiện” gồm 2 câu, tụng lại khoản thứ nhất trong kinh văn trường hàng ở trước, nói việc [vị thầy dẫn đường] khởi lên ý nghĩ.
¡ Khoản thứ ba từ câu “Hóa ra tòa thành lớn” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại khoản thứ ba ở trước, nêu việc tạo ra hóa thành. Kinh văn phần trước chia ra 2 tiểu khoản, [kệ tụng cũng vậy].
+ Tiểu khoản thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại thí dụ [mô tả] việc tạo tác hóa thành. Nói “nhiều nhà cửa” là cảnh giới quán không; nói “vườn cảnh” là pháp tổng trì vô lậu của Nhị thừa; 9 pháp định tuần tự theo thứ lớp là “kênh ngòi”;[158] 8 giải thoát2 là “ao tắm”; “cửa nhiều lớp” là 3 cửa Không, cũng là trùng không tam muội;1 tận trí và vô sanh trí là “lầu cao”; trai, gái là định và tuệ.
Giải thích theo quán tâm thì thể của trí tuệ rộng khắp như hào sâu quanh thành; pháp lành trọn vẹn đầy đủ như tường thành bao quanh; pháp không rốt ráo là nhà; chánh trực hiền thiện có khả năng thành tựu pháp tự hành, ví như người con trai có thể gánh vác việc nhà; từ bi giáo hóa bên ngoài, ví như người con gái về làm dâu nhà khác.
+ Tiểu khoản thứ hai từ câu “Hóa hiện như thế rồi” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý nói về hóa thành ở trước.
Khoản thứ tư từ câu “Mọi người vào thành rồi” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại khoản thứ 4 trong kinh văn trường hàng ở trước nói việc “vào thành”.
KINH VĂN
Thầy biết nghỉ ngơi xong,
Gọi tất cả đến nói:
“Mọi người nên đi tới,
Đây chỉ là hóa thành.
Thấy mọi người mệt mỏi,
Giữa đường muốn thối lui,
Nên ta dùng phương tiện,
Biến hóa ra thành này.
Hãy tinh tấn chuyên cần,
Cùng đến chỗ châu báu.”
Tiểu ý thứ ba từ câu “Thầy biết nghỉ ngơi xong” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại tiểu ý thứ ba ở trước về việc diệt mất hóa thành, dẫn dắt đến nơi có nhiều châu báu. Kinh văn ở trước thì tiểu ý này có 2 điều. [Nay trong kệ tụng thì] điều thứ nhất nói vị thầy biết mọi người đã nghỉ ngơi rồi. Điều thứ hai từ câu “Gọi tất cả đến nói” trở đi gồm có 1 câu và 2 khổ kệ, tụng lại về việc diệt mất hóa thành và dẫn dắt hướng đến nơi có nhiều châu báu.
KINH VĂN
Như Lai cũng như vậy,
Dẫn đường cho chúng sanh,
Thấy những người cầu đạo,
Giữa đường muốn thối lui,
Không thể vượt qua hết,
Đường sanh tử, phiền não,
Nên dùng sức phương tiện,
Thuyết Niết-bàn Nhị thừa,
Nói rằng: “Đã dứt khổ,
Việc cần làm đã xong.”
Phân đoạn thứ hai từ câu “Như Lai cũng như vậy”, gồm 7 khổ rưỡi kệ, tụng lại phân đoạn thứ hai trong kinh văn trường hàng ở trước, [chia thành 2 ý] nói nghĩa tương hợp với 2 thí dụ. Ý thứ nhất gồm nửa khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với thí dụ thứ nhất về [con đường dài] 500 do-tuần. Ý thứ hai gồm 7 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với thí dụ thứ hai nói việc vị thầy dẫn đường sắp dẫn mọi người đi.
Kinh văn phần trước nói nghĩa tương hợp với thí dụ con đường dài 500 do-tuần có 4 tiểu ý, phần kệ tụng này có nửa khổ kệ, chỉ tụng lại tổng quát mà thôi.
[Trong ý thứ hai, tiểu ý thứ nhất] từ câu “Thấy những người cầu đạo” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với thí dụ về sự mỏi mệt thối chí.
Phần trước khi tụng việc nêu thí dụ không tụng lại ý “giữa đường”, trong phần này [tiểu ý thứ nhất] có 1 khổ kệ tương hợp với ý “giữa đường mỏi mệt thối chí”. Tiểu ý này [gồm 2 khổ kệ, chia ra 2 điều]. [Điều thứ nhất gồm] 1 khổ kệ tụng ý tương hợp với nghĩa giữa đường thối chí. [Điều thứ hai gồm] 1 khổ kệ tụng ý tương hợp với việc tạo ra hóa thành để dẫn dắt những người thối chí.
KINH VĂN
Được Niết-bàn ấy rồi,
Đều thành A-la-hán,
Phật liền họp đại chúng,
Thuyết dạy pháp chân thật.
Sức phương tiện chư Phật.
Phân biệt nói ba thừa,
Thật chỉ một Phật thừa,
Nói hai để tạm dừng.
Nay thuyết pháp chân thật:
“Các ông chưa diệt độ.”
Muốn thành Phật toàn trí,
Phải hết sức tinh tấn.
Nếu được Nhất thiết trí,
Mười lực, các pháp Phật…
Đủ ba mươi hai tướng,
Mới chân thật diệt độ.
Phật là thầy dẫn đường,
Thuyết Niết-bàn giả tạm,
Để nghỉ ngơi xong rồi,
Dẫn vào trí tuệ Phật.
Tiểu ý thứ hai từ câu “Được Niết-bàn ấy rồi” trở đi gồm 5 khổ kệ, tụng lại tiểu ý thứ hai ở trước tương hợp với nghĩa diệt hóa thành dẫn dắt đến chỗ có nhiều châu báu. Kinh văn phần trước có 2 nghĩa tương hợp, phần này [có 3 điều,] cũng tụng lại đủ 2 nghĩa.
£ Điều thứ nhất gồm nửa khổ kệ, tụng lại ý [vị thầy dẫn đường] biết mọi người đã nghỉ ngơi xong.
£ Điều thứ hai từ câu “Phật liền họp Đại chúng” trở đi gồm 3 khổ rưỡi kệ, tụng lại điều thứ hai ở trước tương hợp với nghĩa diệt mất hóa thành, dẫn dắt hướng đến chỗ có nhiều châu báu. Trong phần kệ tương hợp với nghĩa “diệt hóa thành” này có ngầm chứa đủ tam đức [của chư Phật].[159] “Nếu được Nhất thiết trí” tức là Bát-nhã đức; “Đủ ba mươi hai tướng” tức là Pháp thân đức; “Mới chân thật diệt độ” tức là Giải thoát đức. Ba pháp này không hạn cuộc trong không gian và thời gian, tức là thấy tánh Phật.
£ [Điều thứ ba] từ câu “Phật là thầy dẫn đường” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng tóm lại nghĩa tương hợp.[160]
KINH VĂN
Phẩm Năm trăm đệ tử được thụ ký, thứ tám
Giải thích tên phẩm
Trong phẩm này [Phật] thụ ký cho đủ số 1.200 [vị đệ tử], vì sao tên phẩm chỉ nêu 500 vị? Đây là vì có 500 vị được thụ ký đồng một danh hiệu, 500 vị đồng thanh trình bày sự nhận hiểu, cho nên dùng ý nghĩa đó để làm tên phẩm. Phẩm này là đại đoạn thứ hai trong phần thuyết nhân duyên.
Nói chung [trong số đệ tử được] thụ ký lại có 2 nhóm, nhóm 1.200 vị và nhóm 2.000 vị.[161] [Phẩm này nói việc] thụ ký cho 1.200 vị, lại chia thành 2 phần. Phần thứ nhất là thụ ký cho ngài Phú-lâu-na,[162] phần thứ hai là thụ ký cho 1.200 vị A-la-hán.
Phần thứ nhất thụ ký cho ngài Phú-lâu-na lại chia thành 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất mở đầu, ngấm ngầm nêu sự nhận hiểu, tổng đoạn thứ hai là đức Như Lai nói việc thụ ký.
Tổng đoạn thứ nhất ngấm ngầm trình bày sự nhận hiểu lại chia thành 2 đoạn. Đoạn thứ nhất nêu sự nhận hiểu được nên hoan hỷ; đoạn thứ hai nói việc ngấm ngầm nêu sự nhận hiểu.
Đoạn thứ nhất nói nghĩa hoan hỷ lại có 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là trình bày nguyên do được nhận hiểu, thứ hai là nêu việc nhận hiểu được rồi hoan hỷ.
Tiểu đoạn thứ nhất nêu nguyên do lại có 4 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói việc được nghe 2 vòng thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ, khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Phân đoạn thứ hai là nghe việc thụ ký cho 5 vị đại đệ tử như ngài Xá-lợi-phất v.v. Phân đoạn thứ ba là nghe [Phật kể về] sự kết duyên từ đời quá khứ. Phân đoạn thứ tư nói việc được nghe về ba sự thông đạt không ngăn ngại của chư Phật Như Lai,[163] quán xét sự việc hết sức lâu xa trong quá khứ “vẫn thấy rõ giống như việc ngày nay”, tức là sức thần thông đại tự tại, khác xa với [khả năng của] hàng Nhị thừa chỉ thấy được đến 80.000 kiếp.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, ngài Phú-lâu-na được nghe Phật nói trí tuệ phương tiện thuyết pháp thích hợp, lại nghe Phật thụ ký cho các vị đại đệ tử sẽ thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng như nghe chuyện nhân duyên từ đời trước, lại nghe việc chư Phật có sức thần thông tự tại lớn lao nên tự thấy được việc chưa từng có, trong lòng thanh tịnh phấn chấn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy bước đến trước Phật, cúi đầu chạm mặt lễ sát chân Phật rồi đứng sang một bên, chăm chú không rời mắt chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, trong lòng khởi lên ý nghĩ rằng:
Phân đoạn thứ nhất, câu “được nghe Phật nói trí tuệ” tức là nhận hiểu ý nghĩa hiển bày pháp thật trong phẩm Phương tiện và thí dụ căn nhà bốc cháy; “phương tiện thuyết pháp thích hợp” tức là nhận hiểu 2 chỗ khai mở pháp quyền.
Phân đoạn thứ hai, câu “cho các đại đệ tử” tức là nhận hiểu khai mở quyền thừa; “thụ ký… …thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” tức là nhận hiểu ý nghĩa hiển bày pháp thật.
Phân đoạn thứ ba, câu “chuyện nhân duyên từ đời trước” tức là nhận hiểu ý nghĩa hiển bày pháp thật.
Phân đoạn thứ tư, câu “sức thần thông tự tại lớn lao” tức là nhận hiểu ý nghĩa khai mở pháp quyền.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “được việc chưa từng có” trở đi trình bày việc nhận hiểu được nên hoan hỷ, [có 2 phân đoạn]. Phân đoạn thứ nhất nêu việc trong lòng nhận hiểu nên hoan hỷ. Phân đoạn thứ hai nói sự cung kính bày tỏ ra hình thức bên ngoài. Vì xưa nay chưa từng nghe việc khai thị trừ bỏ pháp quyền, hiển bày pháp thật mà nay được nghe, cho nên nói là “được việc chưa từng có”.
Nói “trong lòng thanh tịnh” là vì đã dứt trừ sự bám luyến với Niết-bàn, phá trừ được biệt hoặc. Khai mở tri kiến Phật cho nên gọi là “phấn chấn”. Nhờ Phật mà được nhận hiểu cho nên khởi sinh sự cung kính. Nếu giải thích theo bản tích thì là mừng vui vì các hạnh chân thật.
Đoạn thứ hai từ câu “trong lòng khởi lên ý nghĩ rằng” trở đi là ý chính nêu việc ngấm ngầm trình bày sự nhận hiểu. [Đoạn này có 2 tiểu đoạn.] Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc ngấm ngầm nhận hiểu. Tiểu đoạn thứ hai nêu việc ngấm ngầm mong cầu [đức Như Lai] nêu rõ hình tích [thị hiện] mà thụ ký cho.
Trong cả 2 vòng thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ ở trước, [các vị đệ tử] đều nói ra thành lời trình bày chỗ nhận hiểu, vì sao ở đây lại chỉ ngấm ngầm trong suy nghĩ? Vì trước đây hàng hạ căn còn chưa khai ngộ, sự việc cần phải nói rõ ra để khuyến khích, khơi động. Nay hàng hạ căn đã tỏ ngộ rồi, không còn ai phải khuyến khích khơi động, cho nên chỉ ngấm ngầm suy nghĩ, không nói ra.
Lại nữa, phần trước chỉ trình bày sự nhận hiểu, không thỉnh cầu nêu rõ hình tích thị hiện, cho nên nói ra không có sự hiềm nghi. Nay thì vừa nêu sự nhận hiểu, vừa nêu rõ hình tích thị hiện, cho nên chỗ nhận hiểu chỉ âm thầm suy nghĩ, muốn tránh sự chê trách hiềm nghi nên ngấm ngầm không nói ra; ngấm ngầm suy nghĩ như vậy là thích hợp với hoàn cảnh. Lại nữa, im lặng nhận hiểu là sự nhận hiểu quan trọng. Như ngài Duy-ma-cật im lặng là chân thật thể nhập pháp môn Bất nhị. Lại nữa, pháp quyền thật không thể nghĩ bàn, không nói không nghĩ mà là có nói có nghĩ. Không nói mà nói, cho nên phần trước dùng lời để trình bày sự nhận hiểu. Lại không nghĩ mà nghĩ cho nên ở đây mới ngấm ngầm nhận hiểu.
Phần trước không thỉnh cầu [Phật] nêu rõ hình tích là có ý gì? Vì hàng hạ căn chưa tỏ ngộ, cho nên không thỉnh cầu nêu rõ hình tích. Nay hàng hạ căn đã nhận hiểu được rồi, việc quyền thừa giáo hóa đã trọn đủ, nếu nói rõ hình tích thị hiện của hàng hạ căn thì tất nhiên rõ biết hàng trung căn, thượng căn đều có pháp quyền thừa như vậy. Nếu [ngược lại] dựa theo hàng thượng căn và trung căn thì lại khó nhận hiểu đối với hàng hạ căn.
KINH VĂN
“Đức Thế Tôn hết sức lạ lùng đặc biệt, việc ngài làm thật vô cùng hy hữu. Ngài có thể tùy thuận biết bao nhiêu là căn tánh chủng loại khác biệt của chúng sanh thế gian, dùng sự thấy biết phương tiện mà thuyết pháp, cứu thoát chúng sanh ra khỏi mọi chỗ tham đắm bám chấp. Chúng con đối với công đức của Phật thật không thể nói ra, chỉ đức Thế Tôn mới có thể rõ biết bản nguyện sâu xa trong lòng chúng con.”[164]
Tiểu đoạn thứ nhất từ câu “Đức Thế Tôn hết sức lạ lùng đặc biệt, việc ngài làm thật vô cùng ít có.” Đây là nghĩa nhận hiểu thật trí.
“Ngài có thể tùy thuận biết bao nhiêu là căn tánh chủng loại khác biệt của chúng sanh thế gian, dùng sự thấy biết phương tiện mà thuyết pháp.” Đây là nghĩa nhận hiểu quyền trí. Tức là nói căn tánh của 7 hạng phương tiện. Câu này nhận hiểu ý nghĩa khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp thật trong phẩm Phương tiện.
“Cứu thoát chúng sanh ra khỏi mọi chỗ tham đắm bám chấp.” Tức là nhận hiểu ý nghĩa khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp thật trong thí dụ căn nhà bốc cháy.
“Chúng con đối với công đức của Phật thật không thể nói ra.” Đây là nhận hiểu ý nghĩa trong phẩm Thí dụ cỏ thuốc nói “Như Lai lại có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các công đức khác, cho dù các ông có diễn nói trong vô lượng ức kiếp cũng không thể cùng tận.” Đã nói rằng “không thể nói ra” thì có nghĩa là suy nghĩ cũng không thể thấu đạt.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “chỉ đức Thế Tôn mới có thể rõ biết” trở đi là ngấm ngầm trong suy niệm mà thỉnh cầu [Phật] nêu rõ hình tích thị hiện và thụ ký cho. Xưng “chúng con” ở đây là ý nghĩ chung, muốn thỉnh cầu Phật nêu rõ hình tích của nhiều người. “Sâu xa trong lòng” là cội gốc, là bản nguyên từ xưa, việc làm hiện nay là hình tích thị hiện, tức là nói bản nguyện, là thệ nguyện đại từ. Do tâm đại từ, dưới vì giáo hóa chúng sanh nên phát khởi thệ, trên vì cầu thành quả Phật nên phát khởi nguyện. Trên thỉnh cầu quả Phật, tức cầu thụ ký; dưới thỉnh thuyết dạy giáo hóa chúng sanh, tức cầu Phật nêu rõ hình tích.
Lại nữa, “sâu xa trong lòng” là nêu rõ trong 3 đời quá khứ, hiện tại và tương lai đều giúp Phật truyền giảng chánh pháp, giáo hóa chúng sanh. Từ bản nguyện ấy nên mong được Phật thụ ký.
KINH VĂN
Bấy giờ, đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Các ông có thấy Phú-lâu-na đây chăng? Ta thường khen Phú-lâu-na là bậc nhất trong những người thuyết pháp, lại cũng thường khen ngợi đủ mọi công đức của Phú-lâu-na, tinh tấn chuyên cần bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng giáo pháp của ta, có thể ở trong bốn chúng mà chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, làm cho thành tựu hoan hỷ, giải thích chánh pháp một cách trọn vẹn đầy đủ mà làm lợi lạc lớn lao cho hết thảy các vị đồng tu phạm hạnh. Ngoài đức Như Lai, không ai có thể thấu suốt hết sự biện giải giảng nói của Phú-lâu-na.[165]
Từ câu “Bấy giờ, đức Phật bảo…” trở đi là tổng đoạn thứ hai, đức Phật kể lại việc thuở xưa và thụ ký. Tổng đoạn này có kinh văn trường hàng và kệ tụng.
Kinh văn trường hàng có hai đoạn. Đoạn thứ nhất Phật kể lại bản nguyện cùng hình tích [của ngài Phú-lâu-na], đoạn thứ hai Phật ban lời thụ ký.
Đoạn thứ nhất có 3 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nói chung về công hạnh tu nhân và hình tích thị hiện [của ngài Phú-lâu-na] trong đời đức Phật Thích-ca. Tiểu đoạn thứ hai lược nói về công hạnh tu nhân và nêu rõ bản nguyên từ thời các đức Phật trong quá khứ của ngài Phú-lâu-na. Tiểu đoạn thứ ba nói chung về công hạnh tu nhân trọn đủ của ngài Phú-lâu-na trong cả 3 đời chư Phật, quá khứ, hiện tại và vị lai.
Tiểu đoạn thứ nhất nói công hạnh tu nhân và thị hiện hình tích vào thời Phật Thích-ca lại có 3 phân đoạn. Thứ nhất là nêu chỉ người muốn nói. Thứ hai là nêu khái quát ý nghĩa bản tích. Thứ ba là phân biệt giải thích về bản tích.
Phân đoạn thứ nhất, Phật nêu câu “Các ông có thấy Phú-lâu-na đây chăng?” có 2 ý nghĩa. Thứ nhất là hỏi đại chúng có nhìn thấy [Phú-lâu-na] thị hiện hình tích Tiểu thừa hay chăng? Thứ hai là hỏi có nhìn thấy công đức bản nguyên từ thuở xưa hay chăng? Đại chúng chỉ thấy thị hiện hình tích là Thanh văn, không thể thấy được bản nguyên vốn là Bồ Tát, cho nên Phật hỏi “có thấy chăng”.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Ta thường khen Phú-lâu-na…” trở đi là nêu rõ hình tích thị hiện của Phú-lâu-na, [có 2 ý nói về hình tích và bản nguyên].
Ý thứ nhất nói hình tích thị hiện của ngài Phú-lâu-na là bậc nhất trong số những người thuyết pháp. Nếu không phải bản nguyên là pháp thân mầu nhiệm thì chẳng thể dựa vào đâu mà thương xót thị hiện hình tích thù thắng bậc nhất như vậy. [Cho nên ý thứ nhất nói] từ trước đến nay Phật chỉ nói theo hình tích thị hiện, rằng Phú-lâu-na là vị thuyết pháp đệ nhất. Ngày hôm nay không phải như vậy, [mà nói rõ] trong giáo pháp Vô thượng ngài đã là bậc đệ nhất từ lâu xa. Đây là nêu hình tích để hiển lộ bản nguyên.
Ý thứ hai từ câu “Lại cũng thường khen ngợi…” trở đi là nêu nhân địa bản nguyên. Có đủ muôn công hạnh pháp môn phước tuệ, nên nói là “đủ mọi công đức”. Nhân địa bản nguyên đã có đủ mọi pháp môn, có lẽ nào chỉ hiển thị hình tích là hàng Nhị thừa thôi sao? Đây là nêu bản nguyên để làm rõ hình tích.
Phân đoạn thứ ba từ câu “tinh tấn chuyên cần bảo vệ giữ gìn…” là phần phân biệt giải thích. “Giúp sức truyền giảng giáo pháp của ta” là nói trong khi thị hiện hình tích đã trợ giúp việc truyền giảng cả giáo pháp viên mãn rốt ráo và giáo pháp chưa rốt ráo. Như khi thị hiện hình tích Thanh văn trong hàng hạ căn, tức là giúp sức truyền giảng giáo pháp [A-hàm như vị] sữa; thị hiện hình tích trong hội Phương đẳng nhận chịu sự trách mắng, tức là giúp sức truyền giảng giáo pháp như vị váng sữa sống (sanh tô); thị hiện hình tích nhận lãnh giáo pháp Bát-nhã, tức là giúp sức truyền giảng giáo pháp như vị váng sữa chín (thục tô); thị hiện hình tích trong hội Pháp hoa được tỏ ngộ, tức là giúp sức truyền giảng giáo pháp như vị đề hồ. Phần nêu tổng quát về bản nguyên ở trước nói “cũng thường khen ngợi đủ mọi công đức của Phú-lâu-na”, tức là nói ý nghĩa này.
Đầy đủ quyền thật công đức mà thị hiện hình tích phát khởi [giáo pháp] như 5 vị [của sữa], trợ giúp chư Phật thực hành điều phục thuần thục chúng sanh, lẽ nào lại không phải là ý nghĩa “tinh tấn chuyên cần… …giúp sức truyền giảng giáo pháp”?
Về sự phân biệt giải thích công đức bản tích, kinh văn nói “có thể ở trong bốn chúng mà chỉ bày” tức là phân biệt giáo pháp quyền thừa chưa rốt ráo. Nói “giải thích chánh pháp một cách trọn vẹn đầy đủ” là giúp sức truyền giảng giáo pháp Bát-nhã viên mãn rốt ráo. Nói “làm lợi lạc lớn lao” là giúp Phật làm lợi lạc cho chúng sanh chưa rốt ráo. “Các vị đồng tu phạm hạnh” là nói các đệ tử rốt ráo được thị hiện hình tích giáo hóa.
Từ câu “Ngoài đức Như Lai…” trở đi là phân biệt kể rõ công đức bản địa. Nói “ngoài đức Như Lai” tức là còn dưới bậc Diệu giác;[166] “không ai có thể thấu suốt được”[167] là nói 7 hạng phương tiện.
KINH VĂN
Các ông đừng cho rằng Phú-lâu-na chỉ có thể bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng giáo pháp của ta. Phú-lâu-na đã từng ở nơi đạo trường của 90 ức vị Phật[168] trong quá khứ mà bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng chánh pháp của chư Phật. Ở những nơi ấy, Phú-lâu-na cũng đều là bậc nhất trong số những người thuyết pháp. Phú-lâu-na lại thông đạt rõ ràng sáng tỏ đối với pháp không mà chư Phật thuyết dạy, đạt được bốn trí không ngăn ngại, thường có thể suy xét kỹ lưỡng để thuyết pháp thanh tịnh, không còn nghi hoặc, có đầy đủ sức thần thông của hàng Bồ Tát. [Trong những kiếp quá khứ ấy,] Phú-lâu-na thường luôn tu tập hạnh thanh tịnh suốt cả cuộc đời, nên người đời thuở ấy đều cho rằng Phú-lâu-na quả thật là Thanh văn, nhưng ông dùng phương tiện [hiện thân Thanh văn] đó để làm lợi ích cho vô số trăm ngàn chúng sanh, lại giáo hóa được vô số a-tăng-kỳ chúng sanh khiến cho đều trụ yên trong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì để đạt được cõi Phật thanh tịnh, Phú-lan-na thường làm các Phật sự, giáo hóa chúng sanh.[169]
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “các ông đừng cho rằng Phú-lâu-na chỉ có thể bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng giáo pháp của ta” trở đi, nêu việc từ thời chư Phật trong quá khứ để hiển bày bản hạnh của ngài Phú-lâu-na, không chỉ là trực tiếp giúp sức truyền giảng giáo pháp quyền thừa chưa rốt ráo ở chỗ Phật Thích-ca, mà từ thuở xa xưa ở nơi chư Phật quá khứ cũng đã giúp sức truyền giảng giáo pháp quyền thừa. Cho nên lấy việc giúp sức truyền giảng giáo pháp ngày nay để nêu rõ hình tích thị hiện, lấy việc giúp sức truyền giảng giáo pháp trong quá khứ để hiển lộ bản nguyên. Phần hiển lộ bản nguyên có hai ý. Thứ nhất là nói bản nguyên xa, thứ hai là nói bản nguyên gần. Bản nguyên xa thì mờ mịt khó tin nên lược đi không nói, chỉ nêu ra bản nguyên gần trong khoảng [thời đại giáo hóa của] 90 ức [vị Phật quá khứ]. [Những vị] có trí túc mệnh có thể biết được về bản nguyên gần, cho nên nêu ra bản nguyên gần để chứng minh cho bản nguyên xa.
Nói chung kinh văn nói về 90 ức [vị Phật quá khứ] là nêu rõ đầy đủ việc giúp Phật truyền giảng [các phần] giáo pháp như 5 vị [của sữa] để điều phục thuần thục chúng sanh. Nói “bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng” tức là dựa theo Phật mà giúp sức truyền giảng giáo pháp [A-hàm giống như] vị của sữa. Nói “chánh pháp của chư Phật” tức là dựa theo Phật mà giúp sức truyền giảng giáo pháp Phương đẳng giống như vị của váng sữa sống (sanh tô). “Lại thông đạt rõ ràng sáng tỏ đối với pháp không” tức là dựa theo Phật mà giúp sức truyền giảng giáo pháp giống như vị váng sữa chín (thục tô), lại cũng giống như đức Phật [Thích-ca] ngày nay chuyển pháp luân thuyết pháp Bát-nhã giảng rõ 6 pháp ba-la-mật, hỗ tương qua lại, thâu nhiếp lẫn nhau, xoay chuyển không ngăn ngại. [Ngài Phú-lâu-na] ở nơi 90 ức vị Phật [quá khứ] cũng giúp sức truyền giảng giáo pháp giống như ngày nay không khác. “Người đời thuở ấy đều cho rằng Phú-lâu-na quả thật là Thanh văn.” Vào lúc ấy còn chưa nêu rõ hình tích thị hiện, chỉ nói là [Thanh văn] vâng lệnh Phật để thuyết giảng giáo pháp Bát-nhã, không nói là Đại Bồ Tát. “Giáo hóa vô số a-tăng-kỳ chúng sanh khiến cho đều trụ yên trong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, tức là giúp sức truyền giảng giáo pháp [Nhất thừa giống như] vị đề hồ. Nghĩa này y theo kinh văn có thể hiểu được. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
Này các tỳ-kheo! Trong thời kỳ 7 vị Phật, Phú-lâu-na cũng là bậc nhất trong những người thuyết pháp, cho nên hiện nay ở chỗ của ta là bậc nhất trong những người thuyết pháp.[170] Đến thời chư Phật tương lai trong Hiền kiếp này,[171] Phú-lâu-na cũng sẽ là bậc nhất trong những người thuyết pháp, hơn nữa còn bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng pháp Phật, cũng như trong tương lai sẽ bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng giáo pháp của vô số chư Phật, giáo hóa làm lợi ích cho vô số chúng sanh, khiến cho phát khởi tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại vì cõi Phật thanh tịnh mà thường chuyên cần tinh tấn giáo hóa chúng sanh, dần dần trọn đủ đạo của hàng Bồ Tát.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Này các tỳ-kheo! Trong thời kỳ 7 vị Phật…” trở đi, nói về công hạnh tu nhân [của ngài Phú-lâu-na] trong cả 3 đời chư Phật, quá khứ, hiện tại và tương lai. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được, không cần giải thích. Cũng có thể dựa theo những giải thích ở trước về việc ngài giúp sức truyền giảng các phần giáo pháp chưa rốt ráo và rốt ráo viên mãn, giống như 5 vị của sữa, làm lợi ích cho hàng Đại thừa cũng như Tiểu thừa.[172]
_____________________________
CHÚ THÍCH
[1] Năm cơ quan nội tạng là tim, gan, phổi, thận và dạ dày.
[2] Văn Cú trích dẫn gộp các phần kinh văn này thành một và chỉ nói lược, chúng tôi dẫn lại đầy đủ theo kinh văn.
[3] Văn Cú nói “Sư vân - 師云” (thầy nói rằng). Văn Cú Ký giải thích, “Sư” chính là chỉ đến ngài Nam Nhạc Tuệ Tư (南嶽慧思), tức là thầy của Đại sư Trí Khải.
[4] Chỗ này Văn Cú nói “天性結緣 - thiên tánh kết duyên”, theo cách dùng trong sách này thì “thiên tánh” chỉ chân tánh, thật tánh hay tánh Phật. Tất cả chúng sanh đều sẵn có tánh Phật nên đó là sự kết duyên với Phật. Tuy nhiên, Văn Cú Ký giải thích rằng “thiên tánh” là chỉ cho đạo tràng của Phật Đại Thông Trí Thắng, tức là nói nhân duyên từ quá khứ. Giải thích như vậy là nói về sự, còn theo lý mà nói thì duyên với chư Phật chính là tánh Phật.
[5] Chỗ này Văn Cú chép rất khó hiểu: “自微自著無量無邊諸恩德也。 - Tự vi tự trước vô lượng vô biên chư ân đức dã.” Chúng tôi dựa theo giải thích của Văn Cú Ký để hiểu và chuyển dịch: “自微等者, 自從也。從小之大至第十恩故云諸也。 - Tự vi đẳng giả, tự tùng giả. Tùng tiểu chi đại chí đệ thập ân cố vân chư dã.”
[6] Văn Cú dùng “lưỡng xứ” (hai chỗ). Văn Cú Ký giải thích rằng 2 chỗ là nói đến ý nghĩa phương tiện của thí dụ “căn nhà đang cháy”, do trong phẩm Tin hiểu có 2 chỗ nêu sự nhận hiểu, nay ở đây cũng nhắc lại 2 chỗ nhận hiểu.
[7] Ở đây chỉ giáo pháp Tiểu thừa.
[8] Chỗ này Văn Cú lấy theo ý trong phần kệ tụng ở sau: “Hoặc ở giữa trời, người, làm Chuyển luân Thánh vương, hoặc Đế thích, Phạm vương, là hạng cỏ thuốc nhỏ.”
[9] Hàng Nhị thừa là chỉ đến hai pháp giới Thanh văn và Duyên giác, do vậy nói còn lại 8 pháp giới khác.
[10] Đây là nói đến tất cả những chúng sanh có khả năng tu tập thành Phật, bao gồm: 1. Nhân thừa, 2. Thiên thừa, 3. Thanh văn thừa, 4. Duyên giác thừa, 5. Bồ Tát Thừa của Tạng giáo, 6. Bồ Tát Thừa của Thông giáo và 7. Bồ Tát Thừa của Biệt giáo. Vì trừ ra 2 hạng Thanh văn và Duyên giác nên ở đây nói còn 5 hạng phương tiện khác.
[11] Văn Cú dùng “初阿 - sơ a” để chỉ mẫu tự đầu tiên trong 42 mẫu tự của Phạn ngữ và “後茶 - hậu trà” là mẫu tự cuối cùng. Ngài Nam Nhạc Tuệ Tư (thầy của Đại sư Trí Khải) có soạn sách Tứ thập nhị tự môn nghĩa (四十二字門義) nay không còn nữa, nhưng nội dung được biết là giải thích phối hợp 42 mẫu tự của Phạn ngữ với 42 giai vị tu hành của hàng Bồ Tát. Ý tưởng của Văn Cú ở đây hẳn là có chịu ảnh hưởng từ ngài Nam Nhạc Tuệ Tư.
[12] Ở đây chỉ giáo pháp Tiểu thừa.
[13] Năm đường: chỉ các cảnh giới trời, người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Khái niệm này cũng tương đương với “sáu đường”, là có thêm cảnh giới a-tu-la. Khi nói năm đường là cho rằng a-tu-la không phải một cảnh giới riêng biệt, mà tùy nghiệp tái sinh vào một trong hai cõi, cõi trời hoặc cõi người. Câu hỏi này để minh chứng cho ý nghĩa một pháp chân thật (hay tánh Phật) luôn tồn tại nơi mỗi chúng sanh trong suốt dòng thời gian, cho dù có luân chuyển qua bao nhiêu cảnh giới. Nói theo Văn Cú tức là theo chiều dọc.
[14] Câu hỏi này để minh chứng cho ý nghĩa bảy hạng phương tiện luôn hiện hữu đồng thời trong khắp thảy không gian, nói theo Văn Cú tức là theo chiều ngang.
[15] Văn Cú dùng “事度 - sự độ”, nghĩa là những sự việc giúp độ thoát khổ não. Ở đây chỉ giới luật do Phật chế định và các nghiệp lành giúp không rơi vào các đường ác.
[16] Văn Cú dùng “偏圓兩境 - thiên viên lưỡng cảnh”, thiên (偏) là thiên lệch, không trọn vẹn, nên thiên cảnh là chỉ cho cảnh giới tương đối của pháp quyền; viên (圓) là viên mãn, trọn vẹn, tròn đầy, nên viên cảnh là chỉ cho cảnh giới tuyệt đối của pháp thật.
[17] Nguyên tác dùng tam đạo (三道) để chỉ hoặc đạo (惑道), nghiệp đạo (業道) và khổ đạo (苦道).
[18] Nguyên tác dùng lục tế (六蔽), chỉ sáu tâm che chướng bao gồm: tham lam, sân hận, si mê, phá giới, lười nhác và tán loạn.
[19] Nguyên tác dùng tứ trụ (四住) và ngũ trụ (五住). Tứ trụ tức tứ trụ địa hoặc (四住地惑), bao gồm Nhất thiết kiến trụ địa hoặc (一切見住地惑), Dục ái trụ địa hoặc (欲愛住地惑), Sắc ái trụ địa hoặc (色愛住地惑), Hữu ái trụ địa hoặc (有愛住地惑). Ngũ trụ địa hoặc cũng bao gồm tương tự và có thêm Vô minh trụ địa hoặc (無明住地惑). Đây đều là các yếu tố làm khởi sinh phiền não.
[20] Chỗ này Văn Cú diễn đạt rất khó hiểu: “如地無差別草木若干若干無若干無若干若干。 - Như địa vô sai biệt, thảo mộc nhược can, nhược can vô nhược can, vô nhược can nhược can.” Chúng tôi dựa vào giải thích của Văn Cú Ký như sau: “若干者, 若如也。如彼法體, 法體本空, 故若干無若干。 - Nhược can giả, nhược như dã. Như bỉ pháp thể, pháp thể bản không, cố nhược can vô nhược can.” Như vậy, cụm từ “nhược can” vốn có 2 nghĩa, hoặc chỉ một số lượng không xác định, như “bao nhiêu”, hoặc đồng nghĩa với “nhược như”, nghĩa là giống như. Theo Văn Cú Ký thì ở đây dùng nghĩa “giống như, giống nhau”. Cũng như các pháp tuy thiên hình vạn trạng khác biệt nhau nhưng bản thể vốn là không nên nói là giống nhau. Do vậy ở đây nói rằng cây cỏ trên mặt đất “giống nhau là không giống nhau”. Tức là muốn nói đến sự tương đồng về bản chất rốt ráo.
[21] Trong kệ tụng phần sau phân chia ba hạng cỏ thuốc nhỏ, trung bình và bậc cao; 2 hạng cây là cây nhỏ và cây lớn.
[22] Tập nhân (習因), dịch từ Phạn ngữ sabhāga-hetu, nhân được tạo ra theo thói quen, ý niệm trước và ý niệm sau nối tiếp giống nhau nên gọi là “tập”. Theo Tân dịch là đồng loại nhân (同類因), tức là các nhân cùng loại với nhau. Chúng sanh do các tập nhân này mà dễ dàng tạo nghiệp. Kinh Lăng nghiêm, quyển 8, kể ra 10 tập nhân là: 1. Dâm tập nhân: thói quen dâm dục; 2. Tham tập nhân: thói quen tham lam; 3. Mạn tập nhân: thói quen kiêu mạn; 4. Sân tập nhân: thói quen sân hận; 5. Trá tập nhân: thói quen dối trá; 6. Cuống tập nhân: thói quen lừa gạt; 7. Oan tập nhân: thói quen oán ghét hận thù; 8. Kiến tập nhân: thói quen cố chấp theo tà kiến, định kiến; 9. Uổng tập nhân: thói quen vu cáo,nói điều không có cho người khác; 10. Tụng tập nhân: thói quen tranh tụng, kiện thưa.
[23] Tập quả (習果), dịch từ Phạn ngữ niṣyanda-phala, do tập nhân tạo thành nên gọi là tập quả. Theo Tân dịch là đẳng lưu quả (等流果), nghĩa là quả tương đương, cùng mức độ, hạng loại như nhân đã tạo.
[24] Ở đây nhắc lại 6 tiểu ý đã nói ở trước về cấu trúc của thí dụ này: Thứ nhất là nói mặt đất, thứ hai nêu cỏ cây, thứ ba nói đến mây đen, thứ tư nói mưa xuống, thứ năm nói sự thấm nhuần và thứ sáu nói sự tăng trưởng. Lập luận ở đây là các nhà cựu giải không thấy được cấu trúc 6 tiểu ý này nên đã giải thích rối loạn, không phù hợp.
[25] Văn Cú Ký giải thích rằng đây là nói hàng Bồ Tát Thông giáo và Bồ Tát Biệt giáo.
[26] Văn Cú dùng “七善 - thất thiện”, Văn Cú Ký giải thích rằng đây là chỉ “七方便 - thất phương tiện”, tức bảy hạng phương tiện. Kết hợp với 5 thừa thì ở đây chỉ tất cả chúng sanh ở các giai vị tu tập khác nhau.
[27] Ba sự ẩn mật, tức tam mật (三密), chỉ cho ba nghiệp thân, khẩu và ý của chư Phật là sâu xa khó nhận biết đối với phàm phu. Nguyên tác Văn Cú giải thích dựa theo sự tương đồng về ngữ nghĩa vì mật vân (密雲) nghĩa là đám mây đen dày nên được cho là ví như tam mật (三密), tức là thân mật, khẩu mật và ý mật.
[28] Kinh luật dị tướng (經律異相), 50 quyển, Bảo Xướng sưu tập vào đời Lương, đưa vào Đại Chánh tạng, thuộc tập 53, số 2121. Chúng tôi chưa tìm thấy đoạn trích dẫn này.
[29] Văn Cú dùng “八音 - bát âm”, chỉ 8 tính chất trong âm thanh thuyết pháp của đức Phật, bao gồm: 1. Âm thanh tốt nhất, không có âm thanh của chư thiên hay loài người có thể tốt đẹp hơn; 2. Âm thanh êm dịu, khiến chúng sanh ưa thích muốn nghe; 3. Âm thanh hòa nhã, không có sự xung khắc, mâu thuẫn; 4. Âm thanh trí tuệ tôn quí, sáng suốt soi thấu nên đi vào tâm niệm chúng sanh; 5. Âm thanh không yếu mềm, có thể khiến cho hết thảy người nghe đều kính ngưỡng, thiên ma ngoại đạo đều khiếp sợ, quy phục; 6. Âm thanh không nhầm lẫn, khiến người nghe luôn nhận hiểu rõ ràng, không sai lệch; 7. Âm thanh sâu xa, có thể vang xa đến mười phương nhưng chúng sanh ở gần cũng không nghe quá lớn; 8. Âm thanh không cùng tận, những lời Phật nói ra nghĩa lý sâu xa, chúng sanh suy xét không thể nào cùng tận.
[30] Văn Cú dùng “tứ biện” để chỉ bốn trí vô ngại, cũng gọi là bốn biện tài vô ngại của đức Phật, bao gồm: 1. Pháp vô ngại biện; 2. Từ vô ngại biện; 3. Nghĩa vô ngại biện và 4. Nhạo thuyết vô ngại biện. Đức Phật dùng trí tuệ sáng suốt không ngăn ngại để thuyết pháp cho chúng sanh, do vậy nên bốn trí vô ngại cũng gọi là bốn biện tài vô ngại.
[31] Cũng tức là 7 hạng phương tiện thường đề cập trong sách này, gồm nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa của Tạng giáo, Bồ tát thừa của Thông giáo và Bồ tát thừa của Biệt giáo.
[32] Văn Cú dùng chữ “大段 - đại đoạn” để chỉ đoạn văn này, theo cấu trúc chung là tiểu ý thứ hai.
[33] Đạo tiền (道前), cũng được gọi là địa tiền (地前), chỉ các giai vị Thập tín, Thập trụ, Thập hành, Thập hồi hướng, tức là chưa đạt đến Thập địa.
[34] Bồ Tát từ Sơ địa lên đến Thập địa gọi là Đạo trung (道中), nghĩa là đang tu tập trí vô phân biệt. Từ khi đạt tâm Kim cương trở lên, tu hành chứng ngộ rốt ráo gọi là Đạo hậu (道後).
[35] Năm thừa: chỉ nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. Văn Cú dùng “五種善根 - ngũ chủng thiện căn” (5 loại căn lành) nhưng theo ngữ cảnh đang giảng giải ở đây là chỉ đến căn lành của chúng sanh trong 5 thừa. Văn Cú Ký cũng giải thích tương tự: “五種善根即五乘也。 - Ngũ chủng thiện căn tức ngũ thừa giả.”
[36] Hóa chủ (化主), bậc đứng đầu trong việc giáo hóa chúng sanh, thường có nghĩa là trong một cõi thế giới. Vì thế, hóa chủ của cõi Ta-bà là đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
[37] Trong 6 cõi bao gồm: trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì 3 cõi trời, người, a-tu-la được xem là 3 cõi lành hay 3 đường lành; địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh là 3 cõi xấu ác hay 3 đường ác.
[38] Ở đây có 2 nghĩa. Thứ nhất là nói chúng sanh vâng lời Phật dạy, giữ giới làm lành nên thoát 3 đường ác, sanh 3 đường lành, đó là lợi ích. Thứ hai là nói những chúng sanh trong 3 cõi lành mới đủ nhân duyên được đức Phật hiện thân giáo hóa bằng lời.
[39] Văn Cú dùng “四弘 - tứ hoằng”, tức tứ hoằng thệ nguyện hay bốn nguyện lớn, bao gồm: 1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ; 2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn; 3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học; 4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
[40] Văn Cú dùng “三達 - tam đạt”, tức là cách gọi khác của tam minh (三明), ba trí sáng suốt của chư Phật, bao gồm: 1. Túc mệnh trí chứng minh; 2. Sanh tử trí chứng mình; 3. Lậu tận trí chứng minh.
[41] Nhất tâm tam trí (一心三智), tức là ngay trong một tâm của chư Phật có đủ 3 trí, bao gồm Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí.
[42] Đây là nói về “三不護 - tam bất hộ” của chư Phật. Hết thảy chúng sanh nếu muốn được an vui thì phải luôn phòng hộ ba nghiệp thân, khẩu, ý. Chư Phật vì đã đạt đến sự giải thoát rốt ráo, ba nghiệp vốn tự thanh tịnh, không cần phải có sự giữ gìn phòng hộ mà vẫn luôn luôn thanh tịnh không ô nhiễm.
[43] Ở đây dùng 6 loại pháp môn (六種法門 - lục chủng pháp môn) nhưng thật ra là chỉ 6 ý nghĩa vừa được nêu ra trong đoạn kinh văn này, từ thứ nhất là 10 danh hiệu Phật cho đến thứ sáu là nêu 3 nghiệp thanh tịnh của chư Phật.
[44] Tiệm giáo, chỉ giáo pháp tu tập theo thứ lớp, dần dần từ thấp lên cao, cũng có nghĩa là giáo pháp Tiểu thừa, phân biệt với Đốn giáo là giáo pháp dẫn đến sự nhận hiểu tức thời, cũng được hiểu là giáo pháp Đại thừa.
[45] Ở đây Văn Cú dẫn trước nội dung kinh văn trong phẩm Thí dụ Hóa thành. Văn Cú chỉ lược trích, không dẫn lại nguyên văn kinh.
[46] Kinh văn dùng “餘國 - dư quốc”, Văn Cú giải thích rằng đó là cảnh giới bên ngoài ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới), vẫn có Phật, tức là “餘佛 - dư Phật”. Các vị A-la-hán nhập Niết-bàn Tiểu thừa tức là vượt ngoài ba cõi, nhưng vẫn còn có khả năng gặp “dư Phật” ở cảnh giới đó, được nghe kinh này để giác ngộ và đạt đến quả Phật.
[47] Văn Cú dùng “生身 - sanh thân”, chỉ thân xác thịt do cha mẹ sanh ra. Đối với chư Phật, Bồ Tát thì đây là ứng hóa thân, thị hiện giữa thế gian vì mục đích độ sanh.
[48] Ý nói là vị Duyên giác, hay Độc giác, có thể tự mình suy xét hiểu đạo, không phụ thuộc vào việc nghe pháp từ người khác như hàng Thanh văn.
[49] Hàm ý vị Bồ Tát tu tập Bồ Tát hạnh có đủ phước đức và trí tuệ, do vậy trong tâm có trí sáng suốt, bên ngoài có đủ hình tướng trang nghiêm tốt đẹp.
[50] Văn Cú ở đây có vài chỗ khó hiểu. Thứ nhất, dẫn Trí độ luận nói “ngũ thiện căn” nghĩa là 5 căn lành, nhưng Nguyên tác chỉ nói “ngũ thiện”, và ngữ cảnh ở đây cũng chỉ đến 5 cảnh giới lành. Thứ hai, Văn Cú nói “佛菩薩為五。 - Phật Bồ Tát vi ngũ.” Nói như vậy là lược bớt rất khó hiểu, vì Pháp hoa huyền luận nói đúng là: “佛菩薩為二善。 - Phật Bồ Tát vi nhị thiện.” Ý nghĩa đầy đủ chỗ này là “Phật và Bồ Tát là 2 cảnh giới lành, cộng với trước đó là 5”.
[51] Đây là nói chư Phật, Bồ Tát phân chia thành 2 cõi, hàng Nhị thừa hợp nhất thành 1 cõi.
[52] Đây là nói nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa và Duyên giác thừa được phân chia riêng biệt, trong khi Đại thừa chỉ có một là Bồ Tát thừa.
[53] Kinh Thắng Man đưa ví dụ cõi đất có 4 kho báu (tứ tạng) so sánh với việc vị Bồ Tát hóa độ chúng sanh theo 4 hạng: Thứ nhất là hàng trời người, thứ hai là Thanh văn, thứ ba là Duyên giác và thứ tư là Đại thừa. Do vậy nói là kết hợp phàm (hợp trời và người thành một) và phân chia thánh (phân chia Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa).
[54] Có nghĩa là hạng phàm được chia ra nhân thừa và thiên thừa, bậc thánh được chia thành 3 thừa Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát.
[55] Văn Cú nói là 6 “pháp môn”, nhưng thật ra là chỉ 6 nghĩa xưng tán Phật trong đoạn kinh trước, từ 10 danh hiệu Phật cho đến 3 nghiệp thanh tịnh của chư Phật.
[56] Không thấy Văn Cú nói đến tiểu ý thứ ba, lẽ ra là ứng hợp với thí dụ mặt đất.
[57] Văn Cú dùng “七相 - thất tướng” (7 tướng), Văn Cú Ký giải thích rằng đây là chỉ thất phương tiện.
[58] Tức là 7 thừa giáo pháp tương ứng với 7 hạng phương tiện: nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa của Tạng giáo, Bồ Tát thừa của Thông giáo và Bồ Tát thừa của Biệt giáo.
[59] Ý nghĩa ở đây tương tự như trong kinh Duy-ma-cật có nói: “佛以一音演說法, 眾生各各隨所解。 - Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sanh các các tùy sở giải.” (Phật dùng một âm thanh diễn thuyết pháp, chúng sanh mỗi loài tùy theo đó nhận hiểu thích hợp.)
[60] Ở đây nêu giáo lý căn bản của 3 thừa. 4 đế dành cho Thanh văn thừa, 12 nhân duyên dành cho Duyên giác thừa và 6 ba-la-mật dành cho Bồ Tát thừa.
[61] Văn Cú dùng “五人 - ngũ nhân” chỉ người trong 5 thừa, ý nghĩa chính xác hơn là muốn chỉ đến chúng sanh trong các cảnh giới của 5 thừa: trời, người, Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát.
[62] Ở đây chỉ 3 phẩm đức của chư Phật, bao gồm pháp thân đức, bát-nhã đức và giải thoát đức.
[63] Văn Cú dùng “ngũ vô gián”, chỉ 5 tội nặng phải đọa vào địa ngục vô gián, cũng gọi là ngũ nghịch tội, bao gồm: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật chảy máu và phá hòa hợp tăng.
[64] Ba loại trí tuệ, chỉ văn tuệ (do nghe pháp), tư tuệ (do suy xét pháp) và tu tuệ (do tu tập, thực hành pháp).
[65] Văn Cú gọi là Trung sư (忠師), chúng tôi chưa rõ là vị nào.
[66] Tức là các pháp thế giới tất đàn, vị nhân tất đàn và đối trị tất đàn.
[67] Ở đây liệt kê tương ứng với phần thứ hai ở trước, theo trình tự các thí dụ: thứ nhất là đám mây, thứ hai là mưa xuống, thứ ba là mặt đất, thứ tư là cỏ cây, thứ năm là sự thấm đẫm và thứ sáu là sự tăng trưởng của cỏ cây.
[68] Tức là 6 ý nghĩa này đã nói ở trước, bao gồm: Thứ nhất là 10 danh hiệu của chư Phật, thứ hai là 4 hoằng thệ nguyện, thứ ba là 3 trí sáng suốt, thứ tư là 1 tâm Phật có đủ 3 trí, thứ năm là Phật có đủ 5 loại mắt, thứ sáu là 3 nghiệp của chư Phật đều vận hành theo trí tuệ.
[69] Hai ý ở đây tức là nói về 10 danh hiệu của chư Phật và 4 hoằng thệ nguyện, lược 4 ý theo sau.
[70] Trong đoạn văn này Văn Cú mô tả việc phân chia cấu trúc không đủ chi tiết nên rất khó hiểu, chúng tôi phải kết hợp giữa ý nghĩa các đoạn và cấu trúc tổng thể để hiểu đúng và bổ sung các chi tiết phân chia cấu trúc của đoạn này. Độc giả có thể xem cấu trúc chung trong biểu đồ ở đầu phẩm.
[71] Văn Cú dùng “誓扶餘習 - thệ phù dư tập” là cách nói lược rất khó hiểu. Tham khảo Duy-ma kinh lược sớ thùy dụ ký (維摩經略疏垂裕記) quyển 2, thấy giải thích cách dùng này là: “願扶餘習者, 以習為入生死之種, 誓願扶之受身利物。 - Nguyện phù dư tập giả, dĩ tập vi nhập sanh tử chi chủng, thệ nguyện phù chi thọ thân lợi vật.” Như vậy, “dư tập” ở đây chỉ những tập khí còn sót lại, chưa dứt trừ hết. Vị Bồ Tát dùng chính những tập khí này để phát nguyện thọ thân trong sanh tử mà giáo hóa, làm lợi ích cho chúng sanh.
[72] Tức là chỉ 5 thời thuyết pháp, từ Hoa nghiêm, A-hàm, Phương đẳng, Bát-nhã và Pháp hoa-Niết-bàn, được ví như 5 vị được chế biến từ sữa. Hàng Nhị thừa theo Phật được nghe đầy đủ cả 5 thời thuyết pháp này.
[73] Nguyên tác dùng “智斷 - trí đoạn”, chỉ trí tuệ có công năng dứt trừ lậu hoặc.
[74] Kinh Tịnh Danh là tên khác của kinh Duy-ma-cật sở thuyết. Ở đây Văn Cú chỉ dẫn theo ý. Nguyên tác đoạn này nằm trong phẩm Bồ Tát, kinh Duy-ma-cật sở thuyết: “若以如生得受記者,如無有生;若以如滅得受記者,如無有滅 。 - Nhược dĩ như sanh đắc thụ ký giả, như vô hữu sanh; nhược hữu như diệt đắc thụ ký giả, như vô hữu diệt.” (Nếu là như sanh mà được thụ ký thì như không có sanh; nếu là như diệt mà được thụ ký thì như không có diệt.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 14, số 475, trang 542, tờ b, dòng 10-12.
[75] Nguyên tác Văn Cú nói “kinh Tư ích”, tức là kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn (思益梵天所問經), 4 quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch, thuộc Đại Chánh tạng, Tập 15, kinh số 586.
[76] Như đã giảng giải ở trước, gồm các phần thuyết chánh pháp, thuyết thí dụ và thuyết nhân duyên.
[77] Tức là hạ căn, trung căn và thượng căn.
[78] Chậm hoặc nhanh ở đây là nói thời gian người được thụ ký sẽ thành Phật, như trường hợp Long nữ thành Phật trong kinh Pháp hoa này là nhanh, trường hợp các đại đệ tử Thanh văn còn phải trải nhiều kiếp cúng dường chư Phật là chậm.
[79] Nguyên tác Văn Cú dùng “懸記 - huyền ký”, Văn Cú Ký giải thích là “懸記, 應言現未, 但是文略。 - Huyền ký, ưng ngôn hiện vị, đãn thị văn lược.” (Huyền ký, lẽ ra nói là hiện tại, vị lai, nhưng do văn nói lược.)
[80] Theo bốn loại thụ ký trong kinh Thủ-lăng-nghiêm thì còn có trường hợp mật thụ ký, tức là Phật thụ ký nhưng bản thân người được thụ ký không biết. Văn Cú ở đây lược đi, không nói đến trường hợp này.
[81] Nội dung 8 trường hợp thụ ký này đúng là được trích dẫn từ kinh Bồ Tát Anh Lạc (菩薩瓔珞經), quyển 9 (Đại Chánh tạng, Tập 16, số 656), nhưng trong khi chuyển dịch, chúng tôi tham khảo và phát hiện Văn Cú không chỉ lược dẫn mà còn có đôi chỗ dẫn không chính xác. Chúng tôi sẽ ghi chú rõ ở từng chỗ.
[82] Nguyên tác Văn Cú viết: “遠者不覺者彌勒是也。 - Viễn giả bất giác giả, Di-lặc thị dã.” (Người xa không biết, đó là trường hợp của Bồ Tát Di-lặc.) Tuy nhiên, kinh Bồ Tát Anh Lạc (菩薩瓔珞經), quyển 9, nói ngược lại: “遠者得決近者不得, 如此等人彌勒身是。 何 以 故。此善男子善女人諸根具足, 不捨如來無著之行, 是故受決遠者自覺近者不知。- Viễn giả đắc quyết, cận giả bất đắc, như thử đẳng nhân Di-lặc thân thị. - Hà dĩ cố? Thử thiện nam tử thiện nữ nhân chư căn cụ túc, bất xả Như Lai vô trước chi hạnh, thị cố thụ quyết viễn giả tự giác cận giả bất tri.” (Người ở xa biết, ở gần không biết, những người như vậy là giống như trường hợp Bồ Tát Di-lặc. Vì sao vậy? Vì thiện nam thiện nữ đó đầy đủ các căn lành, không từ bỏ hạnh không bám chấp của Như Lai, cho nên khi được thụ ký thì người ở xa đều tự biết mà kẻ ở gần không biết.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 16, số 656, trang 82, tờ a, dòng 8-11.
[83] Văn Cú viết là “近者不覺。 - Cận giả bất giác.” (Người ở gần không biết.) Cũng như trường hợp trên, kinh Bồ Tát Anh Lạc nói ngược lại: “近者覺知遠者不見。 - Cận giả giác tri, viễn giả bất giác.” (Người ở gần biết, người ở xa không biết.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 16, số 656, trang 82, tờ a, dòng 12-13. Mọi chi tiết khác đều được Văn Cú trích dẫn đúng nhưng lược bớt.
[84] Chỗ này Văn Cú diễn đạt rất dễ làm cho người đọc hiểu sai: “不能悉知如來藏 - bất năng tất tri Như Lai tạng” (không thể rõ biết hết về Như Lai tạng). Câu kinh tương ứng với nội dung này trong kinh Bồ Tát Anh Lạc là: “未能備悉如來法藏 - vị năng bị tất Như Lai pháp tạng” (chưa có đầy đủ kho tàng chánh pháp của Như Lai). “Như Lai tạng” là thuật ngữ có thể được hiểu như chân tánh, chân như, tánh Phật, tánh Như Lai… để chỉ tiềm năng giác ngộ sẵn có trong mọi chúng sanh, nhưng “Như Lai pháp tạng” thì chỉ đến kho tàng kinh điển, giáo pháp của Như Lai. Và đây mới là ý nghĩa đúng của đoạn kinh văn này.
[85] Như đã nói trên, 8 trường hợp thụ ký này được Văn Cú dẫn lại nội dung từ kinh Bồ Tát Anh Lạc, quyển 9. Tuy nhiên, 2 trường hợp thứ năm và thứ sáu đã bị diễn đạt ngược lại. Đây có thể là sai lệch trong quá trình sao chép, vì các nội dung diễn đạt trong mỗi điều không sai nhưng chỉ có đề mục nêu vấn đề bị sai. Quan trọng hơn nữa, chúng tôi tham khảo và phát hiện Từ điển Phật Quang khi giải thích mục từ “bát chủng thụ ký” đã hoàn toàn dựa vào Văn Cú nên cũng bị sai lệch tương tự. Lẽ ra Từ điển Phật Quang nên dựa vào tư liệu gốc là kinh Bồ Tát Anh Lạc, thay vì sử dụng nội dung được dẫn lại trong Văn Cú.
[86] Nội dung này được trích từ kinh Bồ Tát Anh Lạc. Kinh này gọi Ma vương Ba-tuần là Tế-ma Ba-tuần (弊魔波旬).
[87] Theo những giải thích ở đây thì “gần” và “xa” dường như cũng có thể được hiểu theo nghĩa về thời gian. Theo đó thì “gần” là nói những người đương thời và “xa” là chỉ các thế hệ trong tương lai.
[88] Nguyên tác dùng “便利不淨 - tiện lợi bất tịnh” để chỉ các chất thải từ thân người, tức là phân, nước tiểu. Tham khảo luận Đại thừa Tập Bồ Tát Học (大乘集菩薩學論) có câu: “滿盛諸穢惡。謂眵洟涎唾。及便利不淨。 - Mãn thịnh chư uế ố, vị si di tiên thóa cập tiện lợi bất tịnh.” (Đầy những thứ dơ xấu, đó là nói những dử ghèn, nước mũi, nước dãi, nước bọt cùng những thứ phân, nước tiểu dơ.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 32, số 1636, trang 92, tờ a, dòng thứ 5.
[89] Ý nghĩa này tương hợp với việc người chứng quả A-la-hán, tức Niết-bàn của Nhị thừa, là đã dứt trừ được tất cả kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi.
[90] Nguyên tác dùng “三達 - tam đạt”, tức là tam minh (三明), chỉ 3 năng lực siêu việt của chư Phật, bao gồm túc mệnh minh (宿命明), thiên nhãn minh (天眼明) và lậu tận minh (漏盡明). Với túc mệnh minh, chư Phật có thể rõ biết về quá khứ của chúng sanh trong một đời cho đến vô số đời trước.
[91] Nguyên tác là “五百四十萬億那由他劫 - ngũ bá tứ thập vạn ức na-do-tha kiếp”, nếu theo các giá trị đã biết mà tính ra thì là 540 tỷ na-do-tha-kiếp, vì mỗi muôn là 10.000, mỗi ức là 100.000, nên một muôn ức là một tỷ. Tuy nhiên, những cách mô tả như thế này trong kinh điển chỉ nên hiểu theo nghĩa biểu trưng hơn là sự tính đếm chính xác, do đó chúng tôi giữ nguyên cách diễn đạt của Nguyên tác mà không tính ra cụ thể. Na-do-tha cũng là một số đếm nhưng giá trị không được xác định rõ, có nhiều tư liệu nói khác nhau, hoặc bằng 100.000, hoặc bằng một triệu, cũng có chỗ nói là mười triệu.
[92] Nguyên tác là “ 四王諸天 - Tứ vương chư thiên”, chỉ Tứ thiên vương (四天王), cũng được gọi là Tứ vương thiên (四王天), là bốn vị Hộ thế Thiên vương (護世四天王) thường hộ trì bốn cõi thiên hạ ở bốn phương đông tây nam bắc. Đó là Trì quốc Thiên vương (持國天王) ở phương đông, Tăng trưởng Thiên vương (增長天王) ở phương nam, Quảng mục Thiên vương (廣目天王) ở phương tây và Đa văn Thiên vương (多聞天王) ở phương bắc.
[93] Nguyên tác dùng Phạm cung (梵宮), tức chỉ cung điện của vị Phạm thiên vương.
[94] Tên đầy đủ là Quá khứ hiện tại nhân quả kinh (過去現在因果經), Trong Đại Chánh tạng, Tập 3, số 189. Phần nội dung trích dẫn ở đây bắt đầu từ trang 624, tờ b, dòng 29.
[95] Nguyên tác dùng “三千國土 - tam thiên quốc độ” thật ra là cách nói tắt của “三千大千國土 - tam thiên đại thiên quốc độ”, chỉ tất cả các cõi nước trong một thế giới đại thiên. Chữ “tam thiên” mang ý nghĩa “3 lần số ngàn” chứ không phải chỉ 3.000 cõi nước, do một thế giới đại thiên được hình thành bởi 3 lần số ngàn: 1.000 thế giới là 1 thế giới tiểu thiên, 1.000 thế giới tiểu thiên là 1 thế giới trung thiên, 1.000 thế giới trung thiên là 1 thế giới đại thiên. Đây là cách nhận hiểu về vũ trụ được phổ biến trong nhiều kinh điển.
[96] Mô tả này tương ứng với đoạn này trong kinh Pháp hoa: “Trong các cõi nước ấy, những nơi tối tăm ánh sáng mặt trời mặt trăng không soi chiếu đến thì nay đều sáng rực. Những chúng sanh nơi ấy đều nhìn thấy nhau, liền nói rằng: ‘Ở nơi đây sao bỗng dưng lại sanh ra chúng sanh!’”
[97] Chỗ này Văn Cú chỉ trích lại giản lược nên không rõ nghĩa. Nguyên văn trong kinh Quá khứ hiện tại nhân quả là: “菩薩晨朝於母胎中,為色界諸天,說種種法。至日中時,為欲界諸天,亦說諸法。晡時,又復為諸鬼神說法。於夜三時,亦復如是。 - Bồ Tát thần triêu ư mẫu thai trung vị Sắc giới chư thiên thuyết chủng chủng pháp; chí nhật trung thời vị Dục giới chư thiên diệc thuyết chư pháp; bô thời hựu phục vị chư quỷ thần thuyết pháp; ư dạ tam thời diệc phục như thị.” (Bồ Tát vào buổi sáng ở trong thai mẹ mà vì chư thiên cõi Sắc thuyết đủ mọi giáo pháp; đến giữa ngày lại vì chư thiên cõi Dục thuyết giảng các giáo pháp; buổi chiều lại vì các quỷ thần mà thuyết pháp; suốt 3 thời trong đêm cũng thuyết pháp như vậy.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 3, số 189, trang 624, tờ c, dòng 20-23.
[98] Hai chân đế hay nhị đế, chỉ không đế và giả đế, 2 sự thật được người tu tập quán chiếu để hướng đến sự giải thoát.
[99] Ba chân đế hay tam đế, chỉ không đế, giả đế và trung đế.
[100] Trong Nguyên tác kinh văn sử dụng thay đổi nhiều cách gọi tên khác nhau như Phạm thiên, Phạm thiên vương, Đại phạm thiên vương, nhưng tất cả đều chỉ đến vị thiên chủ của mỗi thế giới. Vị này được xem là người đứng đầu trong thế giới nên cũng gọi là Thế chủ thiên. Kinh văn đang nói đến 500 muôn ức cõi nước về phương đông, nên ở đây được hiểu là có 500 muôn ức vị Phạm thiên vương cùng hội họp. Chúng tôi sẽ chuyển dịch nhất quán danh xưng này là Phạm thiên vương để người đọc dễ nhận hiểu.
[101] Nguyên tác dùng “今佛 - kim Phật” (Phật ngày nay), tức chỉ đức Phật Thích-ca Mâu-ni vào thời điểm thuyết kinh Pháp hoa, vì đang so sánh với Phật quá khứ được nhắc đến là đức Phật Đại Thông Trí Thắng.
[102] Nguyên tác dùng “具轉五味法輪 - cụ chuyển ngũ vị pháp luân”, chỉ việc đức Phật Thích-ca đã thuyết giảng đủ 5 tầng bậc giáo pháp được ví như 5 vị của sữa, bao gồm các thời Hoa nghiêm (như vị sữa tươi), thời A-hàm (như vị sữa đặc), thời Phương đẳng (như vị váng sữa sanh tô), thời Bát-nhã (như vị váng sữa thục tô) và cuối cùng là thời Pháp hoa - Niết-bàn (như vị đề hồ).
[103] Nguyên tác dùng “滿教 - mãn giáo”, tức giáo pháp viên mãn, tức giáo pháp rốt ráo, không phải pháp quyền thừa. Pháp quyền thừa không rốt ráo, chưa viên mãn, ở đây được gọi là “半教 - bán giáo”.
[104] Nguyên tác dùng “對半明滿 - đối bán minh mãn”, nghĩa là so sánh chỉ rõ sự khác biệt giữa giáo pháp Tiểu thừa và giáo pháp Đại thừa, cũng thường được giải thích là chê trách pháp Tiểu thừa để làm sáng tỏ pháp Đại thừa.
[105] Nguyên tác là “帶半明滿 - đái bán minh mãn”, hàm ý vẫn giữ pháp quyền thừa không viên mãn và tiếp tục giảng rõ về giáo pháp viên mãn. Đây là giai đoạn hành giả trong ba thừa cùng tu học, mỗi hạng căn cơ tu tập theo pháp môn của mình.
[106] Nguyên tác là “三轉十二行法輪 - tam chuyển thập nhị hành pháp luân”, “thập nhị hành” nói đủ là thập nhị hành tướng (十二行相). “Tam chuyển” là 3 lần chuyển, tức 3 lần chỉ dạy, ở đây là chỉ dạy về 4 chân đế. Lần thứ nhất là “thị chuyển”, tức là chỉ dạy cho biết về ý nghĩa của 4 chân đế: đây là khổ v.v.; lần thứ hai là “khuyến chuyển”, tức là khuyên bảo, khuyến khích nên thực hành tu tập quán chiếu về 4 chân đế: đây là khổ, nên rõ biết v.v.; lần thứ ba là “chứng chuyển”, tức là chứng nghiệm thực sự: đây là khổ, đã chứng biết v.v. Vì mỗi chân đế đều có đủ 3 hành tướng là thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển, nên Phật thuyết dạy đầy đủ 4 chân đế là gồm 12 hành tướng.
[107] Ba minh (三明 - tam minh), bao gồm túc mệnh minh (宿命明), thiên nhãn minh (天眼明) và lậu tận minh (漏盡明), tức là ba sự sáng suốt rõ biết của bậc giác ngộ.
[108] Sáu thần thông (六通 - lục thông), bao gồm thần túc thông (神足通), thiên nhãn thông (天眼通), thiên nhĩ thông (天耳通), tha tâm thông (他心通), túc mạng thông (宿命通), và lậu tận thông (漏盡通), tức là 6 năng lực siêu nhiên của bậc giác ngộ.
[109] Tám môn giải thoát (八解脫 - bát giải thoát), còn gọi là tám sự buông xả (八背捨 - bát bội xả), là tám phép thiền định giải thoát, bao gồm: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Ở trong sắc giới, quán nội sắc và ngoại sắc, nhằm trừ bỏ tâm ham thích sắc thể; 2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Không quán nội sắc, quán ngoại sắc, nhận ngoại sắc là ô nhiễm; 3. Tịnh thân tác chứng cụ túc tác giải thoát: Quán tưởng về thanh tịnh nhưng không chấp giữ; 4. Không vô biên xứ giải thoát: Vượt qua sắc thể, quán tưởng rằng hư không là vô biên; 5. Thức vô biên xứ giải thoát: Đạt đến ý niệm thức là vô biên; 6. Vô sở hữu xứ giải thoát: Đạt địa vị trong tâm không còn gì; 7. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát: Đạt đến mức định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; 8. Diệt tận định giải thoát: Đạt mức định Diệt thọ tưởng xứ.
[110] Nguyên tác dùng “半字 - bán tự”, lấy ý trong kinh Đại Bát Niết-bàn để chỉ giáo pháp chưa rốt ráo, giáo pháp quyền thừa chưa viên mãn, cho nên cũng đồng nghĩa với “bán mãn” được dùng ở đoạn trước.
[111] Tam tuệ tức là văn tuệ (trí tuệ do nghe pháp), tư tuệ (trí tuệ do suy ngẫm pháp) và tu tuệ (trí tuệ do tu tập, thực hành pháp).
[112] Chân lý được đề cập trong 4 giai đoạn “nhãn, trí, minh, giác” này là chỉ 4 chân đế: khổ, tập, diệt, đạo.
[113] 48 pháp, hay 48 trí, tức là dựa theo 4 chân đế để lần lượt quán chiếu 12 nhân duyên, nhờ đó mà khởi sanh 48 trí.
[114] Giải thích về 16 tâm này ở đây có vẻ như dựa vào luận Câu-xá (阿毘達磨俱舍論 - A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận), quyển 23, được kể ra chi tiết bao gồm: 1. Khổ pháp trí nhẫn; 2. Khổ pháp trí; 3. Tập pháp trí nhẫn; 4. Tập pháp trí; 5. Diệt pháp trí nhẫn; 6. Diệt pháp trí; 7. Đạo pháp trí nhẫn; 8. Đạo pháp trí; 9. Khổ loại trí nhẫn; 10. Khổ loại trí; 11. Tập loại trí nhẫn; 12. Tập loại trí; 13. Diệt loại trí nhẫn; 14. Diệt loại trí; 15. Đạo loại trí nhẫn; 16. Đạo loại trí. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 29, số 1558.)
[115] Nguyên tác Văn Cú dùng “Đại Phẩm”, ở đây chỉ Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật kinh (摩訶般若波羅蜜經), quyển 6. Phẩm Phát thú (發趣品) là phẩm thứ 20.
[116] Luận Nhiếp Đại thừa (攝大乘論), 2 quyển, Luận sư A-tăng-già, Phật-đà-phiến-đa Hán dịch. Xem Đại Chánh tạng Tập 31, kinh số 1592.
[117] Tức A-tì-đàm bát kiền độ luận (阿毘曇八犍度論), 30 quyển, Luận sư Ca-chiên-diên Tử, Tăng-già-đề-bà và Trúc Phật Niệm Hán dịch. Phần nói đến 6 pháp đầy đủ (lục túc - 六足) nằm trong quyển 24. Xem Đại Chánh tạng, Tập 26, kinh số 1543, trang 887, tờ a, dòng 22.
[118] Chữ ba-la-mật (波羅蜜) hay ba-la-mật-đa (波羅蜜多) vốn phiên âm từ Phạn ngữ pāramitā, thường được dịch nghĩa là “đáo bỉ ngạn” (sang bờ bên kia), nhưng cũng mang nghĩa “trọn vẹn, đầy đủ, hoàn hảo”. Do vậy cũng được dịch là “事究竟 - sự cứu cánh” nghĩa là hoàn tất sự việc một cách rốt ráo, mỹ mãn. Anh ngữ dịch chữ này là “perfection”, tương đương ý nghĩa này.
[119] Bảo Vân Kinh (寶雲經), 7 quyển, Mạn-đà-la-tiên Hán dịch vào đời Lương, thuộc Đại Chánh tạng, tập 16, kinh số 658.
[120] Nguyên tác dùng “毘尼 - Tì-ni”, phiên âm từ chữ Vinaya trong Phạn ngữ, chỉ Luật tạng, cũng đọc là Tỳ-nại-da (毗奈耶).
[121] Về ý nghĩa câu này, Văn Cú Ký giải thích là nêu giới luật để chứng tỏ ba thừa cũng tương thông về “sự”, vì ở trên đã chứng minh là tương thông về “lý”.
[122] Bốn kiến chấp: ở đây chỉ thân kiến, biên kiến, tà kiến và giới cấm thủ kiến.
[123] Nguyên tác dùng “子果 - tử quả”, chỉ quả báo của 5 uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thứ). Do phiền não trong quá khứ mà có quả báo trong hiện tại, do phiền não trong hiện tại mà phải chịu quả báo trong tương lai.
[124] Nguyên tác Văn Cú dùng “俱解脫- câu giải thoát”, là trường hợp giải thoát khác với “慧解脱 - tuệ giải thoát”. Nhờ năng lực của định và tuệ mà dứt trừ hết phiền não, đạt được giải thoát, nên gọi là “câu giải thoát”. Trong trường hợp của tuệ giải thoát thì hành giả chỉ vận dụng trí tuệ để đạt đến sự tự tại vô ngại đối với chướng ngại phiền não.
[125] Nguyên tác là “入靜室 - nhập tĩnh thất”, chữ tĩnh là yên tĩnh, tĩnh lặng.
[126] Từ ý thứ nhất đến ý thứ bảy, Văn Cú không có sự phân chia rõ ràng nên trong khi chuyển dịch chúng tôi đã dựa theo nội dung mà thêm vào cho rõ nghĩa.
[127] Nguyên tác là “示教利喜 - thị giáo lợi hỷ”, chỉ 4 giai đoạn tuần tự giáo hóa. Thị là chỉ bày, làm cho thấy biết, nhận hiểu; giáo là dạy dỗ, giảng giải phương pháp tu tập; lợi là nói lúc người tu tập đã đạt được lợi ích lớn lao từ sự tu tập, nên có ý nghĩa khuyến khích tiếp tục chuyên cần; hỷ là nói lúc người tu tập thành tựu nên đạt được niềm vui chân thật, tự chứng nghiệm được chánh pháp. Bốn giai đoạn này cũng được xem là tương đương với “tam chuyển pháp luân” (thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển), bởi vì thị tương đương với thị chuyển, giáo tương đương với khuyến chuyển, lợi và hỷ tương đương với chứng chuyển. Điểm chung của 2 cách hiểu này là đều giải thích việc giáo hóa thành các giai đoạn tuần tự.
[128] Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thường được nói ngắn gọn là phát tâm Bồ-đề, vì nói đủ như trong nguyên tác là “發阿耨多羅三藐三菩提心 - phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm”. A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề là phiên âm từ Phạn ngữ Anuttara-samyak-saṃbodhi, được dịch nghĩa là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
[129] Nguyên tác là “我於餘國作佛 - ngã ư dư quốc tác Phật”. Chữ “dư quốc” không chỉ “nước khác”, mà chỉ đến cảnh giới nằm ngoài ba cõi. Các vị Thanh văn khi chứng đắc Niết-bàn của Tiểu thừa thì đạt đến vô sanh, không còn tái sanh trong ba cõi. Do vậy, để giáo hóa những vị này đạt đến giác ngộ viên mãn, tức là thành tựu quả Phật, đức Phật thị hiện làm Phật ở cảnh giới nằm ngoài ba cõi (Dục, Sắc và Vô sắc) để thuyết giảng kinh Pháp hoa này cho những vị đã nhập Niết-bàn Tiểu thừa.
[130] Nguyên tác dùng “餘國 - dư quốc”, trong quyển 4, Văn Cú đã có giải thích rõ, là nơi vị A-la-hán hiện hữu sau khi nhập Niết-bàn của Tiểu thừa vì không còn tái sanh trong ba cõi. Ở đây nói cõi hữu dư tức là chỉ Phương tiện hữu dư độ (方便有餘土), nơi các vị A-la-hán, Bồ Tát dưới Thập địa... đã dứt trừ thông hoặc nhưng vẫn còn vô minh hoặc.
[131] Năm món dục: chỉ 5 sự ham muốn đối với hình sắc (sắc dục), đối với âm thanh (thanh dục), đối với mùi hương (hương dục), đối với vị nếm (vị dục) và đối với sự xúc chạm (xúc dục).
[132] Nguyên tác Văn Cú dùng “四不壞信 - tứ bất hoại tín”, tức là chỉ 4 niềm tin không ai có thể phá hoại, bao gồm: tin vào Phật, tin vào Pháp, tin vào Tăng và tin vào Giới luật.
[133] Xem lại trong quyển 1, đã có giải thích về bốn chúng trong Pháp hội Pháp hoa, bao gồm: chúng phát khởi, chúng đương cơ, chúng ảnh hưởng và chúng kết duyên.
[134] Từ trước đến đây đã 22 lần đề cập đến khai quyền hiển thật. Văn Cú Ký giải thích rằng, trong phẩm Tựa, phần nói về ngũ Phật có 5 lần trong văn trường hàng, 5 lần trong kệ tụng, cộng là 10 lần; phẩm Thí dụ có khai thí, hợp thí đề cập đến 2 lần, cũng có trường hàng và kệ tụng, thành 4 lần; phẩm Tin hiểu trình bày lại ý nghĩa khai hợp ở trước, cũng có trường hàng và kệ tụng, thành ra 4 lần; phẩm Thí dụ Cỏ thuốc cũng có khai thí, hợp thí đề cập đến 2 lần, cũng có trường hàng và kệ tụng, thành 4 lần. Như vậy tổng cộng là 22 lần nói về khai quyền hiển thật.
[135] Ở đây có lẽ căn cứ vào Thắng Man bảo quật (勝鬘寶窟), quyển 2, đề cập đến 4 loại sanh tử này là: lưu lai sanh tử (流來生死), phần đoạn sanh tử (分段生死), trung gian sanh tử (中間生死), biến dịch sanh tử (變易生死). Lưu lai sanh tử (sanh tử nổi trôi) cũng được gọi là lưu nhập sanh tử, chỉ chúng sanh từ trạng thái ban sơ khởi lên một niệm mà rơi vào nổi trôi trong sanh tử. Chúng sanh từ hàng Bồ Tát lục địa trở xuống đều chịu sanh tử theo cách sanh ra rồi chết đi, bỏ thân này thọ sanh thân khác, gọi là sanh tử phần đoạn. Hàng Bồ Tát từ thất địa trở lên có thân quả báo nhiệm mầu vượt ngoài ba cõi nên không còn sanh tử phần đoạn, nhưng vẫn chưa giải thoát viên mãn nên còn chịu sanh tử biến dịch. Hàng Nhị thừa đạt quả vô học, do nghiệp báo đã dứt không còn tái sanh trong ba cõi nên đi vào sanh tử trung gian, được nghe kinh Pháp hoa… chuyển thành Bồ Tát rồi tiếp tục tu tập đến giải thoát viên mãn. (ĐCT, 37, 1744, tr.49b, d.10-12.)
[136] Nguyên tác Văn Cú dùng “五住 - ngũ trụ”, tức “五住地惑 - ngũ trụ địa hoặc” hay 5 trụ địa phiền não, bao gồm: Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa. Vì là gốc sanh ra phiền não nên gọi là trụ địa. Do nhân của 5 trụ địa phiền não này mà có 2 quả là sanh tử phần đoạn và sanh tử biến dịch.
[137] Trong phần này, Nguyên tác Văn Cú dùng “三人 - tam nhân” để chỉ 3 hạng căn cơ là hạ căn, trung căn và thượng căn.
[138] Nguyên tác dùng “五人 - ngũ nhân” để chỉ hành giả đã đạt đến các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi Phật.
[139] Nguyên tác Văn Cú nói “福智二邊 - phúc trí nhị biên” (hai bên phúc trí), chỉ việc nghiêng hẳn về một trong hai bên, phúc hoặc trí.
[140] Các nghĩa tương đồng và khác biệt ở đây là so sánh trong hàng Nhị thừa, tức là giữa Thanh văn và Duyên giác.
[141] Theo cách dùng ở đây, cần phân biệt nhất thiết trí (一切智) của hàng Nhị thừa với nhất thiết chủng trí (一切種智) là trí tuệ của chư Phật. Trong nhiều trường hợp khác, nhất thiết trí cũng được dùng giống như nhất thiết chủng trí để chỉ trí tuệ Phật.
[142] Noãn pháp (煗法) hay noãn vị (煗位), là giai vị đầu tiên của tứ thiện căn. So sánh này chỉ ra rằng vị Thanh văn nghe pháp chứng ngộ nên cũng có khả năng thuyết pháp cho người khác, trong khi đó vị Duyên giác tự mình chứng ngộ nên không có khả năng thuyết pháp giúp người khác chứng ngộ, dù chỉ là đạt giai vị đầu tiên.
[143] Phần giải thích này dựa trên ý kinh nói qua 300 do-tuần thì lập hóa thành, và con đường phải đi còn lại 200 do-tuần. Trong phẩm Thí dụ nói “căn nhà đang cháy”, sau khi cứu thoát các con thì ông trưởng giả “bỏ 3 loại xe” mà “ban cho các con cùng một loại xe lớn”, tức là Phật thừa. Nay trong thí dụ này, sau khi vượt qua hóa thành thì còn phải đi 200 do-tuần mới đạt đến trí tuệ Phật.
[144] Nguyên tác Văn Cú dùng “五下 - ngũ hạ”, tức ngũ hạ phần (五下分) hay ngũ hạ phần kết (五下分結), chỉ 5 loại kết hoặc, tức phiền não thô trược ở cõi Dục, bao gồm: 1. Dục tham; 2. Sân khuể; 3. Hữu thân kiến; 4. Giới cấm thủ kiến; 5. Si mê.
[145] Nguyên tác Văn Cú dùng “五上 - ngũ thượng”, tức ngũ thượng phần (五上分) hay ngũ thượng phần kết (五上分結), chỉ 5 loại kết hoặc, tức phiền não vi tế ở 2 cõi Sắc và Vô sắc, bao gồm: 1. Sắc tham: tham đắm 5 món dục lạc của cõi Sắc; 2. Vô sắc tham: tham đắm cảnh giới thiền định của cõi Vô sắc. 3. Điệu cử: chúng sanh 2 cõi Sắc và Vô sắc do tâm niệm loạn động mà thối thất thiền định. 4. Mạn: chúng sanh 2 cõi Sắc và Vô sắc do tâm kiêu mạn mà lấn lướt chúng sanh khác. 5. Vô minh: tham đắm thiền định mà không rõ biết chân tánh.
[146] Nguyên tác dùng “五住 - ngũ trụ” tức ngũ trụ địa phiền não (五住地煩惱), chỉ cho 5 phiền não: Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa.
[147] Nguyên tác Văn Cú dùng “種覺 - chủng giác”, một cách gọi khác để chỉ giác ngộ nhất thiết chủng trí, tức là trí tuệ Phật hay quả vị giác ngộ viên mãn.
[148] Nguyên tác Văn Cú dùng “一心三智 - nhất tâm tam trí” (một tâm ba trí), tức chỉ việc chứng đạt cùng lúc 3 loại trí tuệ, bao gồm: nhất thiết trí, đạo chủng trí và nhất thiết chủng trí.
[149] Văn Cú dùng “五 眼 - ngũ nhãn”, tức bao gồm nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Chỉ có chư Phật mới có đủ 5 loại mắt này.
[150] Ba minh của một vị Phật bao gồm thiên nhãn minh, túc mạng minh và lậu tận minh.
[151] Mười lực, tức thập lực của chư Phật, bao gồm: 1. Tri thị xứ phi xứ trí lực (知是處非處智力); 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực (知三世業報智力); 3. Tri nhất thiết sở đạo trí lực (知一切所道智力); 4. Tri chủng chủng giới trí lực (智種種界智力); 5. Tri chủng chủng giải trí lực (知種種解智力); 6. Tri nhất thiết chúng sanh tâm tính trí lực (知一切眾生心性智力); 7. Tri chư thiền giải thoát tam-muội trí lực (知諸禪解脫三昧智力); 8. Tri túc mệnh vô lậu trí lực (知宿命無漏智力); 9. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực (知天眼無礙智力); 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực (知永斷習氣智力).
[152] Đây là trích dẫn 2 câu kệ ở gần cuối phẩm này, nguyên văn: “今為汝說實, 汝所得非滅 - Kim vị nhữ thuyết thật, nhữ sở đắc phi diệt.” Tuy nhiên, Văn Cú khi trích dẫn đã chép 2 chữ cuối thành “非真 - phi chân”. Chân là nghĩa chân thật. Kinh văn nói “phi diệt” là chưa phải chân thật diệt độ, chưa phải Niết-bàn rốt ráo.
[153] Ở đây chỉ trí tuệ vô sanh của thánh quả A-la-hán, vị đã dứt hết lậu hoặc không còn tái sanh. Thí dụ 3 xe và hóa thành đều là tương ứng với chỗ thành tựu của hàng Nhị thừa, sau khi buông bỏ mới vượt lên Đại thừa.
[154] Nguyên tác Văn Cú nói “車何故無城何故有 - xa hà cố vô, thành hà cố hữu”. Trong phẩm Thí dụ, ông trưởng giả chỉ nói đến 3 loại xe để dẫn dụ các con nhưng không hề đưa ra xe thật, còn hóa thành ở phẩm này được hóa hiện cho mọi người đều nhìn thấy như thật có.
[155] Nguyên tác Văn Cú dùng “二周 - nhị chu” để chỉ hai phần thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ ở các phẩm trước, còn phần này là thuyết nhân duyên.
[156] Chư Phật do 3 nghiệp thân, khẩu, ý hoàn toàn thanh tịnh viên mãn nên có tam luân tương ứng là thần thông luân (thân nghiệp), thuyết pháp luân (khẩu nghiệp) và ức niệm luân, hoặc ký tâm luân (ý nghiệp). Cả 3 pháp này đều được vận dụng để giúp chúng sanh phá trừ hoặc nghiệp, cho nên gọi là “luân”.
[157] Nguyên tác Văn Cú dùng “灰斷 - hôi đoạn”, tức là vô dư hôi đoạn (無餘灰斷), cũng gọi là hôi thân diệt trí (灰身滅智), chỉ việc nhập Niết-bàn của vị thánh Tiểu thừa là hủy hoại nhục thân, diệt trừ tâm trí.
[158] Tức là “cửu thứ đệ định” (九次第定), bao gồm: 1. Sơ thiền thứ đệ định. 2. Nhị thiền thứ đệ định. 3. Tam thiền thứ đệ định. 4. Tứ thiền thứ đệ định. 5. Không xứ thứ đệ định. 6. Thức xứ thứ đệ định. 7. Vô sở hữu xứ thứ đệ định. 8. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thứ đệ định.9. Diệt thụ tưởng thứ đệ định.
[159] Tam đức (三德) chỉ 3 phẩm đức siêu việt của chư Phật, bao gồm: Pháp thân đức (法身德), Bát-nhã đức (般若德) và Giải thoát đức (解脫德).
[160] Đến đây hết phần giải thích phẩm Thí dụ Hóa thành nhưng chưa hết quyển 7.
[161] Việc thụ ký cho 2.000 vị đệ tử hữu học và vô học được nói trong phẩm kế tiếp.
[162] Văn Cú dùng “滿願 - Mãn Nguyện” là cách dịch nghĩa tên của ngài Phú-lâu-na.
[163] Nguyên tác Văn Cú dùng “三達 - tam đạt” (ba sự thông đạt), cũng tức là “三明 - tam minh” (ba sự sáng suốt) của chư Phật, bao gồm (1) Túc mệnh trí chứng minh, biết rõ tướng trạng của chính mình và chúng sinh trong vô số kiếp quá khứ; (2) Sinh tử trí chứng minh, biết rõ tướng trạng sống chết của chúng sinh, do nghiệp đã tạo mà khi mệnh chung sinh sẽ sinh vào các đường ác hay các đường lành...; (3) Lậu tận trí chứng minh, giải thoát tâm hữu lậu, diệt trừ tất cả phiền não.
[164] Theo bản Anh dịch của H. Kern thì câu này là “Chỉ có đức Như Lai mới biết được khuynh hướng và sự tu tập trong quá khứ của chúng con.” (None but the Tathâgata knows our inclination and our ancient course.)
[165] Bản Anh dịch của H. Kern là “không ai có thể sánh bằng Phú-lâu-na” (none able to equal Pūna).
[166] Diệu giác (妙覺), quả vị cuối cùng trong 52 giai vị của hàng Bồ Tát, sau khi vượt qua Đẳng giác, cho nên cũng đồng nghĩa với quả Phật.
[167] Văn Cú dẫn câu này là “vô năng tri” (không ai có thể biết), nhưng kinh văn thực sự nói là “vô năng tận kỳ ngôn luận chi biện - 無能盡其言論之辯” (không ai có thể thấu suốt được…). Chúng tôi điều chỉnh theo đúng kinh văn.
[168] Bản Anh dịch của H. Kern dịch chỗ này là “99 vị Phật” (ninety-nine Buddhas).
[169] Kinh văn nói “ 為淨佛土故 - vị tịnh Phật độ cố”, xét theo ngữ cảnh phía sau mô tả cõi Phật nghiêm tịnh mà ngài Phú-lâu-na đạt được khi thành Phật, nên hiểu rằng đây là đang nói đến những nhân tố tu tập giúp thành tựu cõi Phật thanh tịnh đó. Kinh Duy-ma-cật nói: “Tùy chỗ thành tựu cho chúng sinh mà được cõi Phật thanh tịnh.”
[170] Bảy vị Phật (七佛) bao gồm cả đức Phật Thích-ca, cụ thể là Tỳ-bà-thi Phật (毘婆尸佛), Thi-khí Phật (尸棄佛), Tỳ-xá-phù Phật (毘舍浮佛), Câu-lưu-tôn Phật (拘留孫佛), Câu-na-hàm Mâu-ni Phật (拘那含牟尼佛), Ca-diếp Phật (迦葉佛) và Thích-ca Mâu-ni Phật (釋迦牟尼佛).
[171] Bản Anh dịch của H. Kern là “996 vị Phật” (a thousand less four).
[172] Đến đây là hết quyển 7 của Văn Cú, bắt đầu quyển 8.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.169 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập