Kiều-phạm-ba-đề
Kiều-phạm-ba-đề, Hán dịch là Ngưu Si,
[1] trong kinh Vô Lượng Thọ gọi là Ngưu Vương,
[2] kinh Tăng Nhất A-hàm gọi là Ngưu Tích.
[3] Thuở xưa, cách đây 500 đời ngài từng là con trâu chúa. Loài trâu sau khi ăn thì nhai lại, dư báo ấy chưa hết nên miệng ngài thường nhai [ngay cả lúc không ăn gì], người thời bấy giờ gọi là Ngưu Si.
[Lại chuyện] thuở xưa có một bầy ngỗng trời 500 con,
[4] trong đó có một con thường kiếm được hoa quả thì cung cấp cho con đầu đàn. [Con ngỗng ấy là tiền thân của ngài Kiều-phạm-ba-đề.] Khi đức Phật nhận lời cung thỉnh của vua A-kỳ-đạt trong một mùa an cư, [do vua quên hẳn việc cúng dường nên đức Phật] cùng với 500 vị tỳ-kheo phải dùng loại lúa xấu dành cho ngựa ăn. Riêng ngài Kiều-phạm-ba-đề khi ấy lại ở trên cõi trời, nơi vườn Thi-lợi-sa, thọ nhận sự cúng dường của Thiên vương.
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Vui thích ở cõi trời, không thích ở cõi người, tỳ-kheo Ngưu Tích là bậc nhất. Ưa thích ở cõi trời tức là chạy theo dục lạc, là nghĩa thế giới tất đàn. Nhờ cung cấp [thức ăn] cho con ngỗng đầu đàn mà được phước báu ấy, là nghĩa vị nhân [tất đàn. Lại nói lên cung trời để] tránh người cười nhạo [việc nhai lại] là nghĩa đối trị [tất đàn]. Chư thiên không cười nhạo, là đệ nhất nghĩa tất đàn. Đại lược là như vậy.
Lại nói rằng, con người chỉ xem hình tướng [bên ngoài], không biết được đức độ [bên trong], nếu cười nhạo một vị A-la-hán liền có tội. Vì muốn tránh cho người đời sự cười nhạo [đắc tội] ấy nên Ngài thường ở trên cõi trời. Chư thiên rõ biết đức độ [của ngài], không cười nhạo hình tướng, do vậy nên ngài sống trên cõi trời.
Sau khi Đức Phật diệt độ, ngài Ca-diếp triệu tập 1.000 vị Đại A-la-hán [để kết tập kinh điển], liền cử tăng sứ đi tìm Kiều-phạm-ba-đề. Ngài Kiều-phạm-ba-đề hỏi [các vị tăng] về Phật và Hòa Thượng, các vị đáp rằng đều đã tịch diệt. Ngài [Kiều-phạm-ba-đề] liền nói: “Phật ra đời, ta ra đời; Phật trụ thế, ta trụ thế; nay Phật nhập diệt, ta cũng nhập diệt. Bốn dòng đạo đều chảy về chỗ ngài Ca-diếp.” Nói rồi đọc kệ:
Voi lớn đi rồi, voi con theo.
Thế Tôn, Hòa Thượng đã diệt độ,
Ta nay còn ở lại làm gì?
Đây là theo đệ nhất nghĩa tất đàn.
Lược giải theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng việc ở trong vườn trên cõi trời là thị hiện [nhân quả của] điều thiện, tướng trâu nhai lại là thị hiện [nhân quả của] việc ác.
Còn theo Thông giáo thì tuy có tướng nhai lại của trâu nhưng tự thân đắc đạo, đó là thị hiện việc xấu nhưng không phải xấu. Ở tại vườn cõi trời mà có tướng trâu nhai lại là thị hiện việc thiện mà không phải thiện.
Giải thích theo Biệt giáo là thị hiện cảnh giới trong thiện ngoài ác.
Giải thích theo Viên giáo là thị hiện tướng thật của thiện ác.
Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi bốn vô sở úy, làm bậc thánh chúa trụ yên, như đệ nhất nghĩa Ngưu Vương hiện dấu tích nơi cõi trời; tích là thị hiện Ngưu Si vui thích sống trên cõi trời.
Theo nghĩa quán tâm là quán lẽ trung đạo nơi tâm tánh, tức là quán như hình thể trâu chúa, bước đi an ổn, thân hình ngay thẳng thăng bằng, tật [xấu] chỉ như gió thoảng bên ngoài.
Ly-bà-đa
Ly-bà-đa (Revata), cũng đọc là Ly-việt-đa, Hán dịch là Tinh Tú, hoặc Thất Tú, hoặc Giả Hòa Hợp.
[5] Kinh Văn-thù vấn
[6] gọi [tên ngài] là Thường Tác Thanh.
Cha mẹ ngài cầu khẩn tinh tú có sự chiêu cảm mà sinh được ngài, nhân đó đặt tên là Tinh Tú. Tuy được xuất gia nhưng vẫn giữ theo tên tự khi còn tại gia, đó là Giả Hòa Hợp.
Có người dẫn Thích luận nói rằng: [“Có lần ngài] vào nghỉ tạm qua đêm trong một miếu hoang, gặp hai con quỷ đang tranh nhau một xác chết, chúng bảo ngài phân xử. Ngài nghĩ rằng dù có nói thẳng theo lý hay quanh co tránh né cũng đều không khỏi bị hại, nên cứ theo lẽ thật mà đáp. Con quỷ lớn liền bẻ hết chân tay của ngài, quỷ nhỏ lấy [chân tay] của xác chết gắn lại vào [cho ngài]. Bọn quỷ ăn xong hết [chân tay của ngài] rồi chùi miệng, bỏ đi. Ngài nhân đó sinh lo phiền, không thể biết được thân thể hiện còn là của ai, cho nên gọi là Giả Hòa Hợp.
[Về tên gọi] Thường Tác Thanh, là do nghi ngờ sự việc như thế, [thường suy nghĩ] nếu là thân của ta thì chính mắt đã thấy [quỷ] bẻ gãy [tay chân ăn mất rồi], còn nếu là thân [của xác chết] kia thì sao giờ [tay chân này] có thể theo ta cùng đi cùng đứng? Vì nghi hoặc do dự mãi như vậy nên mỗi khi gặp ai cũng đều hỏi: “Ông có nhìn thấy thân của tôi chăng?” [Thường hỏi như vậy] nên gọi là Thường Tác Thanh.
Chúng tăng [biết chuyện] nói: “Người này dễ độ.” Liền bảo ngài rằng: “Thân ông đó vốn là nhờ di thể của người khác mà có thôi, [không phải thật có.” Ngài nghe qua] liền chứng đạo. Đại lược là như vậy.
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói rằng: “Tỳ-kheo Ly-việt-đa là bậc nhất trong việc tọa thiền nhập định, tâm không đảo không loạn.”
Nói theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng: “Chia chẻ phá trừ năm ấm, [thấy rõ] chẳng phải sở hữu của ta.”
Thông giáo giải thích rằng: “Thể đạt năm ấm vốn chẳng phải cái ta có.” Biệt giáo cho rằng, phân biệt mười pháp giới, trong đó năm ấm đều chẳng phải của ta.
Theo giải thích của Viên giáo thì đạt đến chỗ thấy được năm ấm không phải của ta, cũng không phải của người khác, đó là thấy được tướng thật của các ấm.
Hiểu theo bản tích thì bản vốn là đã trụ nơi Tam-muội Nhật Tinh Tú, tích là thị hiện có danh xưng như vậy.
Theo nghĩa quán tâm là quán tâm niệm Phật, thấy được chư Phật trong mười phương rất nhiều, như ban đêm thấy sao trên trời. Đại lược là như thế.
Tất-lăng-già-bà-sa
Tất-lăng-già-bà-sa (Pilindavatsa), Hán dịch là Dư Tập. Ngài vốn trải qua 500 đời sinh trong dòng bà-la-môn, tàn dư tập khí vẫn còn nên thường lộ vẻ cao ngạo. Một lần khi qua sông Hằng, ngài quát mắng [nữ thần sông Hằng]: “Con tiện tỳ, thôi đừng chảy nữa.” Nữ thần sông Hằng phải tách con sông chảy thành hai dòng [để tránh chỗ ngài đang đứng]. Sau đó, nữ thần sông Hằng đem chuyện này thưa lên Phật. Phật dạy ngài Tất-lăng-già-bà-sa phải sám hối tạ lỗi với thần sông. Ngài liền chắp tay nói với nữ thần sông Hằng: “Con tiện tỳ, thôi đừng giận nữa.” Đại chúng đều cười nhạo vì đã sám hối tạ lỗi mà hóa ra là mắng thêm lần nữa.
Đức Phật dạy: “Ông ấy thật không có tâm cao ngạo, chỉ vì tập khí gốc rễ vẫn còn nên biểu hiện ra như vậy mà thôi.”
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Tỳ-kheo Tất-lăng-già-bà-sa là bậc nhất trong việc ngồi thiền khổ nhọc dưới gốc cây, mưa gió cũng không tránh đi.”
Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo nói rằng ngài đã dứt trừ sự kiêu mạn, không còn kiêu mạn. Theo Thông giáo thì nói rằng, chỗ kiêu mạn của ngài thật ra là không kiêu mạn. Biệt giáo thì giải thích rằng, ngài phân biệt được sự cao thấp trong mười pháp giới. Theo Viên giáo thì chân ngã đầy đủ tám tự tại, tức là đầy đủ Phật Pháp.
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn đã trụ nơi thường, lạc, ngã, tịnh, chân ngã bát tự tại, với Phạm âm vi diệu, tích là thị hiện tâm kiêu mạn, lời nói xấu ác.
Giải thích theo quán tâm thì quán chiếu thấy được những lời nói thô ác hay êm dịu ngọt ngào cũng đều quy về đệ nhất nghĩa (ý nghĩa chân thật rốt ráo). Đại lược là như vậy.
Bạc-câu-la
Bạc-câu-la (Bakkula), Hán dịch là Thiện Dung, hoặc dịch ra các tên khác như Vĩ Hình, Đại Phì Thịnh, Nhu Nang, Lăng Đặng, Mại Tánh. Hình sắc diện mạo đoan chánh nên gọi tên là Thiện Dung. Suốt đời ngài không có bệnh, không chết yểu, sống đến 160 tuổi. Ngài được hưởng quả báo có năm điều bất tử, không thể chết. Người mẹ kế từng bỏ ngài vào nồi nung trên lửa, rồi nhận chìm trong nước, bị cá nuốt vào bụng, bị dao chặt, nhưng đều không chết. Do những kiếp trước ngài trì giới không sát sinh nên được như vậy, trong suốt 91 kiếp sống đều không bị chết yểu. Thuở xưa ngài từng cúng dường quả ha-lê-lặc cho một vị tăng [làm thuốc trị bệnh, nên được quả báo nhiều đời] thân thường không có bệnh.
[Về việc trì giới,] có thể giữ nghiêm một giới thì 4 giới khác đều được trang nghiêm.
[7] Kiên trì không phạm giới nên không bị lửa, nước làm hại. Những người khác tuy cũng trì năm giới nhưng hủy phạm nhiều lần [nên chẳng được kết quả như ngài]. Đại lược là như vậy.
Ngài ưa thích những nơi tịch tĩnh nên thường ở chỗ vắng vẻ, không thích chỗ đông người, mắt không ưa thích chạy đuổi theo các màu sắc, tai chẳng ưa nghe những âm thanh thế gian, mũi chẳng ưa thích ngửi những mùi thơm hay không thơm của thế gian, lưỡi chưa từng vì người khác mà nói ra dù chỉ một hai câu, ý thường trong thiền định, không tán loạn. Thậm chí tháp thờ xá-lợi của ngài cũng chọn nơi vắng vẻ an tịnh. Khi vua A-dục đi đảnh lễ tháp của các vị A-la-hán, đến tháp của ngài liền nói kệ rằng:
Tự luyện trừ vô minh,
Với đời ít lợi ích.
Rồi vua dâng cúng 20 đồng bạc.
Kinh Tăng Nhất A-hàm [kể lại chuyện này có khác biệt,] nói rằng: “Vua dâng cúng một đồng tiền,
[8] nhưng tiền ấy từ trong tháp bay trở ra, rơi trước chân vua. Các quan theo hầu đều kinh quái. Ngài ưa thích chỗ vắng vẻ, ít ham muốn, nên ngay cả tháp của Ngài cũng có thần lực như thế.”
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Thọ mạng hết sức lâu dài, rốt lại không hề chết yểu, thường ưa thích nơi vắng vẻ, chẳng ở chung trong chúng, xét những phẩm tính này thì ngài Bạc-câu-la là bậc nhất.”
Theo giáo nghĩa thì dứt sự huyên náo nhập vào chân thật là nghĩa tịch tĩnh của Tạng giáo; ngay nơi chỗ huyên náo cũng tức là chân thật, đó là nghĩa tịch tĩnh của Thông giáo; lìa khỏi hai bên [huyên náo và chân thật] nhập vào trung đạo là nghĩa tịch tĩnh của Biệt giáo; ngay nơi hai bên [huyên náo và chân thật] đó tức là trung đạo, đó là nghĩa tịch tĩnh của Viên giáo.
[Theo nghĩa bản tích thì] bản là vốn trụ nơi định Đại tịch diệt; sống lâu là thường, không có bệnh là lạc, không chết yểu là ngã, tịch tĩnh là tịnh. Bản là vốn sống trong bốn phẩm đức [thường, lạc, ngã, tịnh] này, tích là thị hiện ra sáu căn tịch tĩnh.
[Theo nghĩa] quán tâm thì tánh của tâm là trung đạo, ngay nơi không đó tức là giả, cũng tức là trung, đó là quán thường, lạc, ngã, tịnh.
Ma-ha-câu-hy-la
Ma-ha-câu-hy-la (Mahākauṣṭhila), [cũng gọi là Câu-hy-la,] Hán dịch là Đại Tất,
[9] là cậu của ngài Xá-lợi-phất. Thông thường mỗi khi tranh luận với chị mình thì ông đều thắng, nhưng khi người chị mang thai [ngài Xá-lợi-phất] thì ông không thắng được nữa, liền nghĩ rằng đứa trẻ còn trong thai mà [ảnh hưởng đến] biện tài [của mẹ] như vậy thì khi sinh ra [hẳn còn tài ba không biết đến dường nào? Vì sợ sau này tranh luận không thắng được người cháu nên ông] tức thời rời khỏi nhà đi đến miền Nam Ấn Độ [để học hỏi thêm]. Khi ông [khởi sự] đọc 18 bộ kinh thì người thời bấy giờ đều cười nhạo, [nói rằng] nhiều kiếp còn khó thông suốt được [18 bộ kinh ấy, huống chi] một đời mà muốn học xong. Ông thấy vậy tự than rằng: “Khi ở nhà thì tranh luận đã phải thua chị, nay ra khỏi nhà thì bị người cười chê.” Từ đó ông thề chuyên tâm đọc sách không ngừng nghỉ, móng tay dài cũng không có thời gian rảnh để cắt, cho nên người đời gọi là Phạm chí Trường Trảo.
[10]
Sau khi học xong, ông trở về nhà hỏi về ngài Xá-lợi-phất thì mọi người nói đã theo làm đệ tử Phật. Ông liền khởi tâm kiêu mạn, nghĩ rằng: “Cháu ta khi mới 8 tuổi mà đã nổi danh khắp năm vùng Ấn Độ,
[11] sa-môn kia có đạo thuật gì mà dụ dỗ được con của chị ta?”
Ông liền đi đến chỗ Phật [nghe thuyết pháp], suy nghĩ hồi lâu nhưng trong tâm chẳng thâm nhập được bất cứ pháp nào, liền hỏi Phật: “Hết thảy các pháp đều không nhẫn. Vì nhẫn nghĩa là an ổn, [nay Phật lại nói] rằng “hết thảy các pháp ta đều có thể phá trừ”, đó là làm cho không an ổn. [Tôi] nói rằng ‘hết thảy các pháp đều không nhẫn.’”
Đức Phật hỏi: “Chỗ thấy của ông có phải là nhẫn không? [Lập luận như ông thì] hai đường đều thua. Nếu nói ‘chỗ thấy của tôi nhẫn’ thì [mâu thuẫn với] trước đã nói ‘hết thảy các pháp đều không nhẫn’. Nếu nói ‘chỗ thấy của tôi không nhẫn’ thì chẳng có gì để hơn Phật.”
Câu-hy-la liền cúi đầu [bái phục], ngay đó được pháp nhãn thanh tịnh. Ngài Xá-lợi-phất đứng hầu bên cạnh nghe Phật biện luận với cậu liền chứng quả A-la-hán.
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Đạt được bốn biện tài, gặp câu hỏi khó có thể trả lời, [những việc như vậy] thì Câu-hy-la là bậc nhất.”
Vị thiên vương ở phương nam là Tỳ-lưu-bặc-xoa
[12] thường hiện đến theo hầu cận ngài.
Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo giải thích bốn biện tài là về ngoại điển thông hiểu bốn bộ Vi-đà,
[13] về nội điển thông hiểu Tam tạng kinh điển. Theo Thông giáo thì [như trong kinh Duy-ma-cật, thiên nữ nói:] “Ta không có chỗ chứng đắc nên mới biện luận được như vậy.” Theo Biệt giáo thì biện tài là dù tên gọi hay ý nghĩa cũng đều biến hiện khắp mười pháp giới. Theo Viên giáo thì biện tài là nương theo thật tướng trong tất cả biện luận.
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ nơi khẩu mật,
[14] khẩu luân,
[15] không thể nghĩ bàn, từ đó hóa thành đại định, đại trí tuệ; tích là thị hiện ra ngài Đại Tất, tức Câu-hy-la.
Theo nghĩa quán tâm thì quán ngay nơi tâm đó tức là không, tức là định, tức là giả, tức là tuệ, vốn đã trang nghiêm tự tâm. Đại lược là như vậy.
Nan-đà
Nan-đà, cũng gọi là Phóng Ngưu Nan-đà,
[16] Hán dịch là Thiện Hoan Hỷ, cũng dịch là Hân Lạc. Khi vua Tịnh Phạn ép buộc 100.000 người họ Thích xuất gia theo Phật thì ngài là một trong số đó.
[17] Có vị thầy nói đây là tỳ-kheo Bạt-nan-đà được nói đến trong Luật tạng.
[18]
Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo nói [tên ngài] là hoan hỷ về sự, không hoan hỷ về lý. Theo Thông giáo giải thích thì ngay nơi hoan hỷ về sự tức là hoan hỷ về lý. Theo Biệt giáo thì đó là Hoan hỷ địa. Theo Viên giáo là Hoan hỷ trụ.
Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi chân thật, chẳng phải vui cũng chẳng phải không vui; tích là thị hiện ra tên gọi Hoan Hỷ. Theo nghĩa quán tâm thì quán tâm với lý, hình tướng sẽ tự phù hợp theo, nên gọi là quán hoan hỷ.
Tôn-đà-la Nan-đà
Tôn-đà-la Nan-đà (Sundara-nanda), Hán dịch là Hảo Ái, cũng dịch là Đoan Chánh. Nan-đà thì ý nghĩa như trước đã nói. Về dòng họ thì giống như ngài A-na-luật, đã nói ở trước.
[19]
Ngài sinh vào ngày mồng 9 tháng 4, thân hình thấp hơn đức Phật bốn lóng tay,
[20] hình dung cử chỉ vượt trội hơn người, khác hẳn người thường. Mỗi khi ngài đi vào trong chúng, có người không biết lầm tưởng là đức Phật đến.
[21]
Trong bộ Luật Di-sa-tắc nói: “Ở nước Ma-kiệt-đà có một ngoại đạo lõa thể cực kỳ thông minh, người trong nước đều xưng là bậc trí tuệ, hiểu biết rộng. Ông cùng với ngài Xá-lợi-phất tranh luận, đuối lý không nói được gì nữa liền khởi sinh tâm lành, muốn xuất gia theo học Phật pháp. Lại gặp ngài [Tôn-đà-la] Nan-đà, thấy hình sắc dung mạo đẹp đẽ khác thường nên tấm tắc khen rằng: “Tỳ-kheo thấp bé [như Xá-lợi-phất] mà trí tuệ còn khó lường, huống hồ hình tướng uy nghi rực rỡ như vị này!” Ngài Nan-đà nhân đó liền độ cho xuất gia.
[Khi chưa xuất gia,] vợ ngài là cô Tôn-đà-lợi cực kỳ xinh đẹp, [hai vợ chồng] khi ăn khi nghỉ đều chẳng rời nhau. Một hôm đức Phật cùng ngài A-nan trên đường đi khất thực đến trước nhà Nan-đà, gặp lúc ngài đang cùng vợ ngồi ăn trên lầu cao, liền đứng dậy đi ra trước cửa nghênh đón Phật. Người vợ nói: “Em đợi anh trở lại cùng ăn nhé!” Nan-đà ra đón, bạch Phật rằng: “Ngài là dòng tộc Chuyển luân vương, sao phải tự hạ mình [đi xin ăn].”
[22] Nói rồi cầm lấy bình bát của Phật đi vào lấy cơm. Ngay khi ấy đức Phật [không chờ lấy bình bát mà] quay trở lại vườn Ni-câu-loại,
[23] dặn ngài A-nan bảo Nan-đà phải mang bình bát đựng cơm đến chỗ Phật.
Ngài A-nan truyền lại lời Phật dạy, nên Nan-đà phải mang cơm đến dâng lên Phật. [Khi Nan-đà đến vườn Ni-câu-loại rồi,] Phật ra lệnh cạo tóc [cho Nan-đà]. Nan-đà cung nắm tay lại dọa người cạo tóc: “Chớ có chạm dao trên đỉnh đầu vua Diêm-phù-đề.”
[24] Đức Phật thúc giục không cho dừng lại, cuối cùng cũng cạo hết tóc.
Hôm sau, đức Phật cùng với 500 vị tỳ-kheo đi thọ thỉnh cúng dường, Nan-đà xin được ở lại tinh xá, có ý muốn nhân đó trốn về nhà. Đức Phật dạy phải đóng cửa quét đất cho sạch. Nan-đà đóng cửa phía nam thì cửa phía bắc tự nhiên mở, nên quét sạch chỗ này lại dơ chỗ kia, [quét mãi không xong], nhưng sợ [đã đến giờ] Phật quay về nên vội vã trốn chạy về nhà.
Giữa đường gặp Phật, ông liền trốn sau gốc cây, [đức Phật dùng thần lực làm cho] cây ấy bay lên không trung, không còn chỗ nấp. Phật nhìn thấy ông, liền bảo quay về tinh xá. Phật hỏi duyên cớ vì sao trốn về, Nan-đà đáp: “Hôm qua chia tay, vợ con vẫn còn chờ trở về để cùng ăn cơm. Nay con nhớ vợ quá nên muốn về.”
[Sau đó để hóa độ Nan-đà,] Phật đưa ông lên các cung trời và xuống các địa ngục...
[25] Đại lược là như vậy. [Do những việc trên] nên có nêu tên vợ trong tên của ngài.
[26]
Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng trong Tục đế còn có niềm vui đúng pháp, còn chân đế thì không có tâm vui mừng. Thông giáo nói: “Ngay nơi niềm vui thế tục đó cũng tức là niềm vui chân thật.” Theo Biệt giáo thì từ nơi pháp hỷ của Thông giáo mà có tục pháp hỷ, có trung pháp hỷ. Theo Viên giáo thì ngay nơi pháp hỷ của Thông giáo đã có đầy đủ hết thảy pháp hỷ.
[Giải thích theo] bản tích và quán tâm thì giống như phần trước. Đại lược là như vậy.
Phú-lâu-na
Phú-lâu-na (Pūrṇa),
[27] Hán dịch là Mãn Nguyện. Di-đa-la dịch là Từ, chữ ni [trong Phạn ngữ] là nữ [tính].
Cha ngài đến sông Mãn lập đàn cầu đảo với Phạm thiên để mong được sinh con, gặp đúng lúc nước sông dâng đầy, lại mộng thấy vật chứa bằng bảy món báu đựng đầy châu báu bay vào lòng người mẹ. Rồi khi người mẹ mang thai ngài, bao nhiêu ý nguyện của người cha đều được thỏa mãn. Từ việc được toại nguyện như vậy nên đặt [tên con] là Mãn Nguyện.
Mẹ ngài tên là Di-đa-la-ni (Maitrāyaṇī), Hán dịch là Từ Hạnh, cũng dịch là Tri Thức. Trong bốn bộ Vệ-đà có một phẩm mang tên này, người mẹ thường tụng đọc nên lấy đó làm tên. Chữ ni [trong Phạn ngữ] để chỉ nữ tính, gọi chung những gì thuộc về nữ là “ni”, thuộc về nam là “na”.
[28] Do người mẹ tên Từ sinh ra nên gọi tên là Từ tử (con của bà Từ).
Kinh Tăng Nhất A-hàm
[29] [chép lại lời ngài nói]: “Cha tôi tên Mãn, mẹ tôi tên Từ, nên những người tu Phạm hạnh gọi tôi là Mãn Từ tử.” Đây là do cả hai duyên tên cha và tên mẹ hợp lại để thành tên, nên gọi là Mãn Từ tử.
Cha ngài
[30] thông hiểu kinh sách, cả nội điển, và ngoại điển, không có việc gì không rõ biết. Vì hiểu biết đầy đủ nên gọi tên là Mãn.
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Mãn Nguyện tử là bậc nhất trong việc khéo léo rộng thuyết phân biệt nghĩa lý.” Phần sau còn nói: “[Ngài là] bậc nhất trong những người thuyết pháp.” Bậc nhất ở đây là chỉ ngài Mãn Từ tử.
[Sau khi tu tập thành tựu, ngài] muốn trở về quê nhà để [giáo hóa] làm lợi ích [cho người dân].
Đức Phật hỏi: “[Người dân] xứ ấy tệ ác lắm, ông làm sao [giáo hóa]?”
Ngài đáp: “Con sẽ tu hạnh nhẫn nhục. Nếu họ hủy báng, nhục mạ thì con sẽ tự thấy mình may mắn vì không bị họ dùng tay đánh đấm. Nếu bị họ dùng tay đánh đấm, con sẽ thấy cũng còn may mắn vì chưa bị họ đánh bằng gậy gộc. Nếu bị họ đánh bằng gậy gộc, con sẽ thấy mình còn may mắn vì chưa bị họ dùng dao đâm chém. Nếu bị đâm chém thì con sẽ thấy mình may mắn vì lìa bỏ được [cái thân là] món đồ chứa đựng năm ấm độc hại.”
Như vậy là thực hành nhẫn nhục trọn vẹn, cho nên gọi tên ngài là Mãn.
Trong kinh Thất xa nói,
[31] ngài được Đại trí Xá-lợi-phất ngợi khen xưng tán rằng: “Những người tu Phạm hạnh nên quấn y đội đầu tôn kính lễ bái hiền giả. Được gặp hiền giả thật là lợi ích lớn lao.” Đó là xưng tán đầy đủ, cho nên gọi tên ngài là Mãn.
Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo giải thích về “nguyện mãn” là chuyên cần phân tích giáo pháp, mọi việc cần làm đều đã làm xong. Thông giáo thì cho rằng “nguyện mãn” là thấu đạt đến chỗ hết thảy các pháp đều không, ngay nơi pháp không đó được chứng đắc. Theo Biệt giáo thì “nguyện mãn” là đạt được Pháp nhãn đầy đủ. Theo Viên giáo thì “nguyện mãn” là trụ nơi tạng bí mật.
Giải thích theo bản tích thì bản nguyện vốn đã từ lâu trọn đủ, hình tích biểu hiện là thuyết pháp bậc nhất, thị hiện làm bậc tri thức của chúng sinh.
Theo nghĩa quán tâm thì như trong chỉ quán, quán người có hạnh và lý như nhau là bậc thiện tri thức.
Tu-bồ-đề
Tu-bồ-đề (Subhūti), Hán dịch là Không Sinh.
[32] Vào lúc ngài sinh ra thì trong nhà tất cả kho chứa, đồ đựng... đều tự nhiên trống rỗng không có gì. Người nhà hỏi thầy chiêm bốc thì được bảo rằng đó là điềm tốt. Nhân từ chỗ trống không mà sinh ra nên đặt tên là Không Sinh. Do nơi y báo hết thảy vật chứa đều hiện điềm lành rỗng không, nên lấy [không] gọi tên chánh báo.
[33] Y báo và chánh báo đều tốt lành, cho nên gọi là Không Sinh.
Ngài thường tu Không hạnh nên cũng gọi tên là Thiện Nghiệp. Những ai cúng dường cho ngài đều được quả báo tốt đẹp ngay trong hiện tại, nên gọi tên ngài là Thiện Cát.
Ngài thường ưa thích ở nơi rừng vắng, hang đá, những chỗ yên tĩnh vắng lặng. Chỗ tu hành của ngài lấy hạnh quán không làm căn bản, thường nhập Không định, trụ yên nơi Tam-muội Vô tránh. Ngài vui giảng thuyết pháp không, mỗi khi có chỗ tuyên thuyết biện luận đều phân biệt nghĩa không.
Ngài thường giúp đỡ, bảo hộ chúng sinh, không để khởi sinh sự ngăn ngại, như với người không thích đi thì đứng, với người không thích đứng thì đi, [luôn tùy thuận chúng sinh như vậy].
Khi Phật từ cung trời Đao-lợi vừa về lại cõi này, khắp nơi đông đảo mọi người đều tranh nhau đến đảnh lễ trước. Ngài ngồi yên trong hang đá, quán niệm các pháp đều không, [cho nên] hình sắc không phải Phật, [các ấm khác như thọ, tưởng, hành,] cho đến thức cũng không phải Phật; con mắt không phải Phật, [các căn khác như tai, mũi, lưỡi, thân] cho đến ý cũng không phải Phật. [Quán xét như vậy rồi liền] hốt nhiên chứng ngộ.
[Khi ấy,] đức Phật bảo Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc: “Con không phải là người đảnh lễ ta trước nhất. Con chỉ đảnh lễ được sắc thân ta, Tu-bồ-đề thì đã gặp được pháp thân của ta trước rồi.”
[34]
Theo giáo nghĩa thì tự diệt [sự bám chấp] hình sắc nên trí tuệ về tánh không sinh khởi, thấu hiểu về sắc nên trí tuệ về tánh không sinh khởi. Từ trí tuệ về hiện hữu khởi sinh trí tuệ về tánh không. Từ trí tuệ về tánh không khởi sinh trí tuệ trong Tục đế. Từ trí tuệ Tục đế khởi sinh trí tuệ Trung đạo. Theo Viên giáo thì [nhận thức về] tánh không khởi sinh tức là có trí tuệ, tức là khởi sinh trí tuệ về tánh không. Như [ngài Tu-bồ-đề] hiện nay là sinh khởi trí tuệ về tánh không theo Viên giáo. Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi tướng thật của pháp thân, tích là thị hiện thấy tất cả đều không mà sinh ra.
Theo nghĩa quán tâm thì [pháp thân] chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ở giữa, cũng không tự hiện hữu. Đây là pháp thân theo nghĩa quán tâm.
A-nan
A-nan, Hán dịch là Hoan Hỷ, hoặc Vô Nhiễm. Vua Tịnh Phạn mong muốn thái tử [Tất-đạt-đa] làm bậc Kim Luân [Thánh Vương] cai trị đất nước, [nhưng thái tử] bỗng dưng từ bỏ [việc nối ngôi cai trị] đất nước, khiến cho đức vua đau buồn lo lắng khôn nguôi. [Khi ấy], ma hiện đến nói dối rằng “con ông đã chết rồi”. Nhà vua khóc than rằng: “Lời nói của A-di
[35] không đúng, điềm lành cũng không ứng nghiệm.” Lúc đó lại có chư thiên hiện đến bảo rằng: “Con ngài đã thành Phật.” Nhà vua trong lòng nghi ngờ chưa tin, không bao lâu lại có tin báo: “Đêm qua đất trời chấn động, thái tử đã thành Phật.” Nhà vua hết sức vui mừng. [Bấy giờ], vua Bạch Phạn
[36] tâu rằng: “Hạ thần vừa sinh đứa con trai, gặp lúc cả nước đều vui mừng.” Nhân đó liền đặt tên là Hoan Hỷ. Đây là tên do cha mẹ đặt.
Ngài A-nan hình dung tướng mạo đoan chánh, ai gặp cũng thấy vui. [Sau khi xuất gia], Phật dạy phải đắp y che vai.
[37] [Chuyện kể rằng] có một cô gái dắt theo đứa trẻ đến giếng lấy nước, thấy ngài A-nan [đi ngang qua] thì nhìn theo chăm chăm không chớp mắt, không còn biết gì chung quanh, đến nỗi quấn sợi dây [kéo nước] vào cổ đứa trẻ [thay vì vào trục kéo nước].
Kinh Trung A-hàm nói rằng: “Bốn chúng
[38] khi được nghe ngài A-nan giảng thuyết, dù đông người hay ít người, tất cả đều vui thích. Trước khi muốn nêu câu hỏi gì thì cũng đều nở nụ cười tươi, khiến cho đại chúng thảy đều hoan hỷ. Bốn chúng cũng luôn hoan hỷ khi nhìn thấy ngài, dù trong lúc im lặng hay khi đi, đứng, nằm, ngồi hoặc những lúc sai khiến, phân xử, cũng như trong mọi hành vi, cử động.
Ngài A-nan sinh ngày mồng 8 tháng 4,
[39] cùng ngày Phật thành đạo, làm thị giả Phật được 25 năm. Theo đó suy ra, lúc đức Phật 55 tuổi, ngài A-nan 25 tuổi, Phật muốn tìm người làm thị giả, 500 vị tỳ-kheo đều thỉnh ngài A-nan làm như đã nói ở phần trước.
[40] [Cuối cùng] ngài A-nan thuận theo lời khuyên của đại chúng, 500 vị tỳ-kheo đều vui mừng.
Ngài Mục-kiền-liên đề đạt [lên với Phật] ba điều thỉnh nguyện của ngài A-nan.
[41] Phật dạy: “[A-nan] phòng ngừa trước sự ganh ghét [của người khác] nên xin được không nhận y cũ [của Như Lai], không cùng đi thọ thỉnh cúng dường với Như Lai. Lại vì muốn tự mình làm lợi ích [cho bốn chúng] nên xin được vào ra [chỗ của Phật] bất kỳ lúc nào.”
[42] Phật đồng ý cho phép [cả ba điều].
Phật lại nói: “A-nan vượt trội hơn các thị giả [của chư Phật] trong quá khứ. Các thị giả trong quá khứ nghe [Phật] thuyết rồi mới hiểu, ngày nay Phật còn chưa nói ra thì A-nan đã rõ ý Như Lai. Những việc nên làm hay không nên làm, [A-nan] đều rõ biết.” Cho nên đức Như Lai hoan hỷ đem Chánh pháp giao phó cho A-nan.
Bốn vị Thiên vương mỗi vị đều dâng cúng lên Phật một bình bát [bằng đá quý]. Phật để chồng tất cả lên rồi ấn xuống liền hóa thành một bình bát duy nhất có bốn đường gờ trên mép rõ ràng, nên bình bát này rất nặng.
[43] A-nan hoan hỷ mang [bình bát này theo hầu Phật] không nề mệt nhọc. Trung A-hàm, quyển 7 nói rằng: “A-nan làm thị giả theo hầu Phật 25 năm, nghe qua 80.000 bài kệ
[44] đều tụng lại được không sót bài nào, không phải hỏi lại [Phật] một câu nào, luôn hoan hỷ gắng sức ghi nhớ.”
A-nan theo hầu Phật, vào các cung điện của vua chúa, chư thiên, long vương, nhìn thấy các cung nữ, thiên nữ, long nữ [cực kỳ xinh đẹp] mà tâm không hề nhiễm ô bám chấp, tuy chưa dứt hết được tư hoặc nhưng vẫn có thể [giữ tâm] không nhiễm ô bám chấp, nên hết thảy chư thiên, loài người, loài rồng, thần [được gặp ngài] đều hoan hỷ.
Sau khi đức Phật diệt độ trên giường sư tử,
[45] ngài Ca-diếp và đại chúng xưng tán rằng:
Mặt như trăng tròn đẹp,
Mắt như hoa sen xanh.
Phật pháp như biển lớn,
Chảy vào tâm A-nan.
[46]
Ngài tự thệ nguyện sẽ ngồi mà nhập Niết-bàn. [Vào lúc ngài sắp nhập Niết-bàn,] dừng lại thì sợ người Ly-xa oán hận, đi tới nữa thì sợ vua A-xà-thế oán hận,
[47] ngài liền [bay lên] ở giữa sông Hằng nhập Tam-muội Phong phấn tấn,
[48] [tự thiêu thân] rồi phân chia [xá-lợi] thành bốn phần, một phần cho chư thiên, một phần cho long cung, một phần cho nước Tỳ-xá-ly và một phần cho vua A-xà-thế.
Khi vua A-dục lễ tháp [thờ xá-lợi] của ngài A-nan, dâng cúng ngàn vạn lượng vàng và đọc kệ xưng tán rằng:
Pháp thân nhờ ngài được giữ gìn,
Đèn pháp thắp sáng, pháp trụ thế.
Ghi nhớ lời Phật như biển lớn,
Nên con nay thiết lễ cúng dường.
Nghe nhiều, ghi nhớ và gìn giữ,
Nên miệng nói ra lời vi diệu.
Thế Tôn từng ngợi khen, tán thán.
Trời, người hai cõi đều kính yêu.
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói:
Biết thời điểm thích hợp,
Sáng suốt hiểu sự vật,
Đường tu không nghi ngại,
Chỗ ghi nhớ không quên,
Nghe nhiều thấu hiểu rộng,
Kính vâng giữ Chánh pháp,
A-nan là bậc nhất.
Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo gọi là A-nan Hoan Hỷ, Thông giáo gọi là A-nan [Hoan Hỷ] Hiền, Biệt giáo gọi là A-nan Điển Tạng, Viên giáo gọi là A-nan [Hoan Hỷ] Hải.
Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi chỗ chẳng phải hoan hỷ, chẳng phải không hoan hỷ, Pháp thân vốn như hư không, trí tuệ như mây mưa [giữa hư không], có thể giữ gìn, có thể thọ nhận, còn tích là thị hiện ra [ngài A-nan] Hoan Hỷ.
Theo nghĩa quán tâm cũng tương tự, ngay nơi không tức là giả, tức là Trung đạo, thảy đều tương ưng. Đó là hoan hỷ theo nghĩa quán tâm, cho đến quán chân thật cũng tương ưng.
La-hầu-la
La-hầu-la (Rāhula), Hán dịch là Phú Chướng. Do thuở xưa lấp hang chuột, lại [có nơi nói là do khi làm vua,] trong sáu ngày không thăm viếng cúng dường một [tiên nhân] bà-la-môn, [khiến vị ấy phải chịu đói khát, nên chịu quả báo phải ở trong thai mẹ sáu năm]. Do duyên cớ như vậy nên gọi là Phú Chướng.
Khi thái tử [Tất-đạt-đa] xin được xuất gia, vua cha không cho phép, ngài vẫn theo nài nỉ không thôi. Vua [Tịnh Phạn] nói: “Nếu sinh con, sẽ cho phép xuất gia. Bồ Tát [thái tử] liền chỉ vào bụng vương phi [Da-du-đà-la] và nói: “Sáu năm nữa nàng sẽ sinh một đứa con trai.” Vì ở trong thai mẹ sáu năm nên gọi là Phú Chướng.
Ngài Chân Đế Tam Tạng nói: “La-hầu vốn tên là Tu-la, [loài a-tu-la] có thể dùng tay che ánh sáng mặt trời, mặt trăng, lẽ ra nên dịch là Chướng [Nhật] Nguyệt.”
Phật nói: “Pháp của ta như mặt trăng, đứa bé này gây chướng ngại việc xuất gia của ta. Nhiều đời gây chướng ngại, ta nhiều đời đều có thể xả bỏ, nên gọi tên là Phú Chướng.”
Sau khi Phật xuất gia, [sáu năm sau mọi người mới biết] Da-du-đà-la có thai.
[49] Người trong họ Thích đều tức giận, [nghi ngờ không biết] do đâu mà có đứa con này? Kẻ muốn trừng trị, người muốn giết bỏ, tiếng xấu lan truyền khắp nơi. Người bảo nữ
[50] là Cù-tỳ-la đứng ra làm chứng
[51] nhưng cũng không thay đổi được gì. Do vậy, [mọi người] liền đốt một hầm lửa [để chuẩn bị ném Da-du-đà-la vào. Khi ấy, Da-du-đà-la] liền phát lời thệ nguyện lớn: “Nếu tôi có gì sai trái thì xin mẹ con đều chết, còn nếu như [đứa con này] đúng thật là [của thái tử để lại] thì xin trời chứng giám.” Nói rồi ôm con nhảy vào hầm lửa, hầm lửa lập tức biến thành hồ sen, có hoa sen nâng đỡ cả hai mẹ con nàng. [Khi ấy,] vua [Tịnh Phạn] và người dân trong nước mới không còn nghi ngờ.
Về sau, khi Đức Phật trở lại quê hương, Da-du-đà-la sai La-hầu-la dâng loại thuốc viên hoan hỷ lên Phật.
[52] La-hầu-la vì nhỏ tuổi chưa hiểu biết nên băng ngang trước mặt đại chúng đi thẳng đến chỗ Phật dâng lên. Da-du-đà-la nhân đó dứt sự chê bai. Bị chê bai vì có con nên mới gọi tên con là Phú Chướng.
Vua [Tịnh Phạn khi ấy] hoan hỷ, tuy mất đứa con [không nối ngôi vua] nhưng nay lại được đứa cháu này sẽ là bậc Kim Luân [Thánh vương], nên chẳng có gì buồn giận. Trong lòng vua suy nghĩ khi cháu lớn lên kỳ vọng sẽ có các món báu hiện đến.
[53]
Nhưng rồi đức Phật xin cho La-hầu-la xuất gia. Vua Tịnh Phạn không đồng ý. Da-du-đà-la vội dắt La-hầu-la [đi tránh] lên lầu cao, ngài Mục-kiền-liên bay lên hư không đón xuống. Phật liền độ La-hầu-la xuất gia và giao cho ngài Xá-lợi-phất nhận làm đệ tử. Đã xuất gia rồi thì ngôi vua cũng mất, cho nên nói là Phú Chướng.
La-hầu-la ở độ tuổi sa-di nhiều lần thích nói dối. Khi có vua chúa, đại thần, bà-la-môn, cư sĩ đến xin gặp Phật thì La-hầu-la nói dối là Phật đi vắng, khiến cho rất nhiều người không được gặp Phật. Đó là gây chướng ngại cho người khác, lại phạm tội nói dối. Đức Phật liền quở trách. [Một hôm] Phật đi về, sai La-hầu-la lấy nước rửa chân. Phật dùng chân hất chậu đựng nước úp lại rồi ngửa ra, ba lần như vậy, sau đó lại úp chậu xuống đất và bảo La-hầu-la rót nước vào. La-hầu-la thưa: “Chậu úp, rót nước vào không thể giữ lại.” Phật dạy: “Con [thường nói dối nên] cũng giống như cái chậu úp này, ở trong Phật pháp nhưng nước Pháp rót vào không thể giữ lại. Nay con phải nói lời chân thật, đừng nói dối nữa.”
Sau đó, [La-hầu-la] nỗ lực chuyên cần tu tập nhưng không chứng quả, liền thưa hỏi Phật. Phật hỏi: “Con đã vì người khác giảng thuyết về năm ấm hay chưa?” La-hầu-la đáp: “Dạ chưa.” Phật dạy: “Nên vì người khác thuyết giảng như vậy.”
[La-hầu-la theo lời dạy] thuyết pháp rồi [vẫn chưa chứng quả,] lại đến thưa hỏi. Phật dạy: “Con đã thuyết giảng về mười hai nhập hay chưa? Đã thuyết giảng về mười tám giới hay chưa? Thuyết pháp là pháp môn để chứng đắc đạo quả, nếu muốn chứng đắc đạo quả thì nên vì người khác thuyết pháp.”
Vì ngài [La-hầu-la] rộng thuyết giáo pháp rồi sau đó mới [tự mình] đắc đạo, nên gọi là Phú Chướng.
Sau khi chứng đắc đạo quả rồi liền dứt trừ hết thảy kiến phiền não và ái phiền não.
[54] Chấm dứt sự tái sinh trong ba cõi nên gọi là Phú Chướng. Do đã dứt sự tái sinh trong ba cõi, dù nguyện lực cũng không thể lôi kéo nên gọi là Phú Chướng.
Đức Phật khuyên bốn vị Đại A-la-hán
[55] không nên diệt độ sớm, hãy đợi đến khi nào Phật pháp đã dứt mất. Do vậy ngài La-hầu-la vẫn còn ở lại duy trì Chánh pháp, cho đến nay vẫn chưa vào Niết-bàn vô dư, cho nên nói là Phú Chướng. Đại lược là như vậy.
Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng, phân tích suy xét giáo pháp đạo đế nên ngăn trở được bốn trụ địa.
[56] Theo Thông giáo thì thể nhập, thấu hiểu giáo pháp đạo đế nên ngăn trở được bốn trụ địa. Theo Biệt giáo thì tuần tự tu tập
[57] chứng đắc ba trí
[58] nên ngăn trở được năm trụ địa.
[59] Theo Viên giáo thì “nhất tâm tam trí”, tức trong một tâm đồng thời chứng đắc cả ba trí nên ngăn trở được năm trụ địa.
Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi trung đạo ngăn lấp cả hai bên,
[60] [tích là thị hiện có mười ngăn chướng], tám loại chướng ngăn trở Niết-bàn, một loại ngăn trở [khiến phải đi vào] sinh tử, một loại không ngăn sinh tử, không ngăn Niết-bàn, mà ngăn [nhập] Vô dư [Niết-bàn].
[61]
Về ý nghĩa quán tâm thì có thể giải thích như trước. Đại lược là như vậy.
6. Kết lại
KINH VĂN
Đó là các vị đại A-la-hán được nhiều người biết đến.
Những vị như nêu trên được tôn xưng là “chúng sở tri thức” (眾所知識), nghĩa là mọi người đều biết đến. Hoặc có người nói “tri” cũng là “thức”, hoặc có người nói nghe danh là “tri”, được gặp gỡ, nhìn thấy gọi là “thức”, hoặc nói nhìn thấy hình thể là “tri”, rõ biết trong tâm là “thức”.
Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn đã vì chúng sinh làm bậc tri thức rốt ráo, tích [là phương tiện] thị hiện làm bậc tri thức quyền thừa.
[62] Đại lược là như vậy.
Tri thức quán hạnh thì giống như trong chỉ quán.
Phần trên đã nói về [các vị Thanh văn] được nhiều người biết đến. Tiếp theo sẽ nói về những vị được ít người biết đến.
KINH VĂN
Lại có các vị hữu học, vô học đến hai ngàn người.
Những vị tỳ-kheo ít người biết đến
Kinh văn nói: “Lại có các vị hữu học và vô học, đến hai ngàn người.”
[63] Ở đây chỉ nêu giai vị và nói rõ số lượng, nhưng không xưng tán đức hạnh [như trước], nên gọi những vị này là [những tỳ-kheo] ít người biết đến.
[Phàm tăng không hiểu được thánh tăng] nên thánh và phàm không lẫn lộn nhau, cũng không phân biệt nhiều người biết đến hay ít người biết đến. [Tuy nhiên,] chỉ riêng vì những kẻ ngưỡng cầu bậc đức độ cao xa nên nêu những vị nhiều người biết đến để dẫn dắt, còn đối với những người ưa chuộng lui về giấu tên ẩn đức thì nêu ra các vị ít người biết đến để dẫn dắt. Vì tùy thuận chúng sinh nên có số lượng nhiều ít, không thể vì hình tích thị hiện có nhiều hoặc ít người biết đến mà để mất đi ý nghĩa căn bản.
Giải thích về hữu học và vô học
Trong Tạng giáo có mười tám bậc hữu học và chín bậc vô học. Năm giai vị đầu của Thông giáo đều gọi là hữu học, từ địa vị thứ sáu gọi là vô học. Lại có thể nói chín địa vị của Thông giáo đều là hữu học, Phật địa là vô học.
Trong Biệt giáo và Viên giáo thì phân biệt hữu học và vô học dựa vào yếu tố công dụng hay vô công dụng,
[64] hoặc xét theo cụ túc hay chưa cụ túc.
[65]
Kinh A-hàm nói: “Ngoại đạo hỏi Phật rằng: ‘A-la-hán còn học nữa chăng?’
[66] Phật nói: ‘A-la-hán không còn làm các việc ác, an trụ nơi các pháp lành. Học sự vô học đó nên gọi là học. Nếu người nào học được như vậy cũng gọi là vô học. Người học tức là tu tập những chỗ phải dứt trừ, nếu không còn gì để dứt trừ gọi là vô học.’”
[67]
Như trên là bốn cách phân biệt [học và vô học]. Lại theo Ngũ phương tiện
[68] thì không phải học, không phải vô học, là cách phân biệt thứ năm.
Theo trong bốn giáo nghĩa [Tạng, Thông, Biệt, Viên] thì ước lệ cũng như nhau, nên lấy 4 nhân cho 5 thành 20 cách phân biệt [học và vô học].
Giải thích theo bản tích thì bản vốn đã là bậc pháp thân đại sĩ, thường ở nơi địa vị học và vô học rốt ráo, [tích là vì] chúng sinh [nên thị hiện] những người hữu học và vô học trang nghiêm nơi rừng sa-la song thụ.
Theo nghĩa [quán tâm] thì chánh quán là trung đạo, chẳng duyên theo hai bên, khoảng giữa, tức là vô học. Có thể quán như thế gọi là học.
Nếu theo pháp quán để làm rõ số thì quán sắc và tâm có đủ trong 10 pháp giới và 10 như thị. Giới và như hỗ tương qua lại, [với sắc và tâm] tức là đủ số 2.000.
[69]
Nêu hình tích tức làm rõ bản, là gốc của pháp, cho nên tích đó là bản tích.
Phần tiếp theo nói về ni chúng.
B. Chúng tỳ-kheo ni
KINH VĂN
Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với ni chúng 6.000 người cùng đến. Mẹ của La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la cũng cùng đến với ni chúng.[70]
Theo cựu giải thì theo cách phân chia như trước, nghĩa là chia thành hai chúng, nay không dùng cách đó. Nếu theo ước lệ như trước thì chia ra các vị được nhiều người biết đến và các vị ít người biết đến, nhưng phần này lại không có câu văn [“chúng sở tri thức”
[71] ở cuối] nên không thể dựa theo văn nghĩa để phân chia được. Do vậy chỉ nêu ra hai vị chủ trì của chúng [tỳ-kheo-ni,] không cần phải nhọc sức phân chia lớn nhỏ, nhiều hoặc ít [người biết đến].
Ma-ha Ba-xà-ba-đề
[Kinh văn] trước tiên kể ra [tỳ-kheo-ni Ma-ha] Ba-xà-ba-đề (Mahāpajāpatī), Hán dịch là Đại Ái Đạo, cũng có tên là Kiều-đàm-di (Gautamī), Hán dịch là Chúng Chủ. Chữ “ni” [như trong tỳ-kheo-ni] theo Phạn ngữ là chỉ chung cho nữ tính.
[Theo bản tích thì] bản là vốn trụ nơi pháp môn Bát-nhã ba-la-mật (Trí độ), tích là [thị hiện] làm mẹ của 1.000 vị Phật, nuôi dưỡng bậc đạo sư.
Theo quán tâm giải thích [tên gọi này] thì quán trung đạo rộng khắp nên gọi là Đại, tâm từ không điều kiện (vô duyên từ) nên gọi là Ái, lý trung đạo rỗng không thông suốt nên gọi là Đạo.
Đại là nói về công hạnh của tự thân, Ái là nói việc giáo hóa người khác. Như do ái mà thọ sinh, khởi lòng từ nên thiệp nhập với đạo, như vậy thông cả hai ý nghĩa tự mình thực hành và giáo hóa người khác.
[Kinh nói] 6.000 là số lượng. Theo quán môn thì quán sáu căn thanh tịnh, [mỗi căn] đầy đủ 1.000 công đức. Tuy nói riêng mắt có 800 công đức, tai có 1.200 công đức, nhưng lấy số nhiều bù vào số ít nên tính trọn tất cả thành 6.000, để nêu căn bản của pháp môn. Đây cũng là cách giải thích của quán hành.
Da-du-đà-la
“Mẹ của La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la.” Đây là nêu tên con để nói về mẹ. [Da-du-đà-la (Yaśodharā)], Hán dịch là Hoa Sắc, cũng dịch là Danh Văn, hoặc cho là không dịch được. Bà là người ôn hòa hiền thục, biết cung kính cần kiệm, đức hạnh sánh cùng thái tử. Khi còn tại gia là vợ của Bồ Tát, trời người đều biết, khi xuất gia là bậc đứng đầu Ni chúng, đạt địa vị vô học. Cho nên đâu lẽ nào nói chúng tỳ-kheo-ni này là không có danh tiếng?
[72]
Trong kinh Thập nhị du
[73] kể rằng thái tử có ba người vợ. Phu nhân thứ nhất là Cù-di, phu nhân thứ hai là Da-du và phu nhân thứ ba là Lộc-dã. Kinh Vị tằng hữu và kinh Thụy ứng đều nói La-hầu-la là con của Cù-di.
[74] Kinh Niết-bàn và kinh Pháp hoa đều nói [La-hầu-la] là con của Da-du-đà-la. Hai nghĩa khác biệt làm sao giải thích thông suốt? Hoặc có thể những kinh [Vị tằng hữu và Thụy ứng] nói [Cù-di] là đại mẫu,
[75] còn [kinh Pháp hoa và kinh Niết-bàn] nói [Da-du-đà-la] là nói người sinh ra.
Thích luận nói Cù-tỳ-đà
[76] là bảo nữ không mang thai, cũng chính là Cù-di, Hán dịch là Minh Nữ, cho nên biết chắc [La-hầu-la] là con của Da-du-đà-la.
Giải thích theo bản tích thì người vợ tất nhiên phải sánh bằng, lẽ đâu lại có người phàm phu
[77] làm vợ thái tử? Cho nên biết rằng bản là [Da-du-đà-la] vốn trụ nơi thiền định vắng lặng, được pháp hỷ vi diệu, tích là thị hiện làm vợ của thái tử.
Kinh Bi Hoa nói rằng: “[Da-du-đà-la] khi ở chỗ đức Phật Bảo Tạng có lời thệ nguyện làm vợ [thái tử].”
[Giải thích theo quán tâm thì] quán không, được pháp hỷ vô lậu nên nêu Lộc-dã là vợ [thái tử], quán giả, được pháp hỷ đạo chủng trí nên nêu Da-du-đà-la là vợ [thái tử], quán trung [đạo], được pháp hỷ nên nêu Cù-di làm vợ [thái tử].
[78]
Bồ Tát thị hiện Thanh văn
Phần trên đã nói rõ về [cách giải thích theo] bản tích và quán tâm, bây giờ sẽ đi vào tổng luận, nêu rõ phương tiện khéo léo quyền biến khúc chiết, làm sáng tỏ quán hành tinh vi. Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm có đủ các hình thức thị hiện, để phù hợp với từng căn tánh nên không một việc gì không làm được. Nay lấy nghĩa thô mà luận thì thác sinh vào chốn vương cung, giáng thần làm thánh hậu. Chư Bồ Tát hiện pháp thân đều là để phụ giúp việc hành hóa của Phật, do vậy mà hóa hiện khắp nơi.
Khi [đức Phật] ứng hiện đản sinh với 32 tướng tốt đoan nghiêm, các bậc đại sĩ mỗi vị cũng đều theo đó [thị hiện] xuất sinh, hoặc [hiện điềm] nhà cửa trống không, mưa xuống châu báu, biện tài thể hiện qua [người mẹ], hoặc báo tin trong giấc mộng...
Khi đức thái tử động lòng vất bỏ ngôi vua, bỏ quyền trị nước, ra khỏi thành đi học đạo, các bậc đại sĩ tất nhiên cũng đều theo đó [thị hiện] tầm sư học đạo, thể hiện tài năng xuất chúng, mỗi vị đều trở thành người đứng đầu của giáo phái [mình theo học].
Khi [đức Phật] chuyển pháp luân lần đầu, cửa pháp cam lộ vừa mở, nghe biết các bậc đại sĩ cơ duyên giáo hóa chưa thuần thục, liền thị hiện cùng không chịu quy phục, mỗi vị đều giữ lấy đạo riêng của mình cho là chân thật. [Vào lúc ấy], người giáo hóa với kẻ được giáo hóa đều giữ nguyên phẩm tính ban đầu như sữa.
Khi nhân duyên của người được giáo hóa đã thuần thục liền giống như tơ trắng dễ nhuộm, như hoa trong hồ sớm nở, bỏ phàm thành thánh, chuyển sữa thành lạc,
[79] bậc thầy các tông phái đều trở thành đệ tử thượng thủ của đức Phật, hoặc trí tuệ, hoặc thần thông, hoặc biện tài tam-muội, mỗi môn đều có một vị đứng đầu, cùng trợ lực với đấng Pháp vương để độ người chưa được độ, giúp cho những ai đã thuần thục lại càng thuần thục hơn nữa.
Trong pháp hội Phương đẳng,
[80] được nghe những công đức không thể nghĩ bàn của hàng Bồ Tát, [các ngài lại thị hiện] hổ thẹn [với khuynh hướng] Tiểu thừa mà ngưỡng mộ Đại thừa. Hổ thẹn [với khuynh hướng] Tiểu thừa nên buồn than tự trách đã để mất đi tri kiến vô lượng của Như Lai. Ngưỡng mộ Đại thừa lại không biết phải làm sao để được trí tuệ vô thượng của Phật. [Giai đoạn thị hiện này] giống như chuyển sữa đặc (lạc) thành váng sữa sống (sinh tô).
Tiếp theo được nghe pháp môn Đại thừa
[81] Bát-nhã, đầu tiên học qua sắc pháp, tâm pháp, cho đến cuối cùng [học về Nhất thiết] chủng trí, bao gồm [hết thảy muôn pháp] lớn nhỏ, trong tâm ngoài cảnh, nắm giữ buông xả, hoặc chung hoặc riêng, hoặc thiên lệch hoặc tròn đầy. Tuy vâng lời Phật dạy lắng nghe rõ biết nhưng không hề mong đợi tự mình có được trí tuệ như vậy. Tuy chưa tức thời buông xả nhưng đã dần dần hiểu biết thông suốt rộng khắp. [Giai đoạn thị hiện này] giống như chuyển từ váng sữa sống (sinh tô) thành váng sữa chín (thục tô).
Tiếp đến được nghe giáo nghĩa Pháp hoa, thể hội tự tánh thiên chân, biết chắc được rằng chư Phật như cha, Bồ Tát như con, được Phật thụ ký, giao phó giáo pháp Đại thừa, từ bỏ phương tiện quyền thừa, thấu suốt ba thừa thành một, giống như [từ sữa đã thành sữa đặc, sinh tô, thục tô, giờ đây] bốn vị ấy chỉ còn đồng nhất một vị đề hồ. Chẳng riêng một người diệt độ mà làm cho tất cả [chúng sanh] cùng được diệt độ giống như Như Lai.
Các bậc [đại sĩ là] bề tôi trong giáo pháp của đấng Pháp Vương, vì đại sự [nhân duyên giáo hóa chúng sanh] mà ra đời, khéo dùng phương tiện. Ban đầu dùng pháp quyền thừa,
[82] phá trừ [sự bám chấp vào] 25 cõi [hiện hữu] đầy phiền nhiễu phức tạp, thành tựu các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã
[83] để làm lợi ích hết thảy chúng sinh. Tiếp theo vận dụng một phần giáo pháp rốt ráo,
[84] phá trừ khuynh hướng nhỏ hẹp của Nhị thừa,
[85] chuyển thành tâm nguyện rộng lớn của hàng Bồ Tát, thành tựu các pháp thường, lạc, ngã, tịnh,
[86] làm lợi ích hàng thánh nhân. Cuối cùng mới vận dụng giáo pháp thường trụ viên mãn,
[87] phá trừ các pháp trước sau, thiên lệch hai bên, thành tạng pháp bí mật của chư Phật, chẳng phải bên này, chẳng phải bên kia,
[88] chân thật lợi ích rốt ráo.
Khi đấng Pháp vương đã hoàn tất sự giáo hóa chúng sinh,
[89] thệ nguyện lớn lao đã trọn thành, cho nên các ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên ngay sau hội Pháp hoa liền nhập diệt.
[90] Bậc Đại Thánh cũng không còn ở đời bao lâu. Cho nên nói rằng:
Thệ nguyện xưa của ta,
Nay thành tựu trọn vẹn.
Như Lai chẳng bao lâu,
Cũng sẽ vào Niết Bàn.
Việc đọc kệ trước khi nhập diệt là khởi đầu từ đó.
[Kinh nói] 20.000 vị Phật [đồng hiệu Nhật Nguyệt] Đăng Minh cũng như Phật Ca-diếp đều lấy kinh Pháp hoa này làm cứu cánh. Vì hết thảy [thành tựu của] thầy trò các vị đều do nơi kinh này mà ra, nên ngày nay [cùng nhau thị hiện], bên trong ẩn giấu đạo Bồ Tát, bên ngoài hiện làm các vị Thanh văn. [Như lời Phật nói:] “Ta thành Phật thật ra đến nay đã trải qua vô lượng ức kiếp.” Do câu này mà suy ra thì biết, các vị Đại A-la-hán [trong pháp hội này vốn] từ nơi pháp thân mà biến hiện, tùy duyên như nước chảy muôn dòng, hoặc làm bậc hữu học, vô học, hoặc hiện thành kẻ nam người nữ, hoặc làm người xuất gia hay kẻ tại gia, dùng sức [đại định] Thủ-lăng-nghiêm nên không một hình tướng nào mà không thị hiện. Phương tiện khéo léo quyền xảo làm những điều như vậy. Đại lược là như thế.
Giải thích tổng quát theo quán tâm thì các bậc đại sĩ từ nơi pháp thân ứng hiện thi hành sự giáo hóa như trên, nếu không quán chiếu về [ý nghĩa] phương tiện thì [những việc ấy] đối với người tu hành không có lợi ích, chẳng khác nào người nghèo đếm châu báu [của người khác], hoặc như người mù cầm đuốc [soi đường].
Thế nhưng các tâm sở
[91] rất nhiều nên chỉ tạm lược nói những tâm sở thiện, cũng như đệ tử Phật rất đông nhưng chỉ nêu ra mười vị. Mười tâm sở thiện là: tín, tấn, niệm, định, tuệ, hỷ, xả, ỷ, giác,
[92] giới. Mười tâm sở thiện này trợ giúp tâm vương có thể tu sửa điều ác, hướng về điều thiện, chuyển phàm thành thánh. Hết thảy các pháp môn đều lấy 10 tâm này làm căn bản, cũng giống như 10 đại đệ tử trợ giúp đức Phật hành hóa, giáo hóa thuần thục chúng sinh, xây dựng Phật pháp.
- Tín (lòng tin): Tâm sở này ví như ngài A-na-luật với thiên nhãn bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Mắt là đứng đầu trong năm căn, cũng như phương đông là trên hết trong các phương hướng. Lòng tin là một trong những tâm sở ban đầu khi mới đến với Phật pháp.
- Tấn (tinh tấn): Tâm sở này ví như ngài Ca-diếp với hạnh đầu đà bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Hạnh đầu đà tinh tấn chuyên cần chấp nhận khổ nhọc là so với tâm sở tấn vậy.
- Niệm (ghi nhớ): Tâm sở này ví như ngài Ưu-ba-ly là vị trì luật bậc nhất [trong các đệ tử Phật], có sức ghi nhớ thật mạnh mẽ, [những điều đã học] luôn ghi nhớ không quên.
- Định (an định): Tâm sở này ví như ngài Mục-kiền-liên là vị thần thông bậc nhất [trong các đệ tử Phật].
- Tuệ (trí tuệ): Tâm sở này ví như ngài Xá-lợi-phất, là vị trí tuệ bậc nhất [trong các đệ tử Phật], [đối với hết thảy các pháp] đều có thể hiểu rõ.
- Hỷ (vui mừng, hoan hỷ): Tâm sở này ví như ngài A-nan, là vị đa văn bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Đa văn phân biệt các niềm vui, vui ấy chính là tâm sở hỷ.
- Ỷ (dựa vào, nương theo): Tâm sở này ví như ngài Ca-chiên-diên, biện luận thể nhập đến mức tận cùng nhỏ nhiệm, lý lẽ thông suốt, dùng lý luận để phá trừ tà kiến, hiển dương chánh đạo, như nương theo việc bỏ ác tu thiện, [nhân đó] lìa khổ được vui.
- Xả (buông xả): Tâm sở này ví như ngài Tu-bồ-đề, là vị thấu hiểu nghĩa không bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Khi trụ yên nơi sự bình đẳng của tánh không thì tương ưng với tâm sở xả.
- Giác (rõ biết): Tâm sở này ví như ngài Phú-lâu-na, là vị thuyết pháp bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Sự hiểu biết rõ ràng là căn bản của lời nói, nên khi thiết lập được căn bản rồi thì có khả năng biện thuyết không cùng tận.
- Giới (nghiêm trì giới luật): Tâm sở này là ví như ngài La-hầu-la, là vị giữ giới bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Điều này có thể hiểu được [không cần giải thích].
Mười tâm sở thiện [nêu trên] giúp tâm vương có thể thành tựu quán hạnh, chỉ trong một niệm tưởng vào sâu pháp lành, đầy đủ Tam bảo. Tâm vương là Phật bảo, tâm sở là Tăng bảo, chỗ duyên theo trong thực tiễn không thuộc tâm vương, không thuộc tâm sở, đó là Pháp bảo. Khi thâm nhập thực tiễn thì công năng, sức mạnh của tâm vương và tâm sở sẽ được phát huy đầy đủ.
Lại nếu giải thích theo 10 thông đại địa tâm sở
[93] cùng sinh khởi với tâm vương thì có thể kết hợp với bất kỳ pháp thiện hoặc pháp bất thiện, biến thông khắp cả. Các thông tâm sở
[94] đó là: tưởng, dục, xúc, tuệ, niệm, tư, giải thoát, ức, định, thọ.
- Tưởng (suy tưởng): Tâm sở này ví như ngài Phú-lâu-na. Do tưởng mà thấu đạt các danh xưng giả tạm. Ngài Phú-lâu-na khéo thấu đạt được hết thảy các danh xưng giả tạm nên có biện tài không ngăn ngại.
- Dục (mong cầu): Tâm sở này ví như ngài Ca-diếp, không có những mong cầu đối với các pháp thế gian mà chỉ mong cầu đối với các pháp vô vi.
- Xúc (xúc chạm): Tâm sở này ví như ngài Ca-chiên-diên. Xúc và nhập là hai pháp rốt cùng thiệp nhập vào nhau. Ca-chiên-diên giỏi luận nghị, ý nghĩa đưa ra rốt cùng đều có thể hỗ tương qua lại.
- Tuệ (trí tuệ): Tâm sở này ví như ngài Xá-lợi-phất, đối với hết thảy các pháp đều có thể hiểu rõ.
- Niệm (ghi nhớ): Tâm sở này ví như ngài Ưu-ba-ly, là vị đệ tử ghi nhớ giới luật hơn hết.
- Tư (tư duy): Tâm sở này ví như ngài La-hầu-la. Tư duy là thuộc về hành ấm. Ngài La-hầu-la là vị đệ tử thực hành trì giới hơn hết.
- Giải thoát (không trói buộc): Tâm sở này ví như ngài Tu-bồ-đề. Thoát có nghĩa là không bị trói buộc. Ngài Tu-bồ-đề thấu hiểu nghĩa “không” nên ở trong cảnh giới “có” mà vẫn được giải thoát, không trói buộc.
- Ức (nhớ nghĩ): Tâm sở này ví như ngài A-na-luật. Từ ký ức dao động phát ra, lưu giữ ngoại cảnh, dễ tu đạt thiên nhãn.
- Định (tam-ma-đề, chánh định): Tâm sở này ví như ngài Mục-kiền-liên, [điều này] có thể hiểu được.
- Thọ (thọ nhận): Tâm sở này ví như ngài A-nan, đa văn nghe nhiều rồi nhận lãnh ghi nhớ tất cả không hề sai lầm.
Mười vị đệ tử ấy, mỗi vị đều đầy đủ các phẩm đức, nhưng đi theo pháp môn chuyên biệt vì để tuyên thuyết, chỉ bày Phật đạo tùy theo ý muốn của chúng sinh. [Đối với những chúng sinh nào] ưa thích trí tuệ thì tôn ngài Xá-lợi-phất làm thầy, cho đến những người ưa thích đa văn thì tôn ngài A-nan làm thầy. Các vị cùng trợ giúp đấng Pháp vương, mỗi người giữ một vai trò.
Bây giờ giải thích theo quán tâm, cũng giống như vậy. Trong mỗi một tâm đều có đủ tâm vương, tâm sở tạo thành pháp quán. Cho nên tâm vương, tâm sở cùng hỗ tương qua lại để đạt đến sự khai ngộ. Hoặc do nơi tâm sở tưởng mà nhập đạo, hoặc do nơi tâm sở dục mà nhập đạo, tùy theo chỗ thích hợp mà tâm vương và tâm sở
[95] cùng gây tác động, nắm giữ, chuyển hóa các tâm trần lao mà làm Phật sự.
Theo cách quán như vậy, chưa ngộ đạo thì quán hành như sữa. Nếu phát [trí] vô lậu thì quán hành như sữa đặc (lạc). Nếu phá trừ được trần sa [phiền não] thì [quán hành] như bơ sống (sinh tô), bơ chín (thục tô). Nếu phá trừ được vô minh thì quán [hành] như đề hồ. Đến lúc được như đề hồ rồi thì tâm vương, tâm sở đều dứt hết. Tâm, tâm pháp, tâm sở không hoạt động nên gọi là thực hành Bát-nhã Ba-la-mật.
Kinh Phổ Hiền quán nói rằng: “Quán tâm không tâm, pháp chẳng trụ nơi pháp... ...Tâm ta tự nó vốn không, tội hay phước đều không có ai là chủ thể.”
[96] Nghĩa là, không tâm cũng không tâm sở, đó gọi là quán chân chánh. Những tâm sở trần lao nếu chưa dứt hết thì pháp quán chưa xong. Cho nên trong kinh nói rằng: “Chúng sinh không độ [hết] thì ta không thành Chánh giác.” Chính là ý này.
[97] Đại lược là như vậy.
II. Chúng Bồ Tát
KINH VĂN
Có 80.000 vị Đại Bồ-Tát, tất cả đều không còn thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều đạt được đà-la-ni, có tài biện luận vui thích thuyết giảng, chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển, từng cúng dường vô số trăm nghìn đức Phật, ở nơi chư Phật gieo trồng các gốc công đức, thường được chư Phật ngợi khen xưng tán, dùng tâm từ tu thân, khéo thể nhập trí tuệ Phật, thông đạt trí tuệ lớn lao, đạt đến bờ giải thoát, danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới, thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sinh.
Phần thứ hai liệt kê hội chúng Bồ Tát. Thích luận chép: “‘Bồ Tát bao gồm cả bốn chúng xuất gia và tại gia,
[98] vì sao phải liệt kê riêng?’ Đáp: ‘Có Bồ Tát nằm trong bốn chúng, nhưng có những người trong bốn chúng không phải Bồ Tát, vì họ không phát tâm cầu thành Phật. Cho nên ở đây phải liệt kê riêng những người phát tâm cầu làm Phật, gọi chung là chúng Bồ Tát.’”
Phần này chia ra sáu mục. Thứ nhất là phẩm loại, thứ hai là số lượng, thứ ba là giai vị, thứ tư là xưng tán đức, thứ năm là kể danh hiệu và thứ sáu là kết lại.
1. Phẩm loại
Về phẩm loại, hội chúng này đều là Bồ Tát Ma-ha-tát, nói đầy đủ phải là Bồ-đề-tát-đỏa Ma-ha-tát-đỏa (Bodhisattva Mahāsattva). [Trong bốn chữ Bồ-đề-tát-đỏa], ngài La-thập thấy rườm rà nên lược bỏ hai chữ “đề, đỏa”, [còn lại là Bồ Tát].
Bồ-đề, Hán dịch là đạo; tát-đỏa dịch là tâm,
[99] ma-ha dịch là đại. Hết thảy các vị này đều [tự mình] tìm cầu Phật đạo rộng lớn, lại [nỗ lực giáo hóa] chúng sinh cho thuần thục. Đạo tâm (Bồ-đề-tát-đỏa), Đại đạo tâm (Ma-ha Bồ-đề-tát-đỏa) là [danh xưng phân biệt] phẩm loại. Trong hàng Bồ Tát lại cũng phân ra nhiều phẩm loại, như thiên, thông, biệt, viên.
[100]
Thích luận dẫn trường hợp ngài Ca-chiên-diên để làm rõ ý nghĩa lấy [sự tu tập thành tựu] sáu ba-la-mật làm giới hạn, cho là viên mãn. Đó là muốn chuyển hóa [sự xấu ác của] chúng sinh, [ví như] máu huyết, thành [các pháp lành, ví như] sữa. Còn như trong Đại phẩm nói rõ có Bồ Tát vừa mới phát tâm đã tương ưng hết thảy bình đẳng,
[101] đây là muốn chuyển hóa sữa thành sữa đặc (lạc).
[102]
Lại như trong Đại phẩm nói rõ có Bồ Tát vừa mới phát tâm đã [có năng lực] du hí thần thông, làm thanh tịnh cõi Phật.
[103] Lại như trong kinh Tịnh Danh
[104] nói là [những Bồ Tát vừa mới phát tâm đã]
[105] đạt được [pháp môn] giải thoát không thể nghĩ bàn, đều có thể biến thân hình thành to lớn để ngồi lên tòa cao,
[106] lại có thể hạ mình chịu sự chê trách.
[107] Đây là muốn chuyển hóa sữa đặc (lạc) thành váng sữa sống (sinh tô), váng sữa chín (thục tô).
[108]
Lại cũng trong Đại phẩm nói rõ có Bồ Tát vừa mới phát tâm liền ngồi dưới gốc Bồ-đề
[109] chứng thành Chánh giác, chuyển Pháp luân, hóa độ chúng sinh.
[110] Đây là ví như chuyển hóa sinh tô, thục tô thành đề hồ.
[111]
Cho nên, [kinh văn] sau đó [trong kệ tụng] nói rằng: “Bồ Tát nghe pháp này, nghi ngờ đều dứt sạch.”
[112] Lại [một đoạn khác] nói rằng nếu Bồ Tát chưa nghe kinh Pháp hoa thì chưa phải khéo thực hành đạo Bồ Tát. Nếu nghe kinh này rồi tức là khéo thực hành Bồ Tát đạo.
[113]
Lại nữa, kinh Niết-bàn nói rằng: “Bồ Tát không nghe đến Niết-bàn thì thường có hy vọng. Nếu nghe đến Niết-bàn rồi thì mọi hy vọng đều dứt.”
[Theo nghĩa trên] nên lược nói có bốn hàng Bồ Tát [thiên, thông, biệt, viên] như trên.
Theo nghĩa bản tích thì bản là các giai vị của Bồ Tát khó có thể suy lường, hoặc ở bậc Đẳng Giác, hoặc ngang bậc Pháp Vương, như [đồng tử] Thiện Tài vào pháp giới thấy Bồ Tát Văn-thù sắc tượng vô biên, pháp môn sâu xa. Bản là gần gũi chư Phật, tích là trợ giúp đức Thích-ca nên thị hiện làm Bồ Tát, hiện sắc thân mọi nơi, dùng sức tam-muội biến hình rộng khắp, dùng lời thuyết pháp rộng khắp, tùy chỗ thích nghi [của chúng sanh] để giáo hóa không thể nghĩ bàn, chỉ có thể dùng tâm ý để biết, không thể dùng lời nói hết. Cho nên tích là [thị hiện] dẫn dắt có bốn vị [nhũ, lạc, sinh tô, thục tô], nhưng tất cả đều quy về chỉ một vị đề hồ chân thật,
[114] ví như búa và đe
[115] hợp nhau rèn các chất liệu thô thành khí cụ. Thành vị đề hồ rồi thì thời kỳ hóa độ cũng dừng. Nhưng giai vị từ xưa vốn đã thành tựu rốt ráo, đâu phải ngày nay mới bắt đầu bước vào Đại thừa, cũng chẳng phải có tịch diệt nơi đạo tràng hay lợi căn đốn ngộ,
[116] vì dù đốn hay tiệm tất cả cũng đều là hình tích thị hiện.
Giải thích theo quán tâm thì quán Trung đạo cùng lúc quán chiếu cả Không và Giả (Nhị đế) gọi là Đại, thông suốt đến quả Bồ-đề gọi là Đạo, phá trừ năm trụ trần lao
[117] gọi là chúng sinh.
[118] Đại lược là như vậy.
2. Số lượng
Nói 80.000 người là số lượng [Bồ Tát]. Những kinh khác chúng hội rất nhiều, ở kinh này vì sao lại ít? Hoặc nói rằng chỉ nêu số lượng những vị lớn, hoặc ví như khi đức vua bàn việc cơ mật, không thể đưa ra bàn rộng khắp nước. Đại lược là như vậy.
Lược nói theo quán tâm thì quán một tâm lành đầy đủ mười pháp giới. Mười pháp giới hỗ tương qua lại thành trăm pháp giới, ngàn tánh tướng. [Cho nên], mười điều lành tức là muôn pháp.
Lược nói theo giáo nghĩa thì Bát chánh đạo là tám muôn pháp môn. Đại lược là như vậy.
3. Giai vị
[Kinh nói:] “Tất cả đều không còn thối chuyển đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”
[119] Đây là nói rõ về giai vị [của chư Bồ Tát].
A-nậu, Hán dịch là Vô thượng đạo, như trong phần cảnh diệu
[120] có nói. Về giai vị thì như trong phần vị diệu
[121] có nói.
“Không còn thối chuyển”, lược nói có ba loại không thối chuyển là giai vị, công hạnh và niệm lực, nên phân biệt theo bốn loại [tất đàn]. Như không còn sinh vào ba đường ác, đó là giai vị không còn thối chuyển. Không bị sinh vào những nơi biên địa, đầy đủ các giác quan, không sinh làm thân nữ, đó là công hạnh không còn thối chuyển. Thường nhớ biết về những đời trước, tức là niệm lực không còn thối chuyển. Đầy đủ [ba loại không thối chuyển] như vậy gọi là địa vị A-bệ-bạt-trí (Avaivartika), [Hán dịch là Bất thối chuyển]. Đó là giải thích theo Tạng giáo.
[Theo Thông giáo thì] tâm thứ sáu [ở Nhẫn pháp vị]
[122] trở về trước còn là hàng Bồ Tát dễ dao động,
[123] gốc rễ niềm tin chưa xác lập,
[124] nên vẫn còn có thể thối chuyển. Kể từ tâm thứ bảy [ở Thế đệ nhất pháp vị] trở lên, từ Sơ địa đến Lục địa [là Ly dục địa] thì không còn trở lại làm phàm phu hoặc Nhị thừa, gọi là giai vị không còn thối chuyển. Tuy chánh sử [phiền não] đã dứt nhưng chưa rộng tu muôn hạnh, công hạnh vẫn còn có thể thối chuyển. Lên đến Thất địa [là Dĩ biện địa] thì gọi là công hạnh không còn thối chuyển, nhưng vì còn khởi niệm Nhị thừa nên vẫn có niệm thối chuyển. Lên đến Bát địa [là Bích-chi Phật địa] thì sự giáo hóa và công phu tu tập đều song song thành tựu, thể nhập vào dòng nước pháp mà trôi chảy không ngừng, gọi là niệm lực không còn thối chuyển, tức là A-bệ-bạt-trí. Ý nghĩa này thông cả Tam thừa, Thập địa.
Các luận sư phái Địa luận
[125] nói rằng, [hàng] Thập trụ là chỗ chứng đắc không còn thối chuyển, Thập hạnh là giai vị không còn thối chuyển, Thập hồi hướng là công hạnh không còn thối chuyển, Thập địa là niệm lực không còn thối chuyển.
[126] Đây là ý nghĩa theo Biệt giáo, không phù hợp với ý nghĩa trong kinh này nên không vận dụng.
Kinh Anh lạc
[127] nói: “Đạt đến Sơ địa thì ba pháp quán
[128] cùng lúc hiện tiền, tâm thường vắng lặng, tự nhiên nhập vào dòng chảy.” Đây là ý nghĩa không thối chuyển theo Biệt giáo, cũng không vận dụng ở đây.
Còn như trong kinh Hoa nghiêm nói rõ, Bồ Tát Sơ trụ đạt được một thân cho đến vô lượng thân Như Lai đều đầy đủ ba loại không thối chuyển. Đây là ý nghĩa không thối chuyển theo Viên giáo, là lẽ hợp nhất chân thật về sự, nay vận dụng để phân biệt xác định các giai vị.
Theo nghĩa bản tích thì bản là các giai vị vốn đều vắng lặng dứt sạch, đến Thập địa còn không có huống chi là Sơ trụ, lại chẳng có không thối chuyển ở Sơ trụ, huống chi lại có [các nghĩa của] Biệt giáo hay Thông giáo. Các giai vị theo Biệt giáo và Thông giáo là phù hợp để giải thích về sự liệt kê chúng hội ở các kinh khác, riêng các giai vị của Viên giáo chính là ở trong kinh này. Các bậc thầy luận giải những kinh khác đã không có sự hiểu biết về tích, làm sao biết được về bản? Chỗ xưng tán của họ đã sai lầm, hỏng mất ngay trong nội dung, nên hóa ra lại hủy báng theo hai cách nói tăng thêm hoặc giảm bớt, làm sao có thể gọi là xưng tán điều tốt đẹp?
Giải thích theo quán tâm thì ba pháp quán [Không, Giả và Trung đạo] là ba điều không thối chuyển. Lại nữa, một tâm đồng thời tu ba pháp quán tức là một tâm đồng thời có ba điều không thối chuyển. Đại lược là như vậy.
4. Xưng tán đức
Theo các nhà cựu giải
[129] thì kể từ câu “đều đạt được đà-la-ni” là bắt đầu phần xưng tán đức. Nay lấy từ câu “không còn thối chuyển” đã có đủ cả hai ý [nói về giai vị và xưng tán đức], cho nên thuộc phần trước là nói về giai vị, còn mở đầu phần sau là xưng tán đức.
Cũng theo các nhà cựu giải thì phần xưng tán đức có 12 câu,
[130] phân làm bốn ý [chính]. Ba câu đầu tiên xưng tán đức độ trong hiện tại.
[131] Ba câu tiếp theo xưng tán đức hạnh trong quá khứ.
[132] Bốn câu tiếp theo xưng tán tánh thể trong tự thân của các vị
[133] và hai câu sau cùng xưng tán danh xưng bên ngoài.
[134]
Bốn ý trên tuy khác biệt nhưng điểm chính đều nói về đức độ [của các vị] nên gọi là xưng tán đức.
Phần xưng tán đức độ trong hiện tại lại có hai ý. Câu đầu tiên là xưng tán công hạnh của tự thân các vị, [“đều đạt được đà-la-ni”]. Hai câu tiếp theo là xưng tán việc giáo hóa chúng sinh, [“có tài biện luận, ưa thích thuyết giảng, chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển”].
Phần xưng tán đức hạnh [trong quá khứ] cũng có ba ý. Câu đầu tiên xưng tán căn bản của đức hạnh, [“cúng dường vô số trăm nghìn đức Phật”], vốn từ nơi chư Phật mà được trí tuệ Bát-nhã. Câu tiếp theo xưng tán công hạnh vốn có, [“ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức”], là công hạnh gieo trồng phước đức. Nhờ có phước đức nên có thể giúp thêm [cho việc tu tập] trí tuệ. Câu thứ ba nói việc được chư Phật khen ngợi, [“thường được chư Phật ngợi khen xưng tán”].
Phần xưng tán tánh thể tự thân cũng có ba ý. Câu đầu tiên nêu lòng từ bi [“dùng tâm từ để tu thân”], để xưng tán Ứng [hóa] thân. Hai câu giữa, [“khéo thể nhập trí tuệ Phật, thông đạt trí tuệ lớn lao”], là xưng tán Báo thân của tâm trí tuệ. Câu sau cùng, [“đến bờ giải thoát”] là xưng tán Pháp thân.
Phần xưng tán danh xưng cũng có hai ý. Câu đầu tiên, [“danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới”] là xưng tán danh xưng [các ngài] được nghe biết rộng khắp. Câu thứ hai, [“thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh”] là xưng tán việc [các ngài] thường cứu độ chúng sinh.
Cách phân chia câu văn như trên [của các nhà luận giải xưa] có hình thức rất rõ ràng, nhưng khảo luận về tông thể thì hoàn toàn không có tôn chỉ thú hướng.
Nếu là xưng tán theo Thông giáo, thì Thông giáo không có Ba thân, cũng không nhập trí tuệ Phật, danh xưng cũng không rộng khắp, hết thảy các nghĩa đều không thành tựu.
Nếu nói là xưng tán theo Biệt giáo, thì Sơ địa của Biệt giáo đã vượt hơn hàng Nhị thừa, vì sao nói đến Thất địa còn khởi niệm Thanh văn, Bích-chi Phật?
Nếu nói là xưng tán theo Viên giáo, thì lẽ ra chẳng nên nói từ Thất địa trở xuống không có đức không thối chuyển.
[Xét kỹ] tới lui
[135] đều không phù hợp, vậy rốt cùng biết tán thán ai? Do vậy nên [những nghĩa như trên] ở đây không vận dụng. Nay sẽ lấy [trong phần này] 13 câu,
[136] phân tích theo hai cách để hiểu nghĩa văn kinh.
[137] Thứ nhất là theo trình tự tu tiến thì lược nói ý nghĩa [mười giai vị của] Thập địa. Thứ hai là theo cách mở rộng một nghĩa thì lược nói ý nghĩa [một giai vị] Sơ trụ.
1. [Như vậy], câu kinh “không còn thối chuyển” là vừa kết lại phần trước, tức là nói rõ giai vị, vừa mở đầu phần sau, tức là xưng tán đức, được dùng để xưng tán [Bồ Tát] Sơ địa. Sơ địa có tên là Hoan hỷ [địa],
[138] hoan hỷ vì không còn thối chuyển rơi vào [phân biệt] hai bên, thể nhập Trung đạo, được ba sự không thối chuyển.
[139] Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Sơ địa, tức Hoan hỷ địa.
2. Câu “đều đạt được đà-la-ni” là xưng tán thán Nhị địa. Nhị địa có tên là Ly cấu [địa],
[140] cũng có tên là Ly đạt [địa]. Ly là lìa bỏ và ngăn chặn được tất cả những điều ác; đạt là đạt được và duy trì tất cả những việc lành. Đó là ý nghĩa của đà-la-ni. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Ly cấu địa.
3. Câu “có tài biện luận, ưa thích thuyết giảng” là xưng tán Tam địa. Tam địa có tên là Minh địa.
[141] Bên trong trí tuệ sáng suốt, bên ngoài mới có tài biện luận giảng thuyết. Muốn biết về trí tuệ [bên trong] thì chính là ở nơi sự giảng thuyết [bên ngoài]. Thuyết giảng có nhiều cách khác nhau, trong đó ưa thích thuyết giảng là hơn hết. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán giai vị thứ ba [của Thập địa] là Minh địa.
4. Câu “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển” là xưng tán Tứ địa. Tứ địa có tên là Diệm địa.
[142] Diệm [là ngọn lửa,] có công năng phá trừ bóng tối, cũng có công năng thiêu đốt. Chuyển pháp luân là tự làm tiêu tan lậu hoặc của chính mình, giống như thiêu đốt, lại phá trừ sự si mê của người khác, giống như phá trừ sự tối tăm. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán giai vị thứ tư [trong Thập địa] là Diệm địa.
5. Câu “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật” là xưng tán Ngũ địa. Ngũ địa có tên là Nan thắng địa.
[143] Địa vị này đã đạt được thiền định thâm sâu, sử dụng sức thần thông khó [có ai] sánh kịp, khó [có ai] vượt thắng được, chỉ trong khoảng thời gian một niệm ngắn ngủi có thể biến hiện đến khắp mười phương để cúng dường chư Phật. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán thán Ngũ địa.
6. Câu “ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức” là xưng tán Lục địa. Lục địa có tên là Hiện tiền địa.
[144] Do đạt được thiền định nên thường cúng dường chư Phật, nhờ phước đức đó giúp phát triển hạt giống trí tuệ, hạt giống trí tuệ phát triển hiện tiền. Trí tuệ là gốc công đức, như mang cây trồng xuống đất. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Lục địa.
7. Câu “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán” là xưng tán giai vị thứ bảy, Viễn hành địa.
[145] Địa vị này thành tựu hai trí,
[146] phương tiện khéo léo vượt hơn tất cả, rộng tu các pháp lợi ích, tương xứng, thể hội với tâm Phật. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Thất địa.
8. Câu “dùng tâm từ để tu thân” là xưng tán Bát địa, tức là Bất động địa.
[147] [Địa vị này] trí tuệ chân chánh không còn dao động, không ra ngoài ba cõi, thường dùng tâm từ để tu sửa thân, hiện vào trong năm đường [cứu khổ],
[148] tu sửa miệng thuyết pháp [để giáo hóa chúng sanh], tu sửa tâm thiết lập phương tiện [để hóa độ chúng sanh]. Kinh Pháp hoa chân chánh trọn đủ tu sửa ba nghiệp. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Bát địa.
9. Câu “khéo thể nhập trí tuệ Phật” là xưng tán Cửu địa. Cửu địa có tên là Thiện tuệ địa.
[149] [Địa vị này quán chiếu] vào sâu được thực tiễn, khéo thấu triệt căn nguyên nguồn gốc. Danh xưng này hết sức phù hợp với ý nghĩa [câu này], cho nên biết đây là xưng tán Cửu địa.
10. Câu “thông đạt trí tuệ lớn lao” là xưng tán Thập địa. Thập địa có tên là Pháp vân địa.
[150] Pháp thân như hư không, thiền định như đám mây lớn, trí tuệ như cơn mưa lớn. Khéo thể nhập pháp Phật gọi là tuệ, khéo vận dụng pháp Phật gọi là trí. Do [tính chất] hỗ tương mà nêu [câu này để xưng tán Thập địa].
11. Câu “đạt đến bờ giải thoát” là xưng tán phẩm đức bên trong của [hàng Bồ Tát] Thập địa, đạt đến bờ Tam đế bên kia,
[151] trong nhân nói được quả,
[152] lại đạt đến chỗ ấy rồi cũng chẳng trụ lại lâu. [Do ý nghĩa đó nên biết câu này xưng tán phẩm đức bên trong của Bồ Tát Thập địa.]
12. Câu “danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới” là xưng tán phẩm đức bên ngoài của [hàng Bồ Tát] Thập địa. Do phẩm đức bên trong sâu rộng rãi nên danh tiếng được nghe biết đến ở khắp mọi nơi, đó là [phẩm đức] bên trong và bên ngoài tương xứng nhau.
Nếu mở rộng đến giai vị Đẳng giác
[153] thì hai câu này cũng có thể được hiểu giống như vậy.
13. Câu “thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh” [là xưng tán chung hết thảy Thập địa]. Các địa vị khác tuy cứu độ chúng sinh nhưng chỉ từ một pháp giới cho đến chín pháp giới, không gọi là “thường cứu độ”. [Bồ Tát] Thập Địa vượt hơn nên gọi là “thường cứu độ”. Những địa vị khác cũng đều có đầy đủ các công đức nhưng nay không đưa ra giải thích, vì lòng người thích sự khác lạ, y theo danh xưng của Thập địa là thuận tiện. Hơn nữa, ý nghĩa theo trình tự tu tiến thì dễ giải thích, nên mới đưa ra cách phân tích văn kinh như thế này.
Tiếp theo giải thích sự xưng tán theo cách mở rộng, chỉ lược nói về Sơ trụ, các giai vị khác đều dựa theo đây có thể giải thích được.
Sơ [trụ có tên là] Phát tâm trụ, một [tâm] phát khởi thì hết thảy [tâm] đều phát khởi, vượt ra khỏi hai bên phân biệt, chuyển phàm lên thánh, nhập vào Trung đạo, trong tâm vắng lặng dứt bặt, mỗi niệm đều lưu nhập biển tuệ nhất thiết trí,
[154] cho nên nói là “không còn thối chuyển”.
Sơ trụ [là địa vị đã] ngăn chặn, lìa bỏ các tướng bám chấp cùng các che chướng vô tri, vô minh..., đạt được và duy trì các phẩm đức Bát-nhã, giải thoát, pháp thân..., cho nên nói là “đều đạt được đà-la-ni”.
[Hàng Bồ Tát] Thập tín với hiểu biết tương tự
[155] mà còn có thể dùng âm thanh vi diệu vang khắp đại thiên thế giới,
[156] huống chi là [Bồ Tát] chân thật đạt được công đức khẩu mật,
[157] cho nên nói là “có tài biện luận, ưa thích thuyết giảng”.
[Bồ Tát] Sơ trụ có thể phân thân hiện làm Phật ở trăm thế giới để làm Phật, nếu luận đến chỗ thật sự [hóa hiện] thì vô lượng vô biên. Vì có thể hiện thân làm Phật thuyết pháp giáo hóa, cho nên nói là “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển”.
[Bồ Tát] Sơ trụ đạt được thần lực không thể nghĩ bàn, có thể phụng sự chư Phật ở khắp các pháp giới, cho nên nói là “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật”.
[Bồ Tát] Sơ trụ đạt được căn bản của thật tướng, thường gieo trồng đủ các phước đức, [nên nói “ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức”.
[Bồ Tát] Sơ trụ khai mở tri kiến Phật, [khai mở] tri kiến rồi thì [nhận hiểu] pháp tương đồng với chư Phật, cho nên nói “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán”.
[Bồ Tát] Sơ trụ dùng đức từ vô duyên
[158] hóa hiện sắc thân khắp mọi nơi, tương ứng các pháp giới, cho nên nói “dùng tâm từ để tu thân”.
[Bồ Tát] Sơ trụ nhập được vào kho tàng [giáo pháp] bí mật cho nên nói là “khéo thể nhập trí tuệ Phật”.
[Bồ Tát] Sơ trụ trong một tâm đạt được ba trí,
[159] không còn gì có thể gây chướng ngại, cho nên nói là “thông đạt trí tuệ lớn lao”.
[Bồ Tát] Sơ trụ đối với các phần sự lý đều đã rốt ráo, cho nên nói rằng “đến bờ giải thoát”.
[Bồ Tát] Sơ trụ công đức tròn đầy chân thật tương xứng với danh xưng, cho nên nói “danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới”.
[Bồ Tát] Sơ trụ thường làm chỗ nương tựa, noi theo cho [chúng sanh] trong mười pháp giới, cứu giúp làm cho an ổn, cho nên nói là “thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh”.
[Bồ Tát] Sơ trụ còn có vô lượng vô biên đủ loại công đức không thể nghĩ bàn, ở đây chỉ lược nói qua 13 câu kinh như vậy. Từ giai vị Nhị trụ [là Trị địa trụ] cho đến bậc Đẳng giác cũng đều [đầy đủ công đức] như vậy. Cho nên Đại phẩm nói rằng: “Từ chữ A ban đầu
[160] có đủ 41 phẩm tính của chữ, đến chữ Trà ở sau cuối lại cũng đầy đủ các phẩm tính của chữ như vậy. [Những chữ] ở khoảng giữa cũng đều như vậy. Chữ như nhau, câu như nhau, phẩm tính cũng đều như nhau.”
[161]
● Hỏi: “Phần này xưng tán phẩm đức đoạn hoặc. Tạng giáo không đoạn hoặc, nên có thể không xưng tán. Nhưng Thanh văn còn được xưng tán [việc thị hiện hình] tích, đến như Thông giáo, Biệt giáo vì sao chẳng xưng tán đức?”
● Đáp: “Thông giáo xưng tán chỗ [hình] tích nên mới có nghĩa này. Nhưng nay kinh [Pháp hoa] này chính là nêu rõ chỗ rốt ráo nên không xưng tán phương tiện.”
● Hỏi: “Vì sao những câu nói về công đức đều chỉ xưng tán [hàng Bồ Tát] Sơ trụ?”
● Đáp: “Các giai vị khác cũng đều như thế, đâu chỉ là riêng Sơ trụ.”
● [Hỏi:] “Các nhà luận giải xưa nói rằng Bát địa có nhiều công đức, điều đó không có gì để nghi. [Nhưng] nay Viên giáo xưng tán Sơ trụ không thiếu một công đức nào. Sơ trụ còn như vậy, huống chi các giai vị sau đó?”
● [Đáp:] Luận Pháp hoa
[162] nói: Pháp môn phân chia trên dưới [chẳng qua chỉ là] tướng chung (tổng tướng) và tướng riêng (biệt tướng) mà thôi. Nên biết, câu mở đầu “không còn thối chuyển” là tướng chung. [Tướng chung] “không còn thối chuyển” này có mười cách thị hiện.
1. Nghe pháp không còn thối chuyển, tức là “đều đạt được đà-la-ni”.
2. Vui thích thuyết giảng không còn thối chuyển, tức là “có tài biện luận, vui thích thuyết giảng”.
3. Thuyết giảng không còn thối chuyển, tức là “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển”.
4. Nương theo thiện tri thức không còn thối chuyển, tức là “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật”, [cũng là] “ở nơi chư Phật gieo trồng các gốc công đức”.
5. Dứt trừ lòng nghi không còn thối chuyển, tức là “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán”.
6. Thể nhập không còn thối chuyển về sự, tức là “dùng tâm từ tu thân”.
7. Thể nhập cảnh giới như thật của trí tuệ rõ biết tất cả không còn thối chuyển, tức là “khéo thể nhập trí tuệ Phật”.
8. Nương theo [chỗ thấy biết] không có tự ngã, hết thảy các pháp tự thể đều là không nên không còn thối chuyển, tức là “thông đạt trí tuệ lớn lao”.
9. Thể nhập cảnh giới như thật không còn thối chuyển, tức là “đến bờ giải thoát”.
10. Làm được những việc nên làm không còn thối chuyển, tức là “thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh”.
Cho nên, câu mở đầu [“không còn thối chuyển”] đó là tướng chung, thuộc về pháp trên. Tiếp theo những câu còn lại là tướng riêng, thuộc về pháp dưới. Trong phần giảng giải theo cách mở rộng xưng tán các công đức của [hàng Bồ Tát] Sơ trụ cũng là tương đồng với ý này.
Luận [Pháp hoa] lại nói: “Thứ hai là pháp môn thâu nhiếp mọi sự việc.
[163] [Đây là nói việc] chư Bồ Tát [tùy theo trường hợp mà lựa chọn] an trụ ở những địa vị thanh tịnh nào, vận dụng những phương tiện nào, ở những cảnh giới nào, nên làm những việc gì.” Nếu theo nghĩa này thì việc xưng tán công đức chư Bồ Tát theo trình tự tu tiến từ thấp lên cao cũng không có gì trở ngại.
Theo quán tâm giải thích về sự xưng tán đức thì ý nghĩa “không còn thối chuyển” cũng giống như đã nói.
Về ý nghĩa đà-la-ni thì quán không là Toàn Đà-la-ni, quán giả là Bá thiên [vạn ức] Toàn Đà-la-ni, quán trung [đạo] là Pháp âm phương tiện Đà-la-ni.
[164]
Lại nữa, theo pháp quán không để quán tâm thì thấy [tâm] chỉ là tên gọi, đó là Văn trì Đà-la-ni. Theo pháp quán giả để quán tâm thì trong vô lượng tâm, hết thảy các pháp tâm vương, tâm sở đều là pháp môn, đó là Hành trì Đà-la-ni. Theo pháp quán trung [đạo] để quán tâm thì tâm tức là thật tướng, đó là Nghĩa trì Đà-la-ni.
[Về ý nghĩa “có tài biện luận, vui thích thuyết giảng”, thì] theo pháp quán giả để quán tâm thì [tâm] có đủ các pháp trong mười pháp giới, tức là Pháp vô ngại biện. Theo pháp quán trung để quán tâm thì mười pháp giới đều thể nhập thật tướng, tức là Nghĩa vô ngại biện. Theo pháp quán không để quán tâm thì mười pháp giới chỉ là tên gọi, lời nói, tức là Từ vô ngại biện.
[Lại nữa,] quán một tâm tức là ba tâm, ba tâm tức là một tâm, một cảnh giới là hết thảy cảnh giới, xoay chuyển không ngăn ngại, đó là Nhạo thuyết vô ngại biện.
[Về ý nghĩa “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển” thì] quán không là chuyển bánh xe pháp không thối chuyển về giai vị, quán giả là chuyển bánh xe pháp không thối chuyển về công hạnh, quán trung là chuyển bánh xe pháp không thối chuyển về niệm lực.
[Về ý nghĩa “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật” thì] cúng dường Phật là thị hiện tùy thuận lời Phật dạy. Ngày nay [chúng ta] theo lời Phật dạy tu ba pháp quán tâm,
[165] đó là cúng dường Phật. Phá năm trụ địa
[166] nên được giải thoát, đó là cúng dường Pháp. Dung hòa lẽ Tam đế
[167] tức là cúng dường Tăng.
Lại nữa, các tâm công hạnh giúp [phát triển] tâm quán chiếu với trí tuệ, tức là cúng dường Phật. Tâm quán với trí tuệ khai mở cảnh giới, tức là cúng dường Pháp. Dung hòa được cảnh, trí và tâm, tức là cúng dường Tăng.
[Về ý nghĩa “ở nơi chư Phật gieo trồng các gốc công đức” thì] tâm thật tướng là gốc của tâm quán với trí tuệ, tâm quán với trí tuệ là gốc của các tâm công hạnh. Nắm chắc được gốc rồi thì sẽ trồng lên được cây, cho nên nói là “gieo trồng các gốc công đức”.
[Về ý nghĩa “được chư Phật ngợi khen xưng tán” thì] tâm quán chiếu với trí ngấm ngầm dò sâu nơi cảnh giới, cảnh giới ghi lại dấu ấn nơi trí quán chiếu. Trí có sự quán chiếu thường [rõ biết] hợp với cảnh giới, đó là “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán”.
[Về ý nghĩa “dùng tâm từ tu thân” thì tu tập] quán không là sự huân tập của tâm từ pháp duyên, quán giả là sự huân tập của tâm từ chúng sinh duyên, quán trung là sự huân tập của tâm từ vô duyên.
[Về ý nghĩa “khéo thể nhập trí tuệ Phật” thì tu tập] quán không nhập vào trí tuệ Phật theo Thông giáo, quán giả nhập vào trí tuệ Phật theo Biệt giáo, quán trung nhập vào trí tuệ Phật theo Viên giáo.
[Về ý nghĩa “đến bờ giải thoát” thì tu tập] quán không đến bờ giải thoát Nhất thiết trí, quán giả đến bờ giải thoát Đạo chủng trí, quán trung đến bờ giải thoát Nhất thiết chủng trí.
[Về ý nghĩa “danh xưng được nghe biết khắp” thì tu tập] quán Không nghe nơi Chân đế, quán giả nghe nơi Tục đế, quán trung nghe được khắp đệ nhất nghĩa đế của Trung đạo, lại cũng nghe khắp cả Tam đế.
[Về ý nghĩa “thường cứu độ trăm ngàn chúng sanh” thì tu tập] quán không quán cứu độ trăm ngàn chúng sinh khỏi bốn trụ địa phiền não, quán giả cứu độ trăm ngàn chúng sinh khỏi trần sa phiền não, quán trung cứu độ trăm ngàn chúng sinh khỏi vô minh.
[Tu tập đạt được] trong một tâm đủ ba pháp quán
[168] có vô lượng công đức, xưng tán không thể cùng tận, chỉ lược nói qua như vậy.
KINH VĂN
Danh hiệu của các vị là: Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đắc Đại Thế, Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Bất Hưu Tức, Bồ Tát Bảo Chưởng, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Bảo Nguyệt, Bồ Tát Nguyệt Quang, Bồ Tát Mãn Nguyệt, Bồ Tát Đại Lực, Bồ Tát Vô Lượng Lực, Bồ Tát Việt Tam Giới, Bồ Tát Bạt-đà-bà-la, Bồ Tát Di-lặc, Bồ Tát Bảo Tích, Bồ Tát Đạo Sư... Các vị Đại Bồ Tát như vậy, cả thảy 80.000 vị cùng tham dự pháp hội.
5. Danh hiệu
Danh hiệu lớn lao của các bậc đại sĩ, hoặc dựa theo pháp môn tu tập, hoặc dựa theo công hạnh đức độ, hoặc dựa theo bản nguyện [của mỗi vị]. Tuy là một tên gọi nhưng có đủ vô lượng nghĩa. Nay dựa theo kinh điển, dựa theo sự quán xét để phân tích ý nghĩa danh hiệu của 18 vị Bồ Tát.
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi
Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu Đức. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn
[169] nói: “Thấy rõ ràng tánh Phật, như Bồ Tát Diệu Đức.” Kinh Vô hành
[170] gọi là Mãn-thù-thi-sư-lợi.
[171] Kinh Phổ Siêu gọi là Nhu thủ.
[172] Kinh Tư ích nói: “Tuy giảng thuyết các pháp mà chẳng khởi tướng pháp, chẳng khởi tướng không phải pháp. Cho nên gọi là Diệu Đức.”
[173]
Kinh Bi Hoa chép [lời nguyện của Bồ Tát trước đức Phật Bảo Tạng] rằng: “‘Nguyện khi con thực hành đạo Bồ Tát, những chúng sinh được con giáo hóa trong khắp mười phương được thành Chánh giác trước con, nguyện cho con có thể dùng thiên nhãn nhìn thấy tất cả. Quốc độ của con khi ấy chỉ toàn là các Bồ Tát nhất sinh [bổ xứ], đều là những người do con khuyên bảo mà phát tâm đạo. Con thực hành đạo Bồ Tát không có hạn kỳ.’ Phật Bảo Tạng nói: ‘Ông tạo công đức hết sức sâu xa, lại phát nguyện sẽ được quốc độ nhiệm mầu, nên nay ta đặt tên cho ông là Văn-thù-sư-lợi. Ông sẽ thành Phật tại thế giới Hoan Hỷ ở phương bắc, hiệu là Hoan Hỷ Tạng Ma-ni Bảo Tích Phật.’”
[174] Cho đến hiện nay [chúng sanh] được nghe danh hiệu liền dứt trừ bốn tội nặng. Ngài thị hiện làm Bồ Tát để góp phần [trong việc hoằng hóa của] đức Phật Thích-ca.
Giải thích theo quán tâm thì về tánh và lý, cả ba công đức bí mật [của thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp]
[175] đều chẳng đồng chẳng khác, không trước không sau,
[176] nên gọi là Diệu Đức.
Bồ Tát Quán Thế Âm
Quán Thế Âm, tên Phạn ngữ [phiên âm] là Bà-lũ-cát-để-thuế (Avalokiteśvara). Kinh Tư ích nói: “Nếu chúng sinh nào được gặp [Bồ Tát] thì tức thời quyết định sẽ đạt được giác ngộ. Những chúng sinh nào xưng niệm danh hiệu ngài đều được thoát khỏi những sự khổ nạn, nên có tên là Quán Âm.”
[177]
Kinh Bi Hoa chép [lời nguyện của Bồ Tát trước đức Phật Bảo Tạng] rằng: “Nếu có chúng sinh nào khi chịu các sự khổ não, xưng danh hiệu con, nhớ nghĩ đến con, được con dùng thiên nhĩ để nghe, thiên nhãn để thấy rồi, không được thoát khổ thì con không thành Chánh giác.” Đức Phật Bảo Tạng Phật nói: “Ông quán sát hết thảy chúng sinh, khởi sinh tâm đại bi, nay đặt tên cho ông là Quán Thế Âm.”
[178] Phần tiếp theo tự giải thích được ý nghĩa danh hiệu [Quán Thế Âm]:
[179] Giải thích theo quán tâm thì Tam trí
[180] là “quán”, Tam đế
[181] là “thế”, Tam quán
[182] là gốc của ngôn ngữ nên gọi là “âm”.
Bồ Tát Đắc Đại Thế
[Về Bồ Tát] Đắc Đại Thế, kinh Tư ích nói: “Khi ta đặt chân đến nơi nào thì chấn động đại thiên thế giới cùng những cung điện của ma. Cho nên có tên là Đại Thế Chí.”
[183]
Kinh Bi Hoa [chép lời nguyện của Bồ Tát Đắc Đại Thế trước đức Phật Bảo Tạng rằng]: “Nguyện cho thế giới của con cũng giống như của Bồ Tát Quán Thế Âm, chẳng có gì khác.” Đức Phật Bảo Tạng nói: “Do ông phát nguyện được cõi thế giới lớn lao, nên đặt tên cho ông là Đại Thế Chí.”
[184]
Giải thích theo quán tâm thì Tam chỉ
[185] là chân, đặt vào đất Tam đế
[186] thì chấn động mười pháp giới, hết thảy nơi nào có kiến ái phiền não đều phải nghiêng ngả rúng động. Đại lược là như vậy.
Bồ Tát Bất Hưu Tức
[Về Bồ Tát Bất Hưu Tức,]
[187] kinh Tư ích nói: “Nếu lấy số kiếp nhiều như cát sông Hằng làm một ngày đêm, rồi 30 ngày như vậy là một tháng, 12 tháng là một năm, trải qua trăm ngàn ức ức kiếp như thế mới được gặp một vị Phật, [lại trải qua thời gian dài] cho đến gặp được chư Phật nhiều như số cát sông Hằng, thường tu hành các hạnh thanh tịnh, tu tập các công đức, sau đó mới được thụ ký. [Trong suốt thời gian đó] tâm chẳng dừng nghỉ, nên có tên là Bất Hưu Tức.”
[188]
Giải thích theo quán tâm thì quán không chẳng trụ nơi không, ra khỏi [cảnh] giả chẳng trụ nơi giả mà thể nhập trung đạo cũng chẳng trụ nơi trung đạo, cùng lúc quán chiếu nhị đế, đó gọi là Bất Hưu Tức.
Bồ Tát Bảo Chưởng
Kinh Phổ siêu
[189] nói: “Mặc áo giáp đức hạnh cho đến khi đạt trí tuệ Phật, không gì có thể cản trở phá hoại làm cho từ bỏ Đại thừa,
[190] dù trong giấc mộng cũng không hướng theo Nhị thừa. Thường dùng tâm chân thật và các tâm thông tuệ để vì người khác mà tuyên thuyết, giảng nói. Đối với trân bảo tâm không tham tiếc. Cho nên có tên là Bảo Chưởng.”
[191]
Giải thích theo quán tâm thì Tam đế không thể nghĩ bàn gọi là Bảo, trong một tâm có đủ ba quán gọi là Chưởng. Dùng Chưởng của quán như vậy để nắm giữ Bảo của đế như vậy, lợi mình lợi người, cho nên gọi là Bảo Chưởng.
Bồ Tát Dược Vương
Kinh Bi Hoa [kể chuyện người đệ tử nhỏ nhất của Phạm chí Bảo Hải tên là Trì Lực Tiệp Tật phát nguyện trước Phật Bảo Tạng] rằng: “Nguyện trong Hiền kiếp có 1004 vị Phật, con đều xin cúng dường ngay từ khi mỗi đức Phật vừa thành đạo. Khi chư Phật ấy nhập diệt, con đều xây tháp phụng thờ mỗi vị. Vào lúc Kiếp tận, [chúng sinh chịu] khổ não con đều sẽ cứu giúp. Khi có nạn đao binh dịch bệnh, con sẽ làm Đại y vương [chữa trị cho chúng sanh], rồi sau đó mới thành Phật.” Khi ấy, đức Phật Bảo Tạng nói: “[Theo đại nguyện của ông] nên nay đặt tên cho ông là Hỏa Tịnh Dược Vương. Sau này thành Phật hiệu là Lâu Chí Như Lai.”
[192] Theo quán tâm giải thích thì đại lược là như vậy.
Từ đây, phần giải thích có lược bớt 7 vị Bồ Tát.
[193]
Bồ Tát Bạt-đà-la
Bồ Tát Bạt-đà-bà-la (Bhadrapāla), Hán dịch là Thiện Thủ, cũng còn gọi là Hiền Thủ.
Kinh Tư ích nói: “Nếu chúng sinh nào được nghe danh hiệu [Bồ Tát này], nhất định đều sẽ thành Chánh giác, cho nên có danh hiệu là Thiện Thủ.”
[194]
Theo quán tâm thì giải thích rằng: “Phép quán Trung đạo chân chánh là đứng đầu trong các việc lành, cho nên gọi là Thiện Thủ.”
Bồ Tát Di-lặc
Bồ Tát Di-lặc (Maitreya), Hán dịch là Từ Thị. Kinh Tư ích nói: “Nếu chúng sinh nào gặp [Bồ Tát] liền được pháp Tam-muội Từ tâm, cho nên gọi là Từ Thị.”
Kinh Hiền ngu nói: “Đức vua nhìn thấy người dạy voi liền khởi sinh tâm từ, từ đó có tên là Từ Thị.”
Kinh Bi Hoa nói: “Phát nguyện trong kiếp đao binh hỏa tai cứu hộ chúng sinh.”
Nay giải thích theo quán tâm,quán Trung đạo chân chánh là vô duyên đại từ. Sức mạnh căn lành của tâm từ làm cho các tâm sở đều nhập vào đồng thể đại từ, trong các pháp lìa khỏi mọi điều bất thiện, cho nên gọi là Từ Thị.
Lại nói rằng Từ là họ [của Bồ Tát], còn tên là A-dật-đa, Hán dịch là Vô Thắng. Phần tiếp theo đại lược là như vậy.
Chỗ này lược bớt không giải thích về [danh xưng Bồ Tát] Bảo Tích.
Bồ Tát Đạo Sư
Bồ Tát Đạo Sư,
[195] trong kinh Tư ích nói rằng: “Đối với những chúng sinh sa đọa vào đường tà, [Bồ Tát] sinh tâm đại bi cứu giúp đưa vào chánh đạo, chẳng cầu sự báo ân, nên có tên là Đạo Sư.”
[196]
Giải thích theo quán tâm thì trí tuệ nhiệm mầu của ba pháp quán [không, giả, trung] dẫn dắt hết thảy mọi hành vi, không rơi vào [phân biệt] hai bên, đều nhập vào chánh quán, cho nên gọi là Đạo Sư.
Đối với [một số danh xưng của] các vị trong phần này chưa giải thích, đợi đến phần sau sẽ quay lại giải thích.
6. Kết lại
Từ chữ “như thị” trở đi
[197] là câu văn kết lại phần này.
III. Tạp chúng
KINH VĂN
Lúc bấy giờ có Thích-đề-hoàn-nhân và quyến thuộc 20.000 vị thiên tử cùng đến. Lại có Thiên tử Danh Nguyệt, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang, Tứ đại Thiên vương và quyến thuộc 10.000 thiên tử cùng đến. Thiên tử Tự Tại, Thiên tử Đại Tự Tại và quyến thuộc 30.000 thiên tử cùng đến. Phạm Thiên vương chủ Thế giới Ta-bà, Đại Phạm Thi-khí, Đại Phạm Quang Minh... và quyến thuộc 12.000 thiên tử cùng đến.
Phần thứ ba nói về tạp chúng. Các nhà cựu giải gọi là chúng phàm phu, nhưng trong số này có cả các bậc thánh; lại gọi là tục chúng, nhưng trong số này có cả chúng xuất gia; lại gọi là chúng trời người, nhưng trong số này có cả loài rồng, quỷ, nên những cách gọi ấy đều không thích hợp. Nay gọi là tạp chúng thì ý nghĩa bao gồm được tất cả. Đó là nói [gồm đủ chúng sanh] trong năm đường,
[198] hai cõi,
[199] tám bộ chúng
[200] nên gọi là tạp.
[Trong kinh này có năm đường, hai cõi, nhưng] kinh Phương đẳng
[201] lại có thêm [chúng sanh] địa ngục [là đủ sáu đường], kinh Trung ấm
[202] lại giáo hóa cả cõi Vô sắc [là ba cõi], những điều ấy đều tùy theo cơ duyên mà thể hiện, không thể có một quy tắc cố định chung, cũng không theo một trật tự nhất định nào.
Các nhà cựu giải nói rằng loài người là chủ ở cõi này, nên nhường cho những loài khác là khách được kể ra trước.
[203] So với kinh Vô lượng nghĩa thì [cách sắp xếp] cũng giống như kinh này, lại nêu rõ quốc vương, quốc thần, quốc sĩ, quốc nữ, không bàn đến thứ tự chủ khách nhường nhau. Khuynh hướng của các vị kết tập kinh được thể hiện trong văn kinh, hoặc còn có ý khác chưa biết.
[204]
Nay quán xét trong đoạn kinh văn này có tám bộ chúng. Trước tiên nói về Đế thích rồi đến Tứ thiên vương. Sau đó kể đến loài rồng, cuối cùng là loài chim kim sí [tức ca-lâu-la], ở khoảng giữa nhiều lần kể đến các loài quỷ thần [như khẩn-na-la, càn-thát-bà, a-tu-la].
[205] Vì nghĩa đó nên gọi là tạp chúng.
Không thể nói rõ trật tự trước sau, đó cũng gọi là tạp chúng. Lại trong chúng này có hạng đã chứng đạo, có hạng chưa chứng đạo, quả báo không giống nhau, hình thể cũng không giống nhau, cho nên gọi là tạp.
Trong chúng này lại có hàng chứng đạo Nhị thừa, có trí tuệ vô lậu lẫn lộn với vô minh phiền não, cho nên gọi là tạp.
Trong chúng này lại có hàng chứng đạo Bồ Tát hòa lẫn với đại chúng, cơ duyên lẫn lộn cho nên gọi là tạp.
Trong chúng này có cả hàng chứng đắc Phật đạo, ngay trong một pháp có đủ hết thảy các pháp, cho nên gọi là tạp.
Ý nghĩa tạp là như vậy, không thể dùng hình thể phàm phu thế tục để phân chia, cũng không thể dựa theo năm đường như loài người, chư thiên v.v. để phân chia, cho nên gọi là tạp. Đây là theo giáo nghĩa mà giải thích. Đại lược là như thế.
Thích-đề-hoàn-nhân Nhân-đà-la (Śakra Devānāmindra), cũng đọc là Chiên-đề-la, Hán dịch là Năng Tác, là vị Thiên chủ ở cõi trời Đao-lợi.
Đao-lợi (Trāyastriṃśa), Hán dịch là Tam thập tam thiên (Cõi trời Ba mươi ba). Cõi trời này, về bốn hướng đều có mỗi hướng 8 thành, hợp với thành Hỷ kiến ở giữa là 33 thành, tất cả cùng ở trên đỉnh núi Tu-di.
Tu-di (Sumeru), Hán dịch là An Minh, do 4 món báu hợp thành, cao và rộng mỗi chiều đều 336 vạn dặm.
Vì [Thích-đề-hoàn-nhân] là vị Thiên chủ cõi trời thuộc Dục giới nên kể ra trước.
Trong kinh Tạp A-hàm, quyển 40, nói rằng: “Có một vị tỳ-kheo thưa hỏi Phật, vì sao có tên là Thích-đề-hoàn-nhân? Đức Phật đáp rằng: ‘[Vị ấy] vốn xưa kia khi làm người thường bố thí một cách cung kính nhiệt thành,
[206] có khả năng làm như vậy
[207] nên gọi là Thích-đề-hoàn-nhân.’ [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Phú-lan-đà-la? Phật dạy: ‘Vì khi làm người rất nhiều lần bố thí.’ [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Ma-già-bà? Phật dạy: ‘Vì đó là tên cũ từ lúc còn làm người.’ [Lại thưa hỏi,] Vì sao có tên là Sa-bà-la? Phật dạy: ‘Vì khi còn làm người hay bố thí loại y có tên đó.’
[208] [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Kiều-thi-ca? Phật dạy: ‘Vì đó là tên họ cũ khi còn làm người.’ [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Xá-chi Bát-đê? Phật dạy: ‘Vì Xá-chi là tên người vợ [của Đế-thích] nên gọi theo như vậy.’
[209] [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Thiên Nhãn? Phật dạy: ‘Vì khi [Đế-thích] còn làm người rất thông minh, trong một lúc ngồi yên có thể đồng thời suy nghĩ đến cả ngàn nghĩa lý, quán sát, cân nhắc, suy lường được hết thảy nên gọi là Thiên Nhãn.’ [Lại thưa hỏi,] vì sao gọi là Nhân-đề-lợi? Phật dạy: ‘Vì là Thiên đế của cả 32 vị thiên chủ.’”
Kinh Anh lạc, quyển 3 nói: “Thiên Đế-thích có tên là Câu-dực.” Đó là nói theo giáo môn. Trong kinh A-hàm, Đế Thích là A-na-hàm. Kinh Bát-nhã nói rõ việc [vị này] thưa hỏi khắp mười phương về nghĩa Bát-nhã, đều gọi tên là Thích-đề-hoàn-nhân.
Biệt giáo và Viên giáo đều nói rõ Thích-đề-hoàn-nhân đạt được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, nhưng nói về chỗ nội chứng thì khác nhau. Vị này trải qua Hiền kiếp 2.024 kiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Trước Thế Tôn. Đại lược là như vậy.
Giải thích theo bản tích thì Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng là ba mươi [tầng trời], Thập địa là ba mươi mốt, Đẳng giác là ba mươi hai, Diệu giác [thứ ba mươi ba] là [Thiên] chủ, cùng cư trú nơi cõi trời Đệ nhất nghĩa, cùng uống nước cam lộ thật tướng, tức là nghĩa bản. Hiện ra hình tích là [các tầng trời] trên đỉnh núi Tu-di.
Theo quán tâm thì giải thích rằng: Tự mình hành Thập thiện, khuyên người khác [hành Thập thiện], và tùy hỷ [với người hành Thập thiện]. Ba mươi điều thiện như vậy, tất cả đều là không, đều là giả, đều là trung đạo. Đó là ba mươi ba pháp quán.
Ba vị thiên tử Danh Nguyệt, [Phổ Hương và Bảo Quang] là các vị nội thần [của Thiên đế], cũng giống như hàng khanh tướng [của vua]. Hoặc cũng nói đây là Tam quang Thiên tử,
[210] trong đó thiên tử Danh Nguyệt là Bảo Kiết Tường Nguyệt thiên tử, do Bồ Tát Đại Thế Chí ứng hiện, thiên tử Phổ Hương là Minh Tinh thiên tử, do Bồ Tát Hư Không Tạng ứng hiện, thiên tử Bảo Quang là Bảo Ý Nhật thiên tử, do Bồ Tát Quán Thế Âm ứng hiện. Đây là giải thích theo bản tích.
Giải thích theo quán tâm thì ba pháp quán tức là hai trí,
[211] ba trí tức là tam quang.
[212] Từ Tam đế sinh ra Tam trí,
[213] Cho nên “đế” là thiên, “trí” là tử. Đại lược là như vậy.
Tứ đại Thiên vương là những vị ngoại thần của Đế thích, giống như các võ tướng. Các vị này cư ngụ trên bốn ngọn núi báu, cao bằng một nửa núi Tu-di, rộng 24 vạn dặm.
Phương đông là [Thiên vương] Đề-đầu-lại-trá, Hán dịch là Trì Quốc [Thiên vương], cũng còn gọi là An Dân, cư trú trên ngọn núi vàng ròng, thống lãnh hai loài quỷ là càn-thát-bà và phú-đan-na.
Phương nam là [Thiên vương] Tỳ-lưu-lặc-xoa, Hán dịch là Tăng Trưởng [Thiên vương], cũng còn gọi là Miễn Ly, cư trú trên ngọn núi lưu ly, thống lãnh hai loài quỷ là bệ-lệ-đa và cưu-bàn-trà.
Phương tây là [Thiên vương] Tỳ-lưu-bác-xoa, Hán dịch là Phi Hảo Báo [Thiên vương], cũng gọi là Ác Nhãn, cũng gọi là Tạp Ngữ, cư trú trên ngọn núi bạc trắng, thống lãnh hai loài quỷ là độc long và tỳ-xá-xà.
Phương bắc là [Thiên vương] Tỳ-sa-môn, Hán dịch là Chủng Chủng Văn [Thiên vương], cũng gọi là Đa Văn, cư trú trên ngọn núi thủy tinh, thống lãnh hai loài quỷ là la-sát và dạ-xoa.
Mỗi vị thiên vương như trên đều thống lãnh hai loài quỷ, không để cho gây não hại người, cho nên gọi các vị là Thiên vương Hộ Thế.
Giải thích theo bản tích thì bản là thường, lạc, ngã, tịnh, tức bốn vị Thiên vương hộ trì Phật pháp, không để cho người ngoài lấy đi cành lá hay đốn, chặt phá hoại [cây Phật pháp]. Thường Thiên vương bảo vệ phương đông, có hai cây thường và vô thường. Lạc Thiên vương bảo vệ phương nam, có hai cây lạc và vô lạc. Ngã Thiên vương bảo vệ phương tây, có hai cây ngã và vô ngã. Tịnh Thiên vương bảo vệ phương bắc, có hai cây tịnh và bất tịnh. Cành nhánh là ví như thường, hoa ví như ngã, quả ví như lạc và lá xanh tốt ví như tịnh. Bảo vệ những hoa quả này là vì thường làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Về hình tích hiển lộ là bốn vị Thiên vương bảo vệ giúp đỡ thế gian.
Giải thích theo quán tâm thì trí tuệ quán chiếu tứ đế tức là Tứ thiên vương, Mỗi đế trừ bỏ hai sự mê muội ái kiến, tức là [bốn đế] giúp trừ bỏ tám sự mê muội ái kiến.
Tiếp theo, phía trên cõi trời Đao-lợi có cõi trời Diệm-ma (Yama), Hán dịch là Thiện Thời, trong Đại [Trí độ] luận gọi là cõi trời Diệu Thiện, nằm cách cõi trời Đao-lợi 336 vạn dặm.
Phía trên cõi trời Thiện Thời còn có cõi trời Đâu-suất-đà (Tuṣita), Hán dịch là Diệu Túc, cách xa cõi trời Diệm-ma chỉ như khoảng cách trên mặt đất, nhưng không kể ra mà lược bỏ. Vì sao vậy? Vì cõi trời phía dưới [của Đâu-suất-đà] căn tánh ngu độn, cõi trời phía trên thì đắm say dục lạc mà [cả hai] còn biết đến dự [pháp hội này], huống chi [cõi Đâu-suất-đà] này không ngu độn, không đắm say dục lạc, lẽ nào lại không đến dự. [Cho nên không cần phải kể ra.]
Tự Tại thiên tử là [vị thiên chủ ở] tầng trời thứ năm [của Dục giới], Đại Tự Tại thiên tử là [vị thiên chủ ở] tầng trời thứ sáu. [Hai cõi trời này, một cõi] tự biến hóa ra năm món dục và cõi kia [có thể thỏa mãn với] năm món dục do người khác biến hóa ra.
[214] Đại lược là như vậy.
Có người cho rằng Đại Tự Tại là nói [vị thiên chủ của] tầng trời cao nhất thuộc Sắc giới,
[215] nhưng theo ý nghĩa ở đây không thể lên đến tận cõi trời ấy.
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ trong pháp Tam-muội Tự tại và Tam-muội Tự tại vương, còn hình tích biểu hiện là hai cõi trời [Hóa lạc và Tha hóa tự tại].
Giải thích theo quán tâm thì thể nhập vào không là pháp quán Tự Tại, thể nhập vào Trung đạo là pháp quán Đại Tự Tại. Đại lược là như thế.
Tiếp đến nói về cõi trời Sắc giới, [cao nhất trong thế giới Ta-bà].
Thế giới Ta-bà, Hán dịch là Nhẫn [độ]. Chúng sinh trong thế giới này chấp nhận sống yên trong 10 điều ác, chẳng chịu thoát ra khỏi. Theo [tính chất] con người [như vậy] mà đặt tên nên gọi là Nhẫn [độ].
Kinh Bi Hoa nói: “Vì sao gọi là Ta-bà? Chúng sinh ở đây nhẫn chịu ba món độc
[216] và các phiền não, cho nên gọi là Nhẫn độ.”
[217]
Cũng gọi là nơi chung sống hỗn tạp của chín đường chúng sinh.
[218]
Chữ Phạm [trong Đại Phạm Thiên vương], Hán dịch là “ly dục”, [nghĩa là lìa bỏ dục lạc]. Trừ bỏ những trói buộc ở cõi đất bên dưới để vượt lên Sắc giới trên cao, cho nên nói là ly dục. Lại cũng xưng là Cao Tịnh, [nghĩa là cao quý thanh tịnh].
[Danh xưng] Thi-khí, Hán dịch là Đảnh Kế, [nghĩa là búi tóc trên đỉnh đầu]. Lại nữa, trong tiếng Phạn gọi lửa là thọ-đề thi-khí. Vị thiên vương này vốn trước đây tu tập phép định Hỏa quang, phá trừ được những mê hoặc ở Dục giới. Theo phẩm đức ấy mà đặt tên [nên gọi là Thi-khí]. Trong kinh văn [chỗ này] nêu danh xưng Đại Phạm, rồi lại nói đến Thi-khí, có vẻ như là hai vị [khác nhau], nhưng dựa vào Thích luận thì biết Thi-khí cũng chính là Đại Phạm, vì kinh văn nêu địa vị trước rồi nói tên sau, chỉ là một người thôi.
[Người tu tập] trụ nơi thiền định ở khoảng giữa, bên trong có giác quán, bên ngoài có ngôn thuyết, đạt đến chỗ then chốt chủ yếu được làm Thiên vương. Nếu chỉ có riêng việc tu thiền thì làm dân, tức là chư thiên, có tu tập thêm bốn tâm vô lượng thì làm thiên vương.
Ở cõi trời Sơ thiền có Phạm chúng,
[219] Phạm phụ
[220] và Đại Phạm, nay chỉ nêu [Đại phạm Thi-khí là] vị vua [đứng đầu] để bao hàm tất cả.
Quang Minh tức là các cõi trời Nhị thiền, gồm có Thiểu Quang thiên, Vô Lượng Quang thiên và Quang Âm thiên.
Cõi Tam thiền có Thiểu Tịnh thiên, Vô Lượng Tịnh thiên và Biến Tịnh thiên.
Cõi Tứ thiền có Mật thân thiên, cũng gọi là Vô quái ngại thiên,
[221] Vô lượng mật thiên, cũng gọi là Thọ phúc thiên,
[222] Mật quả thiên, cũng gọi là Quảng quả vô tưởng mật thiên, lại cũng gọi là Vô tưởng thiên.
[223] Lại có Ngũ Na-hàm thiên
[224] gồm Bất phiền thiên, Bất nhiệt thiên, Thiện hiện thiên, Thiện kiến thiên, Sắc cứu cánh thiên, cũng gọi là Đại Tự Tại thiên, tức là Ma-hê-thủ-la thiên. Kinh văn lược nói, không nêu ra đầy đủ, chỉ nói thêm “như vậy” tức là còn nhiều chư thiên như vậy, vì là thông lệ nên dù giải thích theo giáo môn, bản tích hay quán tâm đều có thể tự suy xét biết được.
KINH VĂN
Có 8 vị long vương: Long vương Nan-đà, Long vương Bạt-nan-đà, Long vương Sa-già-la, Long vương Hòa-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca, Long vương A-na-bà-đạt-đa, Long vương Ma-na-tư, Long vương Ưu-bát-la, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.
Tiếp theo nói đến 8 vị Long vương.
[Long vương] Nan-đà, nghĩa là hoan hỷ, chữ Bạt [trong Bạt-nan-đà] có nghĩa là thiện. [Hai vị long vương này là] anh em, thường bảo vệ, giúp đỡ nước Ma-kiệt-đề, mưa nắng phải thời, trong nước không năm nào bị đói thiếu, vua Bình Sa nhân đó mỗi năm mở hội một lần, nhân dân trăm họ nghe đến đều hoan hỷ, do vậy mà có tên Hoan Hỷ, chính là hai con rồng sống trong biển mà trước đây ngài Mục-kiền-liên đã hàng phục.
[225]
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ ở Hoan hỷ địa, còn hình tích hiển lộ là [Long vương sống] trong biển.
Theo quán tâm giải thích thì ba pháp quán tức là Trung đạo sinh pháp hỷ.
[Long vương] Sa-già-la là gọi tên theo vùng biển mà vị này cư trú, cũng là tên gọi được dùng trong kinh Hoa nghiêm. Các nhà cựu giải nói là gọi theo tên nước.
[Giải thích theo bản tích thì] bản là trụ trong biển lớn trí tuệ ba-la-mật, còn hình tích hiển lộ là sống trong biển xanh.
[Long vương] Hòa-tu-kiết, Hán dịch là Đa Đầu, nghĩa là có nhiều đầu, lại cũng gọi là Bảo Xưng, sống ở trong nước.
[Giải thích theo bản tích thì] bản là trụ trong Tam-muội Phổ Hiện Sắc Thân, còn hình tích là thị hiện ra [thân rồng] nhiều đầu.
Giải thích theo quán tâm thì nhập vào pháp quán giả nên phân biệt được vô lượng pháp môn. Đại lược là như vậy.
[Long vương] Đức-xoa-ca, Hán dịch là Hiện Độc, cũng gọi là Đa Thiệt (nhiều lưỡi) hoặc Lưỡng Thiệt (hai lưỡi).
[Giải thích theo bản tích thì] bản là trụ trong pháp môn Nhạo thuyết vô ngại biện, còn hình tích là thị hiện ra [thân rồng] nhiều lưỡi.
[Long vương] A-na-bà-đạt-đa là gọi theo tên hồ nước mà vị này cư ngụ, Hán dịch là Vô Nhiệt, tức là hồ Vô Nhiệt.
Kinh Trường A-hàm, quyển 18, nói rằng: “Trên đỉnh Tuyết sơn có hồ nước tên là A-nậu-đạt, trong hồ có một cung điện năm cột trụ. Dựa theo tên hồ mà gọi tên vị Long vương sống trong đó.”
Loài rồng ở trong cõi Diêm-phù-đề có ba mối lo. Một là bị gió nóng thổi cát nóng trúng vào thân, thiêu đốt da thịt cho đến xương tủy, đó là khổ não. Hai là bị gió ác thổi mạnh vào cung điện làm mất đi áo quý che thân, khiến thân rồng tự hiển lộ ra, đó là khổ não. Ba là khi loài rồng đang tụ tập vui chơi thì chim kim sí vào cung, bắt rồng con mới sinh ăn thịt, khiến phải sợ hãi, lo lắng phiền muộn. Hồ nước này không có ba mối lo đó. Nếu chim [kim sí] vừa khởi lên ý nghĩ muốn đến hồ này liền lập tức bỏ mạng. Cho nên gọi tên là hồ Vô Nhiệt Não.
[Giải thích theo bản tích thì] bản là vốn trụ nơi trong trẻo mát mẻ của thường, lạc, ngã, tịnh, còn hình tích hiện ra là sống trong hồ nước mát.
Giải thích theo quán tâm thì ba pháp quán [không, giả, trung] là trí tuệ nhiệm mầu, làm lắng sạch năm trụ địa phiền não,
[226] tránh khỏi cát nóng của hai sự chết.
[227]
[Long vương] Ma-na-tư, Hán dịch là Đại Thân, hoặc là Đại Ý, Đại Lực... [Khi đánh nhau với Đế-thích, vua] A-tu-la dùng nước biển làm ngập thành Hỷ Kiến, vị Long vương này hiện thân [to lớn] quấn vòng quanh thành ngăn được nước biển [để giúp Đế-thích].
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ trong pháp môn Vô biên thân, còn hình tích biểu hiện là thân thể to lớn.
Giải thích theo quán tâm thì tánh của pháp quán Trung đạo chân chánh là rộng khắp. Đại lược là như vậy.
[Long vương] Ưu-bát-la,
[228] Hán dịch là hồ sen Đại Sắc.
[229] Vị này cư trú trong hồ nên gọi theo tên của hồ.
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ nơi Tam-muội Pháp hoa, còn hình tích biểu hiện là [thân rồng] cư trú trong hồ này.
Giải thích theo quán tâm thì [tu tập] ba pháp quán [không, giả, trung] tức là tu tạo nhân, nhân ở đây là hoa sen.
Kinh Chánh pháp niệm nói: “Loài rồng bảo vệ bờ cõi cho chư thiên. Khi a-tu-la khởi binh [đánh nhau với chư thiên] thì trước tiên phải đánh nhau với rồng. Cho nên biết rằng, loài rồng thuộc sự cai quản của chư Thiên.”
KINH VĂN
Có bốn vị vua khẩn-na-la: Vua Khẩn-na-la Pháp, Vua Khẩn-na-la Diệu Pháp, Vua Khẩn-na-la Đại Pháp, Vua Khẩn-na-la Trì Pháp, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.
Tiếp theo kể đến bốn vị [vua] khẩn-na-la (kiṃnara), cũng đọc là chân-đà-la, Hán dịch là nghi thần, hình dạng giống như loài người nhưng có một cái sừng, cho nên gọi là “nhân phi nhân” (người chẳng phải người). Đây là thần phụ trách Pháp nhạc của Thiên đế, cư trú ở ngọn núi bằng mười món báu, thân thể hình tướng dị thường, chuyên lo việc tấu nhạc. Khi đức Phật thuyết pháp [các vị này theo] chư thiên đàn ca xưng tán, trong đại hội Vu-già
[230] [các vị này] tán tụng các pháp môn.
Các nhà cựu giải nói: “[Vua] Khẩn-na-la Pháp tấu xưng pháp Tứ đế, [Vua] Khẩn-na-la Diệu Pháp tấu xưng pháp Thập nhị nhân duyên, [Vua] Khẩn-na-la Đại Pháp tấu xưng pháp Lục độ, [Vua] Khẩn-na-la Trì Pháp tấu xưng tổng quát cả ba pháp vừa kể.” Ngày nay thì nói các pháp tấu xưng đó là pháp môn Tứ giáo.
[231]
[Giải thích theo bản tích thì] bản là vốn trụ nơi không thể nghĩ bàn, không ra khỏi Diệt [tận] định, yên ổn trong thiền định mà chắp tay, dùng muôn ngàn lời kệ xưng tán các bậc Pháp Vương, còn hình tích hiển lộ là nhờ vào đàn sáo ca hát để tán vịnh Thập lực.
[232]
Giải thích theo quán tâm thì quán hết thảy âm thanh tức là không, tức là giả, tức là trung đạo, tùy thuận theo ba đế
[233] tức là xưng tán Phật.
KINH VĂN
Có bốn vị vua càn-thát-bà: Vua Càn-thát-bà Nhạc, Vua Càn-thát-bà Nhạc Âm, Vua Càn-thát-bà Mỹ, Vua Càn-thát-bà Mỹ Âm, mỗi vị đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
[Tiếp theo nói đến bốn vị vua Càn-thát-bà.] Càn-thát-bà (Gandharva), Hán dịch là Khứu hương (ngửi mùi hương), [loài này] dùng mùi hương làm thức ăn, cũng gọi là Hương ấm, từ thân thể tỏa ra mùi hương. Các vị này là thần chuyên trách Tục nhạc
[234] của Thiên đế.
Nhạc Càn-thát-bà chuyên về âm nhạc múa cờ. Nhạc Âm Càn-thát-bà chuyên các loại trống phách đàn sáo. Mỹ Càn-thát-bà cũng chuyên về nhạc múa cờ nhưng vượt trội hơn. Mỹ Âm Càn-thát-bà cũng chuyên các loại trống phách đàn sáo nhưng vượt trội hơn.
KINH VĂN
Có bốn vị vua a-tu-la: Vua A-tu-la Bà-trĩ, Vua A-tu-la Khư-la-kiển-đà, Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la, Vua A-tu-la La-hầu, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
[Tiếp theo nói đến bốn vị vua A-tu-la.] A-tu-la (Asura), Hán dịch là Vô tửu. [Loài này trước đây] đi hái hoa trong khắp bốn cõi thiên hạ, mang về ủ rượu trong biển lớn, nhưng do nghiệp lực của các loài cá, rồng nên [ủ mãi] không thành mùi vị rượu. Do việc này mà sân hận nổi lên, thề không bao giờ uống rượu nữa, cho nên gọi là thần Vô tửu.
[A-tu-la] lại cũng dịch là Bất Đoan. Ngài Đạo An
[235] nói rằng: “[A-tu-la] dịch là ‘chất lượng’ (質諒), nghĩa là ‘thành thật chất phác’, vị thần này dua nịnh chẳng thật thà, không tương xứng với danh xưng đó.”
[236]
[A-tu-la] có hai loại. Một loại sống ở ven biển lớn, thuộc loài quỷ, một loại sống dưới đáy biển lớn, thuộc loài súc sinh.
[Vua A-tu-la] Bà-trĩ, Hán dịch là Bị Phược, nghĩa là chịu trói buộc, hoặc gọi là Ngũ Xứ Bị Phược,
[237] hoặc cũng gọi là Ngũ Ác. Có vật buộc vào cổ không thể cởi ra được cho nên gọi là Bị Phược. Lại cũng nói là Hữu Phược, vì [từng] bị Đế Thích trói buộc.
[238]
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn có khả năng dùng năm trói buộc
[239] để trói ma ngoại đạo, còn tích là hiện ra hình tượng [a-tu-la] như vậy.
Kinh Chánh Pháp hoa nói pháp quán thù thắng nhất là dùng trí tuệ Tam quán để buộc chặt năm trụ phiền não, thể nhập thực tế.
[Vua A-tu-la] Khư-la-kiển-đà, Hán dịch là Quảng Kiên Giáp,
[240] cũng gọi là Ác Âm, từ trong nước biển vọt lên.
Kinh Chánh Pháp hoa
[241] gọi tên vị này là Bảo Cẩm.
[242]
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ nơi quyền trí và thật trí, lòng từ gánh vác chúng sinh, tích là hiện tướng vai rộng.
Giải thích theo quán tâm đây thì ba pháp quán [không, giả, trung] có thể mở rộng che trùm năm trụ địa phiền não trong biển lớn sinh tử.
[Vua A-tu-la] Tỳ-ma-chất-đa, Hán dịch là Tịnh Tâm, cũng dịch là Chủng Chủng Nghi. Từ trong sóng biển phát ra âm thanh nên gọi là Tỳ-ma-chất-đa, tức là cha của [nữ a-tu-la] Xá-chi, [là vợ của Đế-thích].
Kinh Quán Phật Tam-muội
[243] nói rằng: “Chư thiên cõi trời Quang Âm bay ngang đất này,
[244] do đất khiến cho lòng dục khởi lên,
[245] liền xuống biển tắm để rửa sạch chất bất tịnh. [Chất bất tịnh trôi trong nước] chìm xuống bùn, biến thành quả trứng. Qua 8.000 năm trứng ấy nở ra một người con gái, có 999 cái đầu và 24 cánh tay.
[246] Người con gái này vui đùa trong nước, tinh của nước nhập vào thân [liền có thai,] qua 8.000 năm sinh một đứa con trai, có 24 đầu và 999 cánh tay,
[247] từ trong sóng biển phát ra âm thanh gọi tên là Tỳ-ma-chất-đa. [Tỳ-ma-chất-đa] cưới người con gái càn-thát-bà, sinh ra nữ a-tu-la Xá-chi. Đế-thích [đến xin cầu hôn, theo yêu cầu của Tỳ-ma-chất-đa liền biến hóa,] do thiện nghiệp [của Đế-thích] mà hiện ra cung điện bằng bảy báu để cha [của nàng Xá-chi] cư ngụ, nhờ đó cưới được Xá-chi về làm vợ.
[248] Về sau [do Xá-chi nói xấu chồng với cha
[249] nên Tỳ-ma-chất-đa tức giận liền] khởi binh [đánh Đế-thích], chân đạp nước biển, [999 cánh] tay cùng lúc vươn tới công phá thành Hỷ Kiến. Đế-thích nhờ uy lực của chú Bát-nhã nên không bị hại.
Kinh Chánh Pháp hoa
[250] gọi tên vị này là Yến Cư.
Giải thích theo bản tích thì bản là hình sắc, tâm ý vốn tự thanh tịnh, còn hình tích là thị hiện có tên [Tịnh Tâm].
Giải thích theo quán tâm thì pháp quán Trung đạo chân chánh tức là “tịnh tâm”, là tâm thanh tịnh.
[Vua A-tu-la] La-hầu (Rāhuasura),
[251] Hán dịch là Chướng Trì, [nghĩa là che chướng, nắm giữ], vì loài này nắm giữ, che chướng mặt trời, mặt trăng. La-hầu thuộc loài súc sinh, thân dài 84.000 do-tuần, miệng rộng 1.000 do-tuần, dùng châu báu trang sức trên thân hình, thường ngắm các thiên nữ trong vườn rừng của chư thiên.
Nếu loài người trong bốn cõi thiên hạ biết hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường các bậc sa-môn thì chư thiên có uy lực, [có thể làm] mưa đao trong không trung. Nếu không được như vậy thì chư thiên phải vào ở trong cung chẳng ra bên ngoài.
Lại nói rằng mặt trời chiếu sáng khiến mắt của La-hầu chẳng thể nhìn thấy, liền đưa bàn tay lên che. Người đời đều nói là nhật thực (mặt trời bị ăn), cho là quái lạ hung hiểm, đặt ra đủ loại tà thuyết. [La-hầu] che mặt trăng cũng giống như vậy.
Hoặc khi [La-hầu] phát ra âm thanh rất lớn, người đời nói là tiếng thú trời rống, cho là hung hiểm hỗn loạn, là điềm vương triều suy yếu, đặt ra đủ loại tà thuyết.
Vào lúc La-hầu muốn gây hại cho mặt trời mặt trăng thì hiện thân lớn lên gấp nhiều lần, rồi hà hơi thổi vào mặt trời, mặt trăng. Mặt trời, mặt trăng bị mất ánh sáng liền đến thưa với Phật. Phật dạy La-hầu không được nuốt mặt trời, mặt trăng. La-hầu [nghe lời Phật dạy thì] toàn thân rúng động, toát mồ hôi đầm đìa, liền buông mặt trời, mặt trăng ra. [Đó là do] sức của mặt trời, mặt trăng, sức của chúng sinh và oai lực của Phật, đủ các nhân duyên như vậy nên [La-hầu] không thể gây hại.
Xưa có một vị bà-la-môn thông minh, thường bố thí rộng rãi, dùng cả 4.000 chiếc xe chở lương thực ra giữa đồng trống để bố thí [rộng khắp]. [Khi ấy] có một tháp thờ Phật bị kẻ xấu đốt cháy, vị này tức thời dùng cả 4.000 chiếc xe chở nước đến dập lửa, cứu được tháp khỏi cháy. [Nhân làm việc công đức ấy lại] hoan hỷ phát nguyện rằng sau này sẽ được có thân hình to lớn nhất trong Dục giới. Người ấy hoan hỷ làm việc bố thí nhưng đã không có niềm tin chân chánh, lại ưa thích sự đối chọi, đấu tranh, nên tái sinh vào thành Quang Minh, chính là La-hầu, vua A-tu-la.
Kinh Chánh Pháp hoa
[252] gọi [tên vị này] là Hấp Khí.
Bản tích, quán tâm, [đại lược cũng đều như vậy]...
KINH VĂN
Có bốn vị vua ca-lâu-la: Vua Ca-lâu-la Đại Uy Đức, Vua Ca-lâu-la Đại Thân, Vua Ca-lâu-la Đại Mãn, Vua Ca-lâu-la Như Ý, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
Tiếp theo nói đến bốn vị vua Ca-lâu-la. Ca-lâu-la (garuḍa), Hán dịch là kim sí (cánh vàng). Loài chim này có cánh màu vàng, sống trên những cây đại thụ trong khắp bốn cõi thiên hạ. Hai cánh chim nối lại dài đến 336 vạn dặm. Có người nói, [loài chim này] Trang Tử gọi là chim bằng. Chim bằng mỗi khi đi đâu thì các loài chim khác vây quanh hộ vệ, cũng gọi là chim phượng hoàng. Nhưng chỉ nói riêng việc chim phượng hoàng khi đi không giẫm đạp trên cỏ tươi, chỉ ăn bông trúc,
[253] đậu trên cây nhũ đồng,
[254] trong khi chim kim sí thì ăn thịt loài rồng, làm sao có thể đồng loại với nhau.
[Vua Ca-lâu-la] Đại Uy Đức, nghĩa là có uy đức vượt trội hơn trong đồng loại, lại cũng có nghĩa là uy lực nhiếp phục loài rồng.
Kinh Chánh Pháp hoa gọi tên vị này là Cụ Túc.
[255]
[Vua Ca-lâu-la] Đại Thân, nghĩa là thân lớn, đó là nói thân lớn hơn hết trong đồng loại.
[Vua Ca-lâu-la] Đại Mãn, hàm ý là tự mình thường có đủ số rồng để ăn.
[Vua Ca-lâu-la] Như Ý, là do vị này trên cổ có đeo hạt châu như ý [nên gọi tên như vậy].
Kinh Chánh Pháp hoa
[256] gọi tên vị này là Bất Khả Động.
Loài chim ca-lâu-la có thần lực, chim trống biến hóa thành thiên tử, chim mái biến hóa thành thiên nữ, lại biến hóa nơi ở của mình có cung điện xây bằng các món báu, đầy đủ trăm món ăn ngon, nhưng do nghiệp báo nên vẫn ăn thịt loài rồng. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ thai mẹ thì ăn thịt được loài rồng cũng sinh ra từ thai, không thể ăn thịt ba loài rồng sinh ra từ trứng, từ ẩm thấp và từ sự biến hóa. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ trứng thì ăn thịt được hai loài rồng sinh ra từ thai và từ trứng. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ sự ẩm thấp thì ăn thịt được ba loài rồng sinh ra từ thai, từ trứng và từ sự ẩm thấp. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ sự biến hóa thì có thể ăn cả bốn loài rồng.
Kinh Quán Phật Tam-muội nói: [Tên chim này] đọc đúng theo Phạn ngữ là ca-lâu, trong một ngày ăn hết một con rồng chúa và 500 rồng con ở phía đông của núi. Ở ba phía tây, nam, bắc cũng ăn hết số rồng như vậy. Xoay quanh hết một vòng thì quay lại từ đầu, cứ như vậy mà sống đến 8.000 năm. Khi lâm chung thế lực không còn, muốn ăn rồng con nhưng bị rồng mẹ hà hơi bảo vệ, không thể ăn được liền nổi cơn sân hận, từ núi Kim Cang lao thấu xuống biển, xuyên qua tầng địa luân, nhưng không thể xuyên qua tầng phong luân,
[257] bị sức gió bật ngược lại nên từ đó bay vọt trở lên đến núi Kim Cang. Cứ lao xuống vọt lên như vậy đến bảy lần, về lại trên đỉnh núi thì chết, da thịt rách ra tự nhiên hóa lửa dữ, sắp thiêu cháy cả ngọn núi báu. [Long vương] Nan-đà làm mưa dập tắt lửa. Khi ấy da thịt đều đã bị lửa thiêu chín nhừ, chỉ còn lại trái tim bay xuyên xuống đến tầng phong luân, lại bị dội ngược về, cũng qua bảy lần như thế rồi mới rơi xuống trên núi, hóa thành viên ngọc như ý. Con rồng nào có được viên ngọc này thì thành Long vương. Vua chúa cõi người cũng động lòng đối với viên ngọc quý này.
KINH VĂN
Vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hi cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc, hết thảy đều đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên.
Tiếp đến nói về [hội chúng cõi] người. Vi-đề-hy (Vaidehī) [là nhắc tên người mẹ của vua A-xà-thế], Hán dịch là Tư Duy.
[258] Tần-bà-sa-la (Bimbisāra), Hán dịch là Mô Thật, là [nhắc đến tên] cha của vua A-xà-thế. [Hai người này không có trong chúng hội.]
A-xà-thế (Ajātaśatru) có nghĩa là Vị Sinh Oán (oán thù từ lúc chưa sinh ra), hoặc cũng có tên là Bà-lưu-chi (Balaruci), Hán dịch là Vô Chỉ (không có ngón tay).
[259] Những người thân quen gần gũi thì gọi là Thiện Kiến.
[Xét theo bản tích thì] tên gọi Thiện Kiến là bản, còn gọi tên Vô Chỉ là biểu hiện hình tích. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “A-xà gọi là chẳng sinh, Thế gọi là oán. Vì tánh Phật không sinh, ắt phiền não oán sinh. Vì phiền não oán sinh, nên không thấy tánh Phật. Phiền não không sinh ắt thấy tánh Phật.”
[260]
Lại nữa, A-xà gọi là chẳng sinh, thế là pháp thế gian. Vì tám pháp của thế gian không làm ô nhiễm được nên gọi là A-xà-thế. Đây là nghĩa bản [theo bản tích].
[261]
Kinh Phổ Siêu
[262] nói: “A-xà-thế sám hối với Bồ Tát Văn-thù nên được pháp nhẫn nhu thuận. Sau khi chết rơi vào địa ngục Tân-trá-la, vừa vào liền ra khỏi ngay, tái sinh lên cõi Phật phương trên, chứng đắc Vô sinh nhẫn. Khi đức Phật Di Lặc ra đời sẽ quay lại thế giới này, hiệu là Bồ Tát Bất Động, về sau sẽ thành Phật, hiệu là Như Lai Tịnh Giới. Hình tích hiển lộ mà còn như thế, há có thể suy lường được căn Nguyên tác môn? Khi [đức Phật] thuyết kinh Pháp hoa, [vua A-xà-thế] dự vào chúng thanh tịnh. Đến lúc [đức Phật] thuyết kinh Niết-bàn lại nêu ra tội nghịch, không khác với việc ngài Ca-diếp trong hội Pháp hoa được thụ ký mà đến khi thuyết kinh Niết-bàn không được nhận sự phó chúc. Cho nên không thể mê muội nơi hình tích mà nghi hoặc chỗ căn Nguyên tác môn.
Giải thích theo quán tâm thì tham ái là mẹ, vô minh là cha, hại diệt cha mẹ ấy nên gọi là nghịch. Nghịch như vậy tức là thuận. [Kinh Duy-ma-cật nói:] “Làm việc trái đạo là thông đạt Phật đạo.”
[263]
● Hỏi: Phật thuyết pháp ở cõi người, sao nêu số người trong chúng hội ít như thế?
● Đáp: Văn kinh chỉ lược nêu, không ghi đầy đủ, nhưng số người như thế cũng không phải ít. Kinh nói “cùng với các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương v.v.” [Ở đây cũng tương đương như] trong kinh Vô lượng nghĩa kể ra bốn vị luân vương,
[264] quốc vương, đại thần, quốc dân, kẻ nam người nữ... Chúng hội như vậy tất nhiên rất nhiều.
● Hỏi: Tất cả trời, người, quỷ, thần đều đến gặp Phật nghe pháp, nhưng cõi địa ngục và cõi Vô sắc không thấy kể ra là có hàm ý gì?
● Đáp: Nay sẽ giải thích rõ ý nghĩa này. Thông thường, lên hay xuống trong sáu đường
[265] là do việc trì giới hay phạm giới; gặp Phật hay không gặp Phật
[266] là do theo pháp tu tập chuyên cần tinh tấn hay trì trệ. Nhưng việc trì giới có thô thiển, có tinh tế, cho nên quả báo có hơn kém nhau. Theo pháp tu tập thì có Tiểu thừa, Đại thừa, nên việc gặp Phật cũng có [ý nghĩa] quyền biến hay chân thật.
[Sau đây] có thể tạm phân chia sơ lược việc trì giới và tu tập theo các thừa thành ba bậc [thượng, trung, hạ]. Dựa theo kinh Niết-bàn [lại dùng cách] một câu mở rộng thành 4 câu để giải thích ý nghĩa này thì sẽ rõ ràng.
- Thứ nhất là việc trì giới nghiêm cẩn và sự tu tập theo các thừa cũng tinh tấn gấp rút. (Thừa giới câu cấp.)
- Thứ hai là việc trì giới thiếu nghiêm cẩn nhưng sự tu tập theo các thừa thì tinh tấn. (Thừa cấp giới hoãn.)
- Thứ ba là việc trì giới nghiêm cẩn nhưng sự tu tập theo các thừa thì trì trệ. (Thừa hoãn giới cấp.)
- Thứ tư là việc trì giới thiếu nghiêm cẩn và sự tu tập theo các thừa cũng trì trệ. (Thừa giới câu hoãn.)
Nếu luận về trì giới và pháp tu tập hay các thừa theo Thông giáo thì hết thảy pháp lành, hết thảy các pháp quán trí tuệ đều được gọi là giới, cũng đều xem là thừa, là pháp để tu theo. Cõi người, cõi trời [được xếp chung với Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát thành] Ngũ thừa chính là ý nghĩa này. Đạo chung cùng, giới bình đẳng, tất cả đều là ý nghĩa theo Thông giáo.
[Nhưng] nay sẽ phân chia theo Biệt giáo [để giải thích].
Ba quy y, năm giới, mười điều lành, tám trai giới, các luật nghi của người xuất gia, cho đến giữ tâm ý an định cùng với việc thường ngăn phòng thân, miệng, đều ngăn được việc rơi vào đường ác và sẽ được quả báo sinh trong hai cõi trời, người. Những điều như vậy gọi là giới.
Nếu nghe kinh hiểu nghĩa, rồi quán xét bằng trí tuệ, suy xét các pháp tứ đế, thập nhị nhân duyên, lục độ, sinh diệt, vô sinh diệt v.v. [Nhờ đó] trí tuệ có thể phá trừ phiền não, dần dần ra khỏi ba cõi. Những điều như vậy gọi là tu tập theo các thừa.
Cho nên, Đại phẩm nói: “Việc thiện có hình tướng thì không động, không xuất; việc thiện không hình tướng thì thường động, thường xuất.”
[267] Tức là ý nghĩa như vậy.
[Thứ nhất], nếu việc trì giới nghiêm ngặt và sự tu tập theo các thừa tinh tấn gấp rút, [lại có ba trường hợp].
1. Nếu trì giới nghiêm ngặt ở bậc hạ thì được quả báo trong cõi người. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa
[268] thì trong khi được thân người ấy lại được gặp lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Trung thừa
[269] thì trong khi được thân người ấy gặp được lúc thuyết giảng Đại thừa Thông giáo cho đến các kinh phương tiện Đại thừa, được gặp Phật nghe Pháp. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Thượng thừa thì trong khi được thân người ấy gặp được các giáo pháp Hoa nghiêm, Pháp hoa v.v. cũng như các giáo pháp Trung đạo của Viên giáo, được gặp Phật nghe Pháp, được dự vào thính chúng cùng nghe thuyết pháp.
2. Nếu trì giới nghiêm ngặt ở bậc trung thì quả báo sinh làm chư thiên ở các cõi trời Dục giới. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa thì trong khi được thân chư thiên Dục giới đó lại gặp được lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp, ngoài ra như trên đã nói. Đối với việc tu tập theo Trung thừa, Thượng thừa cũng đều giống như trên đã nói.
3. Nếu trì giới nghiêm ngặt ở bậc thượng, cộng thêm tu thiền định thì quả báo được sinh làm chư thiên ở các cõi trời Sắc giới và Vô sắc giới. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa thì trong khi được thân chư thiên ở cõi trời Sắc giới, Vô sắc giới đó lại gặp được lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp. Đối với việc tu tập theo Trung thừa, Thượng thừa cũng đều giống như trên đã nói.
Đến đây giải thích xong điều thứ nhất.
[Thứ hai], việc trì giới thiếu nghiêm ngặt nhưng sự tu tập theo các thừa thì gấp rút. Nếu việc trì giới ở cả ba bậc hạ, trung và thượng đều thiếu nghiêm ngặt thì quả báo là rơi vào ba đường ác: [địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sinh]. Khi ấy nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa thì trong lúc thọ thân trong ba đường ác được gặp lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp. Đối với việc tu tập theo Trung thừa, Thượng thừa cũng đều giống như trên đã nói.
Đến đây giải thích xong điều thứ hai.
[Thứ ba], việc trì giới nghiêm ngặt nhưng sự tu tập theo các thừa thì trì trệ. Nếu việc trì giới nghiêm ngặt ở cả ba bậc thượng, trung và hạ thì [có thể] thọ thân trong hai cõi trời, người thuộc Dục giới cũng như chư thiên Sắc giới và Vô sắc giới. Do sự tu tập theo cả ba thừa đều trì trệ nên tuy gặp lúc Phật ra đời thuyết giảng giáo pháp ba thừa, nhưng vì tham ái đắm chấp nơi quả báo hoan lạc, đam mê năm món dục mà không được thấy Phật, nghe pháp. [Vào thời Phật] ở ngay trong nước Xá-vệ có ba trăm ngàn gia đình không được gặp Phật, nghe pháp, cũng giống như chư thiên tham đắm dục lạc trong ba cõi.
Đến đây giải thích xong điều thứ ba.
[Thứ tư], nếu việc trì giới thiếu nghiêm ngặt và sự tu tập theo các thừa đều trì trệ thì thọ quả báo trong ba đường ác, không gặp Phật, không được nghe pháp.
Đến đây giải thích xong điều thứ tư.
Trong kinh này không nêu ra chúng sinh địa ngục là vì ngăn cách bởi việc trì giới không nghiêm ngặt phải chịu quả báo khổ não nặng nề, lại tu tập theo Thượng thừa trì trệ nên không thể được gặp Phật, nghe Pháp trong hội Pháp hoa. Những kinh khác có kể đến chúng sinh địa ngục, đó là những chúng sinh biết tu tập tinh tấn gấp rút theo Tiểu thừa, Trung thừa.
Trong kinh này lại cũng không đề cập đến chư thiên cõi Vô sắc, là vì họ trì giới nghiêm ngặt ở bậc thượng nên được thân chư thiên nhưng đắm say mùi vị thiền định, tu tập theo Thượng thừa trì trệ nên không thể được gặp Phật, nghe pháp trong hội Pháp hoa. Những kinh khác có nói đến chư thiên Vô sắc giới, đó là những vị biết tu tập tinh tấn gấp rút theo Tiểu thừa, Trung thừa.
Nếu hiểu rõ được ý nghĩa như trên thì đem áp dụng vào hết thảy tám bộ chúng như trời, rồng... đều sẽ rõ biết được nhân duyên trước đây đã [trì giới và tu tập] nghiêm ngặt hay không nghiêm ngặt, tinh tấn hay trì trệ. Từ đó có thể hiểu được ý nghĩa vì sao có những loài nào đến hoặc không đến [pháp hội này]. Giảng rộng ra thì như trong sớ giải Tịnh danh.
[270]
Lại nữa, rõ biết ý nghĩa quyền biến mới dẫn đến nghĩa chân thật, ý nghĩa bản tích trở nên sáng tỏ. Đem ý nghĩa này mà xét các quán hạnh đã qua thì nhân quả ba đời đều sáng tỏ, có thể rõ biết.
“Hết thảy đều đảnh lễ sát chân Phật [rồi lui lại ngồi sang một bên].” Câu cuối cùng này tổng kết lại phần hội chúng vân tập.
Giải thích phần Biệt tự
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn có bốn chúng đi nhiễu quanh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Phật thuyết kinh ấy xong, ngồi kết già nhập Tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm chẳng động.
Từ câu: “Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn...” cho đến hết Phẩm Tựa này gọi là Biệt tự. Phần Biệt tự này trình bày năm ý nghĩa. Thứ nhất là đại chúng vân tập, thứ hai là hiện điềm lành, thứ ba là có niệm nghi ngờ, thứ tư là thưa hỏi và thứ năm là giải đáp.
Theo ngài Quang Trạch
[271] thì sự sinh khởi có hai chiều thuận, nghịch. [Chẳng hạn như nói] do đại chúng vân tập cho nên hiện điềm lành, cho đến do thưa hỏi nên có sự giải đáp. [Lại nói nghịch chiều] rằng sự giải đáp là vì thưa hỏi, cho đến hiện điềm lành là do đại chúng vân tập. Đó là xem xét ý nghĩa duyên khởi theo nhiều chiều hướng, [mọi sự việc đều] liên quan gắn bó chặt chẽ với nhau. [Nhưng như vậy thì] ý chính của bài tựa tự nó vẫn chưa được làm rõ. Nói thẳng vào nhân duyên, một cách giải thích mà tự nó còn không rõ, huống nữa là hai, ba, bốn cách, nên rốt cùng không có chủ ý khuynh hướng nào cả.
Nay làm rõ bốn điểm [quan trọng] nhất trong năm ý nghĩa ở phần biệt tự này. Trong ý nghĩa đại chúng vân tập thì quan trọng nhất là chúng hội cõi người. Trong ý nghĩa hiện điềm lành thì quan trọng nhất là lý. Trong ý nghĩa có niệm nghi thì quan trọng nhất là hành. Trong hai ý nghĩa thưa hỏi và giải đáp thì quan trọng nhất là giáo pháp. Đây là giải thích theo nhân duyên.
Giải thích theo ước giáo thì phần biệt tự này là chính, không riêng thuộc về Tạng giáo, không phải Thông giáo cũng chẳng phải Biệt giáo, do vậy có thể xem là thuộc Viên giáo. Lược nói theo bản tích, phần biệt tự này nếu lấy bốn nghĩa chính theo chỗ nhân địa bản lai trong phẩm Tuổi thọ của Như Lai thì có thể tự hiểu, không cần ghi chép ra đây. Theo quán tâm cũng có thể giải thích được. Đại lược là như vậy.
Phần đại chúng vân tập lại có hai phần phụ. Trước là hiển lộ oai nghi của đại chúng, thứ đến là việc đại chúng cúng dường. Luận Pháp hoa ở mục này cho rằng oai nghi nghĩa là an trụ đúng như pháp.
“Bốn chúng đi nhiễu quanh”
Về nghĩa bốn chúng, các nhà cựu giải nói là gồm hai chúng xuất gia và hai chúng tại gia, hợp thành bốn chúng. Như vậy là [chỉ nêu được] ý nghĩa một phần, không bao quát hết.
Nay lấy mỗi một chúng mở rộng thành bốn chúng, đó là chúng phát khởi, chúng đương cơ, chúng ảnh hưởng và chúng kết duyên.
Chúng phát khởi là những vị có trí tuệ soi xét rõ biết, quyền biến khéo léo, biết căn cơ thích hợp, biết thời điểm thích hợp, có thể khua trống dựng cờ, phát động [Phật sự], thành tựu lợi ích đầy đủ [cho chúng sanh], giống như voi mẹ quỵ hai chân xuống cho voi con được [bú] no. Nói phát khởi nghĩa là làm cho đại chúng vân tập lại để phát khởi điềm lành, cho đến phát khởi sự thưa hỏi, giải đáp. Những vị làm được như vậy đều gọi là chúng phát khởi.
Chúng đương cơ là những vị đã từng gieo trồng cội gốc phúc đức, nay hội đủ nhân duyên, đến thời điểm thành thục, ví như ung nhọt đã chín mùi sắp vỡ, nên ngồi yên không đứng dậy mà vừa nghe pháp liền chứng đạo. Những vị như vậy gọi là chúng đương cơ.
Chúng ảnh hưởng là những vị Bồ Tát pháp thân từng tu tập nơi chư Phật quá khứ xa xưa, nay tự giấu kín chỗ viên mãn cùng cực của mình để theo trợ giúp [sự giáo hóa của] đấng Pháp vương, giống như các vì tinh tú vây quanh mặt trăng. Tuy không làm gì nhưng [tự nhiên tạo ra] lợi ích cực kỳ lớn lao. Những vị như vậy gọi là chúng ảnh hưởng.
Chúng kết duyên là những vị không có sức dẫn dắt, cũng chẳng thể tác động đến ai. Nói về đức độ thì cũng không có công năng khuất phục người khác hay gìn giữ sự oai nghiêm. Hơn nữa, những người này trong quá khứ căn cơ cạn cợt, phiền não uế tạp che lấp, ba trí tuệ
[272] không thể khởi sinh. Cho nên đời này tuy có được gặp Phật nghe pháp nhưng chẳng được sự lợi ích [tức thời] nào, xét theo cả bốn nghĩa tất đàn, nhưng chỉ [nhờ việc gặp Phật nghe pháp mà] tạo ra nhân duyên sẽ được hóa độ trong tương lai. Những người như vậy gọi là chúng kết duyên.
[Nay phân chia trong] chúng tỳ-kheo [thành bốn chúng] như vậy, đối với các chúng [tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di] cũng đều [phân ra] như thế. Cộng chung tất cả là 16 chúng.
Giống như vào thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, [16 vị sa-di] vương tử giảng lại [lời Phật cho đại chúng], đó là chúng phát khởi vào lúc ấy. Những người nghe pháp chứng đạo tức là chúng đương cơ vào lúc ấy. Những người được nghe pháp nhưng chưa được độ thoát, sau đó còn đời đời [tái sinh] gặp nhau, cho đến nay có vị ở trong hàng Thanh văn, tức là chúng kết duyên vào thời ấy. Đức Phật [Đại Thông Trí Thắng] vào thuở ấy đã có đủ 16 chúng,
[273] nay cũng cùng là đạo Phật, lẽ nào lại không có đủ như vậy? Đó là nói 16 chúng theo Viên giáo. Đối với Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo cũng xét theo như vậy thì có thể rõ biết, [ý nghĩa] theo bản tích cũng có thể hiểu được.
Theo quán tâm thì xét kỹ nơi cảnh mà thành quán. Bước vào trong danh tự Quán hành vị tức thành chúng kết duyên, thể nhập Tương tự vị tức thành chúng đương cơ, thể nhập Phần chân vị tức thành chúng phát khởi, chúng ảnh hưởng. Đại lược là như vậy.
Về ý nghĩa đi nhiễu quanh đức Phật, khi đức Phật mới ra đời, người đời chưa biết đến giáo pháp, chư thiên cõi trời Tịnh Cư liền giáng hạ, hóa hình giống như loài người, đến [chỗ Phật] rồi liền đi nhiễu quanh về bên phải [để bày tỏ] sự kính lễ. Kính lễ rồi liền ngồi xuống nghe thuyết pháp. Nhân nơi chư thiên kính lễ [theo cách đó] nên loài người cũng lấy đó làm khuôn mẫu noi theo. Đó là giải thích theo nhân duyên.
Đi nhiễu quanh, đó là oai nghi đi vòng quanh [lễ Phật], biểu thị bốn cửa vào đạo
[274] tùy cơ duyên linh hoạt đều thấy được chân lý viên mãn. Lấy chỗ viên mãn so với thiên lệch mà có bốn nghĩa,
[275] đây là giải thích theo giáo môn. Lại nữa, thân Phật bao quanh đều là tướng hảo trang nghiêm, khi đi vòng quanh chiêm ngưỡng thì tăng thêm sức định niệm Phật, đây tức là giải thích theo quán tâm.
Giải thích theo bản tích thì quán sắc thân của Phật liền thấy được pháp thân.
“Cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán”
Về ý nghĩa cúng dường, [nói chung thì] thông qua ba nghiệp [thân, khẩu, ý] đều gọi là cúng dường. Nói riêng thì cúi mọp lễ lạy gọi là cung kính, chí thành niệm tưởng gọi là tôn trọng, dùng lời tốt đẹp ngợi khen xưng tán gọi là tán thán, mang những gì thuộc y báo
[276] của mình mà hiến tặng gọi là cúng dường. Ở đây kinh văn chỉ nói sơ lược, nếu đầy đủ thì phải nói rộng ra như trong kinh Vô lượng nghĩa, dùng thức ăn từ cõi trời, hương thơm cõi trời, bình bát cõi trời để dâng lên gọi là cúng dường. [Trong kinh Vô lượng nghĩa nói rằng],
[277] Bồ Tát Đại Trang Nghiêm cùng với 80.000 Đại Bồ Tát cùng nhau chắp tay, tức là cung kính, một lòng chiêm ngưỡng, tức là tôn trọng, đọc bài kệ theo thể thất ngôn,
[278] đó gọi là tán thán.
Nay nói về việc đại chúng vân tập là chỉ đến kinh văn trong kinh Vô lượng nghĩa. Trong kinh Vô lượng nghĩa nói việc đại chúng vân tập nghe thuyết pháp xong vẫn nghiêm trang ngồi lại mà không xưng tán Phật, vì cũng tại pháp hội này tiếp tục giảng thuyết kinh Pháp hoa. Cho nên biết rằng ý nghĩa cúng dường thông qua ba nghiệp [thân, khẩu, ý] không có gì sai khác, dùng kinh văn Vô lượng nghĩa để giải thích rộng chỗ nói lược ở kinh này không có gì sai.
“Vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa”
Từ câu “vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa” cho đến hết phần “dùng xá-lợi Phật dựng tháp bảy báu [phụng thờ]”
[279] đều là những tướng thị hiện trong phần tựa này. Ngài Pháp Dao
[280] giải rõ có 7 điềm lành, tại cõi này mở ra 6 [điềm], nơi cõi khác hợp lại 1 [điềm]. Ngài Quang Trạch thì cho rằng cõi này và cõi khác, mỗi nơi đều hiện đủ 6 điềm lành. Sáu điềm lành ở cõi này, tướng động là thuyết pháp độ người, tướng tịnh là nhập định quán lý, động với tịnh là một cặp theo nhau. Từ trên trời mưa xuống 4 loại hoa quý,
[281] dưới đất có 6 loại chấn động, trên với dưới là một cặp theo nhau. Trong tâm đại chúng hoan hỷ, bên ngoài Như Lai phóng hào quang chiếu sáng, trong với ngoài là một cặp theo nhau. Nay cứu xét kinh văn làm có thể tận cùng ý nghĩa như ngài Quang Trạch. Nếu nắm giữ nơi danh tự thì ý nghĩa dễ cứu xét, nhưng hàm ý biểu thị [của điềm lành] thì tự mình hoàn toàn chưa sáng tỏ. [Cho nên] nay sẽ giảng rõ thành 3 cặp theo nhau, gồm trí với định, nhân với quả, cảm với ứng.
Trí là chỉ nơi một [nghĩa] mà nói thành nhiều [nghĩa], định thì xét kỹ nơi ý nghĩa của duyên. Nhân là mưa hoa trời [tán thán] 4 giai vị, quả là cõi đất chấn động 6 nơi. Cảm là sự phát khởi căn cơ Đại thừa, ứng là nơi tướng bạch hào [của Phật] liền phóng quang soi chiếu đến. Sáu điều ấy đều gọi là điềm lành.
Kinh văn nói: “Tướng ngày nay giống điềm lành thuở xưa.”
[282] Điềm lành tức là tướng. Do lòng người phân biệt nên đối với những điềm báo ẩn mật cho là điềm lành, đối với sự hiển lộ khác lạ [nhìn thấy được] cho là tướng. Vậy tướng ấy biểu lộ cho biết những gì? Chân lý nhiệm mầu sâu xa uẩn áo, giảng thuyết ra là điều cực kỳ khó khăn, mà lòng người thì phân tán dao động, không thể khởi tâm tôn kính trân trọng [giáo pháp]. Do vậy, trước tiên hiện tướng khác lạ để khiến cho lòng người kính sợ mà thay đổi. Lòng người đã thay đổi rồi mới có thể sinh tâm kính ngưỡng khao khát [Chánh pháp]. Cho nên dùng nghĩa khác lạ để giải thích hiện tướng, dùng nghĩa biểu lộ cho biết để giải thích điềm lành.
[Tiếp theo] lược nói về 6 điềm lành biểu lộ báo trước mười điều vi diệu, hay thập diệu.
[283] Trong cảm ứng diệu đã nói,
[284] nay lại nói thêm.
1. Điềm lành thuyết pháp là biểu lộ báo trước về thuyết pháp diệu và trí diệu [trong pháp hội này].
2. Điềm lành [Phật] nhập định là biểu lộ báo trước về hành diệu.
3. Điềm lành mưa hoa [trời] là biểu lộ báo trước về vị diệu.
4. Điềm lành cõi đất chấn động là biểu lộ báo trước cảnh giới diệu và thừa diệu.
5. Điềm lành đại chúng hoan hỷ là biểu lộ báo của trước về quyến thuộc diệu và lợi ích diệu.
6. Điềm lành [đức Phật] phóng hào quang là biểu lộ báo trước về cảm ứng diệu và thần thông diệu.
Cho nên 6 loại điềm lành như vậy đều được gọi là tướng biểu hiện của phần tựa này.
[Đức Phật] giảng thuyết kinh Đại thừa, theo kinh Thiện Giới,
[285] [kinh điển Đại thừa] có 7 điều lớn lao nên được gọi là đại.
Thứ nhất là pháp lớn lao, nghĩa là lớn lao nhất trong 12 bộ kinh nên được xưng là phương quảng, [nghĩa là rộng lớn].
[286]
Thứ hai là tâm lượng lớn lao, là nói việc [phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác] cầu quả vị Bồ-đề [rất lớn lao].
Thứ ba là sự giảng giải lớn lao, là nói việc giảng giải rõ [kinh Phương quảng trong] Bồ Tát tạng.
Thứ tư là sự thanh tịnh lớn lao, là nói Bồ Tát phát tâm rồi luôn giữ tâm thanh tịnh [mãi cho đến khi chứng đạo Bồ-đề, cho nên gọi là thanh tịnh lớn lao].
Thứ năm là sự trang nghiêm lớn lao, là nói Bồ Tát có đầy đủ công đức trang nghiêm và trí tuệ trang nghiêm nên gọi là lớn lao.
Thứ sáu là thời gian lớn lao, là nói Bồ Tát vì cầu đạo Bồ-đề mà khó nhọc tu hành trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp, cho nên gọi là thời gian lớn lao].
Thứ bảy là sự đầy đủ lớn lao, là nói Bồ Tát có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp để tự trang nghiêm, chứng quả Bồ-đề, [cho nên gọi là sự đầy đủ lớn lao].
Sáu điều lớn lao kể trước là nhân lớn lao, điều thứ bảy là quả lớn lao. Nhân lớn lao và quả lớn lao hợp thành kinh điển Đại thừa [lớn lao].
Nay đem ý nghĩa của thập diệu để giản lược
[287] nghĩa kinh thì có thể hiểu được. Ngài Đạo Sinh
[288] nói: “Giáo lý về Không và Vô tướng là căn bản của Đại thừa. [Như Lai] giảng nói giáo pháp ba thừa là để chờ đợi, nếu đưa ra ngay giáo pháp Đại thừa thì chúng sinh không thể tin nhận. Cho nên nói vô tướng là tựa của Pháp hoa.” Ngài Tuệ Quán
[289] cũng đồng ý như vậy.
Nhưng nếu như vậy thì lẽ ra các kinh Bát-nhã, Tịnh Danh cũng đều có tựa giống như vậy,
[290] sao chỉ riêng một kinh Vô lượng nghĩa?
Ngài Đạo Sinh giải thích rằng: “Do có 5 thời thuyết giáo, nên sau cùng mới đưa ra giáo nghĩa này.”
[291]
Lại hỏi: “Nếu là như vậy thì kinh Vô lượng nghĩa với các kinh khác đều thông suốt, cùng nhau sinh ra, đâu chỉ giới hạn nơi phần biệt tự này?”
Cơ sư
[292] nói: “Lẽ không vốn không hình tướng cho nên nói là vô lượng.” Ý của lời tựa cũng đồng như trước, chỗ chất vấn lại cũng như vậy.
Ấn sư
[293] nói: “Điều lành không hình tướng có nghĩa thành Phật,
[294] cho nên nói là vô lượng.” Lại cũng nói rằng: “Kinh Vô lượng nghĩa không nói có ba thừa hoặc không có ba thừa, nên có sự khác biệt.”
Đại phẩm [Bát-nhã] không phải tông chỉ của Pháp hoa. Tông chỉ [này khi ấy] chưa truyền đến đất nhà Tần.
[295] Nay xét rằng kinh này là vào đời [Lưu] Tống, niên hiệu Nguyên Gia năm thứ ba (426), Tỳ-kheo Tuệ Biểu gặp ngài Đàm-ma-da-xá ở chùa Triều Đình thuộc quận Nam Hải mà nhận được, mang về núi Võ Đang. Đến [đời Nam Tề], niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ ba (485) mới bắt đầu lưu truyền. Kinh đã đến đây rồi, đâu có lẽ nào mang trở lại Thiên Trúc?
Ngài Quang Trạch nói: “Kinh Vô lượng nghĩa lấy việc hợp nhất muôn điều lành có thể thành tựu Phật đạo. Kinh Pháp hoa giảng rõ nghĩa không có hai thừa, không có ba thừa, phá ba thừa để dạy một thừa [duy nhất là Phật thừa], đó là chỗ khác. Cho nên lấy đây làm phần tự.”
Nếu nói muôn điều lành hợp nhất thì hai [thừa], ba [thừa] sao chẳng hợp nhất? Còn nếu hai [thừa], ba [thừa] đều hợp nhất thì lời tựa với chính văn không khác. Nếu nói nghĩa phá hai [thừa], phá ba [thừa], vậy sao không phá cả muôn [điều lành]? Phá hai [thừa], ba [thừa] thì không còn hai [thừa], ba [thừa], nếu phá cả muôn điều lành ắt không có lời tựa này. Dùng [nghĩa] kinh để chứng minh ý khác biệt lại thành ra không khác. Ý khác biệt đã không rõ thì nghĩa của lời tựa cũng không thành.
Lưu Cầu
[296] chú giải rằng: “Vô tướng là gốc. Một pháp vô tướng bao hàm ý nghĩa không suy lường. Nếu hàm nghĩa không suy lường tức là hữu tướng, sao nói là vô tướng?”
Tìm hiểu qua các bậc thầy thì mỗi vị nghiêng về một cách khác nhau. Nếu nói điều thiện có hình tướng có nghĩa thành Phật thì đó là giải thích theo Tạng giáo. Nếu nói điều thiện không hình tướng có nghĩa thành Phật thì là theo Thông giáo. Nếu nói pháp hàm nghĩa khôn lường thì là nghĩa của Biệt giáo. Hết thảy đều là làm rõ ý các kinh khác, chẳng phải ý của lời tựa Pháp hoa.
Như trong luận Pháp hoa kể ra 17 tên gọi, đều là những tên khác của kinh Pháp hoa. Vô Lượng Nghĩa là một tên khác của Pháp hoa. Nay luận theo ý Phật trực tiếp nói ra tên kinh này, lại nhập định cũng gọi theo tên này, cho nên được xem là phần tự.
Lại như các kinh Đại Phẩm [Bát-nhã], Kim Quang Minh, Niết-bàn, tất cả đều nêu tên trước, đối với phần tựa này không ngăn ngại gì. Nay trong kinh này Ngài Văn-thù dẫn việc các đức Phật xưa kia cũng gọi tên Vô lượng nghĩa, sau đó cũng nói sẽ thuyết kinh Đại thừa Diệu pháp Liên hoa. Đây cũng lại là nêu tên kinh trong lời tựa, phù hợp với ý nghĩa trong luận [Pháp hoa].
Nay căn cứ theo [nội dung] kinh Vô lượng nghĩa để giải thích. [Kinh văn nói:] “Vô lượng nghĩa ấy là từ một pháp sinh ra. Một pháp đó là nói vô tướng. Vô tướng không có tướng nên gọi là thật tướng.” Từ nơi thật tướng đó sinh ra vô lượng pháp, đó là nói hai pháp, tam đạo, tứ quả.
Bây giờ sẽ giải thích đoạn kinh văn này.
Vô tướng là nói không có tướng sống chết. Không tướng là nói không có tướng Niết-bàn. Niết-bàn lại cũng là không, cho nên nói không có tướng vô tướng, chỉ Trung đạo là thật tướng.
Hai pháp tức là đốn và tiệm. Đốn là nói hết thảy các pháp đốn trong Hoa nghiêm, còn tiệm là nói hết thảy các pháp trong ba tạng [giáo điển] gồm các kinh Phương đẳng, Bát-nhã. Tam đạo là nói Tam thừa, [Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát]. Tứ quả là nói A-la-hán, Phật Bích-chi, Bồ Tát và Phật. Hết thảy những pháp ấy gọi là vô lượng.
Thật tướng là nghĩa xứ, từ một nghĩa xứ này tạo ra vô lượng pháp, đem vô lượng pháp nhập vào một nghĩa xứ để làm [nghĩa của] lời tựa này. Ví như người giỏi toán, từ một phép tính phân chia thành nhiều phép tính, lại loại trừ nhiều phép tính [để gộp lại] thành một phép tính. Có phân chia nên có loại trừ [để gộp lại], thành [nghĩa của] lời tựa. Từ một phân thành nhiều, từ nhiều thâu về một, mở ra rồi hợp lại, [ý nghĩa] phần tự này cũng là như vậy.
Nêu lên như vậy để giải thích, không trái với luận giải kinh Vô lượng nghĩa mà cũng phù hợp với kinh này. Đại lược là như vậy.
Lại nữa, bài kệ tán Phật trong kinh Vô lượng nghĩa nêu rõ pháp thân Phật lìa xa hết thảy mọi hình tướng, động tĩnh, sáng tỏ rõ ràng mà ứng hiện ra thân một trượng sáu thước sáng rực màu vàng tía.
Kinh Quán Phổ Hiền
[297] giảng rõ bốn trụ xứ của các ba-la-mật là thường, lạc, ngã, tịnh. Trước sau dẫn hai [bản kinh]
[298] đều nói là thường, đâu có lý nào ở khoảng giữa nói thọ lượng [của Như Lai] lại không phải thường?
Lại có người chất vấn: “Phần tự đã nói lẽ thường, vậy chánh [văn kinh] còn nói gì nữa?”
Nay xin hỏi ngược lại: “Trong kinh Niết-bàn, phẩm Thuần-đà là phần tự. [Phẩm này] đã khai mở lẽ thường, vậy [hãy xét xem] kinh văn còn nói gì?”
[299]
Người kia lại nêu ví dụ, phần tự của kinh Tịnh Danh
[300] nêu rõ [pháp thân] kim cang [thường trụ] vô vi vô số, nhưng trong phần kinh văn không nói lẽ thường. Kinh Pháp hoa này lẽ ra cũng là như vậy.
Nay xin hỏi ngược lại: “Phần tự là phẩm Thuần-đà đã nói lẽ thường, [nếu hiểu như trên thì] phần kinh văn Niết-bàn lẽ ra không nói lẽ thường. Nay lập luận rằng phần tự nói lẽ thường, kinh văn cũng nói lẽ thường thì đâu có gì để nghi ngờ.”
“Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm”
Nói về pháp giáo hóa hàng Bồ Tát, vô lượng các nghĩa xứ đều dùng để giáo hóa các Bồ Tát. Nghĩa xứ tức [thật tướng], là lẽ chân thật rốt ráo. Phần sau có nói: “Khiến cho hết thảy chúng sinh đều đạt được đạo này.” Lại nói: “Nếu ta gặp bất cứ chúng sinh nào, đều giáo hóa cho hết thảy trọn thành Phật đạo.” Đều là cùng một ý nghĩa như vậy.
Nói “Phật sở hộ niệm” nghĩa là vô lượng các nghĩa xứ ấy đức Phật đều đã tự mình chứng đắc, cho nên đều là chỗ Như Lai hộ niệm.
Phần sau lại nói: “Đức Phật tự mình trụ nơi Đại thừa, tuy muốn khai thị nhưng chúng sinh căn tánh trì độn [e rằng không hiểu được], nên Phật suy ngẫm chuyện này rất lâu, chưa vội thuyết giảng.” Do vậy nói là hộ niệm.
“Phật thuyết kinh ấy xong, ngồi kết già nhập Tam-muội Vô lượng nghĩa xứ”
Đức Phật thuyết giảng kinh [Vô lượng nghĩa] rồi, liền nhập Tam-muội Vô lượng nghĩa xứ, tức là trí tuệ và định lực cùng thành tựu. Chẳng phải là thiền không trí tuệ, nên trước phải nhập định. Chẳng phải là trí tuệ không có thiền, cho nên trước phải thuyết pháp. Ngay nơi trí mà định, ngay nơi định mà trí, trước hay sau, nhập hay xuất đều chẳng có gì ngăn ngại cách trở.
Có người khởi tâm nghi ngờ hỏi rằng: “Nếu chưa thuyết giảng kinh Vô lượng nghĩa thì có thể nhập phép định này, còn đã thuyết giảng kinh này rồi thì tại sao lại nhập định?
Giải thích rằng: “Như [đức Phật] trước tiên nhập vào định này, sau đó mới thuyết giảng kinh là điều có thể hiểu được. Nhưng thuyết giảng kinh này rồi lại nhập định, chính là vì để tạo thành phần tự cho kinh Pháp hoa. Vì sao vậy? Nếu trước không khai mở thì về sau ắt không có hợp lại. Trước tiên nhập pháp định khai mở vì [để có] pháp định hợp lại về sau mà thành phần tự. Gọi là điềm lành tức là ở nghĩa này. Nếu theo thứ tự thì trước nhập tam-muội Vô lượng nghĩa xong rồi, lẽ ra nên nhập tam-muội Pháp hoa. Nếu kinh văn nêu ra sáng tỏ rõ ràng thì đại chúng đều biết, đâu cần đợi đến khi Bồ Tát Di-lặc ân cần thưa hỏi, ngài Văn-thù thận trọng trình bày. Cho nên biết rằng có phần tự này là để ý nghĩa trở nên sáng tỏ hơn.
“Thân tâm chẳng động”
Thân tâm chẳng động, là nói việc tương ưng với chỗ duyên theo. Cội nguồn của thân vốn rỗng rang như hư không. Tánh lý của tâm rốt ráo thường vắng lặng. Thân thể và tay chân của [đức Phật] Đại Thông Trí Thắng thường tịch tĩnh an nhiên bất động, tâm ngài cũng điềm nhiên vắng lặng, không hề có sự tán loạn. Thân [kiên định] như kim cương, không thể lay động. Tâm như hư không thì không có sự phân biệt. Nhờ pháp tam-muội Vô lượng nghĩa xứ hộ trì thân tâm cho nên bất động.
Gọi là vô lượng, vì pháp định này vắng lặng thường soi chiếu, có thể rõ biết thế gian. Từ một pháp này lưu xuất vô lượng pháp. Nếu nói theo nghĩa của phần tự thì thể pháp của thân là vận động, nay làm cho không vận động, thể pháp của tâm là phân biệt, nay làm cho không phân biệt. Như vậy thì ý nghĩa của phần tự đã sáng tỏ.
Hỏi: Điềm lành theo lẽ thì phải là những điều khác thường, nhưng việc thuyết pháp, nhập định là những việc thông thường của Phật, sao lại được xem là điềm lành?
Đáp: Khi thuyết pháp đã xong mà đại chúng không giải tán, tất nhiên có chỗ chờ đợi, cho nên biết rằng phần thuyết pháp trước là để đại chúng vân tập, chờ nghe phần [thuyết pháp] sau. Điều này đặc biệt kỳ lạ, khác với những lần thuyết pháp thông thường, sao có thể nói là chẳng phải điềm lành? Tuy nhập định khai mở mà hàm ý ở nơi định hợp lại, so với những lần nhập định thông thường có khác, sao có thể nói không phải điềm lành?
Lại nữa, ngài Văn-thù dẫn việc các đức Phật xưa kia hiện sáu điềm lành đều có những việc này. Nếu xưa kia chẳng phải điềm lành thì biết lấy gì chứng nghiệm chuyện ngày nay? Chuyện xưa chuyện nay đều giống nhau, có thể dùng sự nhận hiểu của phàm phu mà cho là chẳng phải điềm lành được sao?
KINH VĂN
Lúc bấy giờ trời mưa xuống các loại hoa mạn-đà-la, ma-ha mạn-đà-la, mạn-thù-sa, ma-ha mạn-thù-sa; hoa rơi trên thân Phật và khắp thảy đại chúng.
Trời mưa xuống bốn loại hoa, rơi trên thân Phật và khắp thảy đại chúng
Trời mưa xuống bốn loại hoa, các nhà cựu giải nói hoa màu trắng có hai loại lớn, nhỏ và hoa màu đỏ cũng có hai loại lớn, nhỏ. Theo kinh Chánh Pháp hoa thì đó là bốn loại: ý hoa, đại ý hoa, phổ hưởng hoa và đại phổ hưởng hoa.
Thích luận, quyển 99, nói rằng: “Hoa trời mầu nhiệm, tên là mạn-đà-la.” Lại ở quyển 79 nói rằng: “800 vị tỳ-kheo thành Phật, cõi nước [của các vị ấy] thường có mưa hoa mạn-đà-la năm màu.”
Các nhà cựu giải nói rằng: “Trời mưa xuống hoa màu trắng hai loại lớn, nhỏ là biểu thị cho hai chúng tại gia [nam, nữ], hoa màu đỏ hai loại lớn, nhỏ là biểu thị cho hai chúng xuất gia [tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni]. Nói biểu thị như vậy thì từ xưa nay chỉ có nhân mà chưa thấy quả. Nay cho rằng giải thích như vậy thì ý nghĩa hẹp mà không thích hợp.
Nay luận về ý nghĩa của bốn chúng, xét trong Tam tạng kinh luận nói có 16 chúng thì như vậy cũng đã chưa nói hết, huống chi [trong ba thừa thì phải] đến 48 chúng. Cho nên gọi [bốn chúng] là hẹp.
Thông thường hiện tướng [mưa] hoa là ngấm ngầm báo cho biết về nhân [đã tạo]. Bốn chúng từ xưa đến nay vốn đã là nhân, đâu cần đợi mưa hoa báo hiệu. Còn nếu là báo cho biết về quả thì lẽ ra trời mưa xuống quả hạt, sao lại là mưa hoa? Cho nên nói là không thích hợp.
Nay nói mưa hoa là làm rõ nhân thuở xưa [của đại chúng], không phải nhân thành Phật. [Nhân của đại chúng ấy,] trong Tạng giáo là nhân Nhị thừa, trong Thông giáo là nhân chung cùng,
[301] trong Biệt giáo là nhân Bồ Tát. Tất cả [các nhân đó] đều chẳng phải nhân thành Phật. Nay trời mưa hoa, đó là điềm báo [hết thảy đại chúng] rồi sẽ được nhân thành Phật. Nhân thành Phật tức là bốn nhân [biểu thị bằng] bốn bánh xe.
Hoa màu trắng nhỏ tượng trưng cho bánh xe đồng, tức là tập chủng tánh,
[302] biểu thị [Thập trụ], khai mở tri kiến Phật.
Hoa màu trắng lớn tượng trưng cho bánh xe bạc, tức là tánh chủng tánh,
[303] biểu thị Thập hạnh, chỉ bày hiển lộ tri kiến Phật.
Hoa màu đỏ nhỏ tượng trưng cho bánh xe vàng,
[304] tức là đạo chủng tánh, biểu thị Thập hồi hướng, ngộ tri kiến Phật.
Hoa màu đỏ lớn tượng trưng cho bánh xe lưu ly, tức là thánh chủng tánh, biểu thị Thập địa, nhập vào tri kiến Phật.
Bốn bánh xe đều là nhân. Nhân đều do bên trong sinh ra, cho nên [hoa] từ trời mưa xuống. Do [khác biệt] về giai vị của nhân, nên dùng hoa [khác nhau] để biểu thị. Nhân có khuynh hướng tạo thành quả, cho nên rải hoa “rơi trên thân Phật”. Nhân quả như thế, ai là người có thể cảm nhận sâu sắc được? Chỉ là đại chúng trong hội này, cho nên nói là cùng “khắp thảy đại chúng”.
Ở phần sau, ngài Văn-thù giải thích chỗ nghi [cho đại chúng] có nêu ra bốn câu “mưa cơn mưa pháp lớn, thổi tù và pháp lớn, đánh trống pháp lớn, giảng giải nghĩa pháp lớn”.
[305] Hơn nữa, trong kinh văn lại nói các nghĩa khai, thị, ngộ, nhập [tri kiến Phật], cùng đưa ra ví dụ dùng xe lớn dạo chơi bốn phương, mỗi mỗi đều tiếp nối ý nghĩa nói về giai vị. Cho nên biết rằng các loại hoa tượng trưng cho giai vị [khác nhau] của nhân.
● Hỏi: Bốn bánh xe là ý nghĩa giai vị của Biệt giáo, đâu thể dùng để giải thích giai vị của Viên giáo?
● Đáp: Danh xưng theo Thông giáo nhưng ý nghĩa theo Viên giáo còn chẳng sai, huống chi danh xưng theo Biệt giáo mà giải nghĩa theo Viên giáo thì có gì là không được?
● Hỏi: Hiền thánh theo nghĩa Biệt giáo cũng có trong Viên giáo sao?
● Đáp: [Điều này đã có] trong [Pháp hoa] huyền nghĩa.
[306] Nếu nói bốn loại hoa đều từ trời rơi xuống, đó là biểu thị cho bốn chúng sẽ cùng thành một nhân. Giải thích như vậy là rõ nghĩa của Tạng giáo, chưa rõ được nghĩa của Thông giáo. Nếu nói bốn chúng đều cùng là nhân Bồ Tát thì sự giải thích này làm rõ được ý nghĩa của Thông giáo nhưng chưa làm rõ được nghĩa của Biệt giáo. [Những cách giải thích như vậy] đều chẳng phải nhân thành Phật, cũng chẳng phải ý nghĩa của Pháp hoa. Ý nghĩa của Pháp hoa như trước đã nói là “cõi đất chấn động sáu cách trong khắp thế giới Phật”.
[307]
KINH VĂN
Cõi đất chấn động khắp thế giới Phật. Bấy giờ trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân, cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương. Đại chúng gặp việc chưa từng có, hoan hỉ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật.
“Cõi đất chấn động khắp thế giới Phật”
Các nhà cựu giải nói rằng: “Đây là nói chấn động nhân quả của người trong ba thừa, quyết định là sáu sự bám chấp.”
[308] Như vậy là phá trừ sáu sự bám chấp của ba thừa theo Tạng giáo, nhưng chưa phá trừ được sáu sự bám chấp của ba thừa theo Thông giáo. Thông giáo cho rằng xét về pháp thì nhân quả của người trong ba thừa đều đồng như nhau, nhưng xét về người thì nhân quả của người trong ba thừa có sai khác. Sự giống và khác như thế [lẽ ra] đều phải phá trừ tất cả. Nhưng theo các nhà cựu giải thì ý nghĩa phá trừ không phá được như vậy.
Biệt giáo không có danh xưng ba thừa, tất nhiên không có 6 sự bám chấp. Đó là chỗ các nhà cựu giải không phá trừ. Nay nói rõ theo Biệt giáo, lúc tạo nhân có 3 pháp, lại chia ra đồng thời và khác thời.
[309] Lúc kết thành quả cũng có 3 pháp, chia ra đồng thời và khác thời như vậy. Những điều như vậy đều nên phá trừ.
Nay giải thích 6 cách chuyển động của cõi đất là biểu trưng cho 6 lượt phá trừ vô minh của Viên giáo. Vô minh như khối đá kiên cố to lớn, chưa từng bị tấn công phá hủy, nay sắp bị phá trừ hủy hoại nên dùng sự chấn động cõi đất để biểu trưng. Vô minh nếu chuyển hóa được sẽ thành sáng suốt, cho nên khắp thế giới Phật cõi đất chấn động theo 6 cách. Sáu cách chấn động biểu trưng cho [6 tầng bậc giai vị tuần tự là Thập] trụ, [Thập] hạnh, [Thập] hồi hướng, [Thập] địa, Đẳng [giác] và Diệu [giác].
Kinh Ưu-bà-tắc thanh tịnh hạnh
[310] nói rằng: “Lúc Bồ Tát sinh ra, cõi đất chấn động để biểu thị rằng lần sinh này là chấm dứt, không còn trở lại nhận chịu phiền não nữa. [Khi Phật ra đời], hết thảy chúng sinh rồi sẽ được đạo, phiền não sẽ bị diệt trừ cho nên chấn động.” Chính là ý nghĩa này.
Giải thích theo bản tích thì như ngài Văn-thù dẫn việc chư Phật thuở xưa để giải đáp chỗ nghi [của đại chúng], nếu ngầm hiểu được ý nghĩa này tức là nhận hiểu được bản. Không chỉ riêng chư Phật thuở xưa từng hiện những điềm lành này, mà đức Thế Tôn của chúng ta trước đây cũng đã từng hiện điềm lành như vậy, ngày nay cũng chẳng phải là lần thứ nhất quay lại [thế gian]. Đại lược là như vậy.
Giải thích theo quán hạnh thì đó là chấn động 6 căn. Tướng của cõi đất là kiên cố, ví như mức độ bám chấp nơi 6 căn, chưa từng thể nhập đạo Đại thừa. Nay có sự chấn động cõi đất khó chấn động là biểu trưng cho việc làm thanh tịnh các căn chưa thanh tịnh.
[Trong 6 cách chấn động của cõi đất, trước hết nói] phía đông trồi lên phía tây sụt xuống. Phương đông là màu xanh, chủ về gan,
[311] gan tác động về con mắt, phương tây là màu trắng, chủ về phổi, phổi tác động về lỗ mũi. Đây là biểu hiện khi công đức của nhãn căn sinh ra thì phiền não của tị căn sẽ theo đó diệt mất. [Tương tự, phía tây trồi lên phía đông sụt xuống là biểu thị] khi công đức của tị căn sinh ra thì phiền não của nhãn căn hỗ tương theo đó diệt mất. Các phương khác [mặt đất] trồi lên sụt xuống là biểu hiện cho sự sinh diệt [của công đức và phiền não] của các căn, cũng đều giống như vậy.
Sáu cách chấn động là động (chuyển động), khởi (khởi lên), dũng (vọt lên), chấn (chấn động), hống (phát tiếng kêu lớn), giác (khiến cho giác ngộ).
[312] Trong mỗi cách chấn động này lại xảy ra theo ba cách khác nhau là động (chấn động), biến động (chấn động thay đổi) và đẳng biến động (chấn động thay đổi cùng khắp). Chấn động trực tiếp tại chỗ gọi là động. Chấn động lan khắp bốn thiên hạ gọi biến động. Chấn động khắp cả thế giới đại thiên gọi là đẳng biến động. Đối với năm cách còn lại như [khởi, dũng, chấn, hống, giác] cũng đều như vậy. Cộng tất cả là 18 loại chấn động. Đây là biểu thị cho việc làm thanh tịnh 18 giới. Đại lược là như vậy.
“Đại chúng ấy gặp việc chưa từng có, hoan hỉ chắp tay”
Tiếp đến giải thích về điềm lành “trong lòng đại chúng hoan hỷ”. Đại chúng thấy trời mưa hoa, cõi đất chấn động, biết rằng nước pháp cam lộ sắp được rưới xuống nên trong lòng hân hoan tràn ngập vui mừng. Điều này biểu thị một khi căn cơ lớn lao phát khởi sẽ cảm được sự ứng hiện thù thắng.
● Hỏi: Chuyện vui buồn ghét giận là những tình cảm thông thường, sao có thể xem là điềm lành?
● Đáp: Hoa trời mưa xuống làm vui mắt, cõi đất chấn động nên tâm rung động. Kinh Đại Bát Niết-bàn
[313] nói rằng: “Lúc [cõi đất] chấn động có thể làm cho tâm chúng sinh động.” Hoa [trời rơi], đất [chấn động], là những điềm lành bên ngoài. Tâm hoan hỷ là điềm lành bên trong, đây không phải niềm vui thông thường. [Đại chúng] trước đây tuy cũng từng hoan hỷ vui mừng, nhưng không có việc động tâm vui mừng mà vẫn có thể một lòng chiêm ngưỡng Phật. Như vậy sao có thể nói không phải là điềm lành?
Nếu nói sự hoan hỷ này làm động tâm năm ấm thì đó là ý nghĩa trong hai cõi trời người. Nếu nói hoan hỷ làm động tâm vô lậu chân đế thì đó là ý nghĩa theo Tạng giáo và Thông giáo. Nếu [hiểu] sự hoan hỷ rung động ấy tức là tâm giả tạm thì đó là ý nghĩa theo Biệt giáo. Nếu [hiểu] sự hoan hỷ ấy rung động tâm thật tướng thì đó là ý nghĩa thuộc về Viên giáo.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật phóng hào quang từ nơi tướng bạch hào giữa hai chân mày, soi chiếu 18.000 thế giới ở phương đông, không một nơi nào không soi thấu, phía dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ, phía trên chiếu đến cõi trời A-ca-ni-trá.
“Lúc bấy giờ, đức Phật phóng hào quang từ nơi tướng bạch hào giữa hai chân mày”
Tiếp theo giảng rõ điềm lành đức Phật phóng hào quang. Đây là biểu thị việc [Phật] tùy theo căn cơ thích hợp mà thiết lập giáo pháp, phá trừ nghi hoặc. Tướng bạch hào (lông trắng) [giữa hai chân mày của Phật] là đầy đủ mọi công đức. Kinh Quán Phật Hải Tam-muội
[314] nói rằng: “Lúc Phật vừa sinh ra, lông trắng ấy kéo ra dài 5 thước.
[315] Khi Phật tu khổ hạnh, [lông trắng ấy kéo ra] dài 14 thước.
[316] Khi thành Phật thì [lông trắng ấy kéo ra] dài 15 thước. Lông ấy trong ngoài đều trong suốt rỗng không như ống ngọc lưu ly trắng thanh tịnh. Từ lúc [Bồ Tát] mới phát tâm cho đến khoảng thời gian tu hành mọi công hạnh, thị hiện đủ mọi tướng mạo, cho đến khi nhập Niết-bàn, tất cả mọi công đức đều hiện ra trong tướng lông trắng này. Lông trắng này nằm giữa hai chân mày. Điều này biểu thị Trung đạo, là [chân] thường. Lông này mềm mại biểu thị [chân] lạc. [Lông ấy rất dài nhưng] duỗi ra cuộn vào dễ dàng không trở ngại là biểu thị [chân] ngã. Lông có màu trắng trong sạch biểu thị [chân] tịnh.
[Đức Phật] phóng hào quang phá tan tăm tối biểu thị Trung đạo sinh trí tuệ. Hào quang chiếu sáng cõi này, cõi khác, biểu thị sự tự giác, giác tha.
Lại nữa, Nhị thừa tuy đạt được Không đế và Giả đế
[317] nhưng chưa rõ được Trung đạo, cũng giống như có hai chân mày nhưng không có tướng bạch hào [ở giữa]. Biệt giáo tuy rõ biết Tam đế [giống như có tướng bạch hào] nhưng không thể trong lông trắng ấy có đủ hết thảy các pháp. Nên biết rằng, từ [ban sơ phát tâm] đến cuối cùng [nhập Niết-bàn], hết thảy sự việc trong pháp giới đều hiển hiện đầy đủ trong tướng bạch hào [của Phật]. Đó là biểu thị ý nghĩa theo Viên giáo.
Ngoài ra, các kinh nói về sự phóng hào quang [của Phật] không giống nhau. Theo kinh Đại phẩm [Bát-nhã] thì từ tướng hình bánh xe có ngàn nan hoa dưới bàn chân Phật lên đến nhục kế trên đỉnh đầu, mỗi một nơi đều phóng ra 60.000 ức tia hào quang, như kinh ấy có nói rộng ra. Kinh Đại Bát Niết-bàn thì nói [đức Phật] phóng quang từ nơi miệng.
[318] Kinh [Pháp hoa] này nói [Phật] phóng hào quang từ tướng bạch hào [giữa hai chân mày]. Nhân duyên thích hợp [của mỗi kinh] đều khác nhau.
Lại nữa, khi hào quang thâu lại cũng chẳng giống nhau. Kinh A-dục Vương
[319] nói: “[Hào quang] thâu lại nhập vào sau lưng [Phật] là muốn ghi việc quá khứ, [hào quang] thâu lại nhập vào phía trước [ngực] là muốn ghi việc vị lai.” Không thấy nói ghi việc hiện tại. Ý riêng tôi cho rằng việc [hào quang] thâu vào hai bên hông [có ý nghĩa] ghi việc hiện tại.
[Hào quang] thâu vào bàn chân là ghi việc địa ngục, thâu vào gót chân là ghi việc súc sinh, thâu vào ngón chân là ghi việc cõi quỷ, thâu vào đầu gối là ghi việc loài người, thâu vào lòng bàn tay trái là ghi việc của Thiết luân vương, thâu vào lòng bàn tay phải là ghi việc của Kim luân vương cùng việc của chư thiên, thâu vào giữa rốn là ghi việc của hàng Thanh văn, thâu vào miệng là ghi việc của hàng Duyên giác, thâu vào nơi tướng bạch hào là ghi việc của hàng Bồ Tát và thâu vào nơi nhục kế [trên đỉnh đầu] là ghi việc của Phật. Nay trong kinh [Pháp hoa] này nói việc phóng hào quang màu trắng nhưng không thấy kinh văn nói việc thâu lại hào quang, là do có sự lược bớt.
Lại cũng giải thích rằng: Phóng hào quang chiếu soi là [biểu thị việc trong] hiện tại, thâu hào quang lại là biểu thị việc của tương lai. Kinh này chủ yếu luận về việc ở cõi này hay cõi kia thì đạo của chư Phật cũng đều như nhau, cho nên nói chủ yếu về việc phóng hào quang. Nếu giảng rõ việc đạo của chư Phật đều giống nhau, [thì chỗ giống nhau đó] tức là khai, thị, ngộ, nhập [tri kiến Phật], tự nhiên đạt được. Nay đã nói việc phóng hào quang là chính thì việc thâu hào quang trở vào là phụ. Do vậy nên [kinh văn] lược bớt không nói hết.
Nếu hiểu rằng thân Phật cao một trượng sáu thước đang phóng quang, đó là theo ý nghĩa của Tạng giáo. Nếu hiểu rằng thân Phật cao một trượng sáu thước cũng là đức Phật Thế Tôn tôn quý nhất đang phóng quang, đó là theo ý nghĩa của Thông giáo. Nếu thấy chỉ có Phật Thế Tôn tôn quý nhất đang phóng quang, đó là ý nghĩa theo Biệt giáo. Nếu thấy thân Phật cao một trượng sáu thước đó cũng tức là pháp thân Tỳ-lô-giá-na đang phóng quang, đó là ý nghĩa theo Viên giáo.
Các nhà cựu giải cho rằng sáu điềm lành ở cõi này mở rộng đến tận cõi trời Hữu đỉnh.
[320] Nay xem trong kinh văn [từ chỗ] nói [hào quang] “soi chiếu 18.000 thế giới ở phương đông” trở đi là nói về điềm lành ở các cõi khác. Cho nên thêm bớt thay đổi [cách hiểu] đều là do con người. Các nhà cựu giải nói rằng, thật ra là [hào quang] chiếu khắp mười phương. Soi chiếu về phương đông là biểu thị nhân quả Nhất thừa vượt hơn hết so với các loại nhân quả khác. 10.000 là số tròn, biểu thị quả vị viên mãn, 8.000 là số khuyết, biểu thị nhân quả chưa trọn đủ. Nếu [hào quang] soi chiếu về phương đông đã có ý nghĩa đầy đủ rồi, thì soi chiếu chín phương khác đâu còn biểu thị được gì nữa?
Nay nêu rõ rằng, phương đông là [ý nghĩa] khởi đầu, biểu thị Thập trụ là các giai vị đầu tiên. Thuyết pháp theo Tích môn là Bồ Tát mang thân xác thịt,
[321] thấy được lý đạo sáng tỏ rõ ràng, thể nhập các giai vị Thập trụ, khai mở tri kiến Phật. Chỉ nêu chỗ ban đầu như vậy tức là rõ biết được khoảng giữa và [các giai vị] về sau. [Kinh văn] nói “không một nơi nào không soi thấu” cho nên biết rằng các phương khác cũng đều như vậy, các giai vị khác cũng đều như vậy.
Nếu thuyết pháp theo Bản môn thì chư Phật bốn phương vân tập là biểu thị pháp thân Bồ Tát tăng trưởng trí tuệ Trung đạo, suy giảm dần biến dịch sinh tử,
[322] bốn giai vị
[323] đều tăng trưởng.
Giải thích theo quán tâm thì 18.000 là ước định về 18 giới.
[324] Nói rộng ra 100 pháp giới có 1.000 tánh tướng, [nhân với 18 giới] tức thành ra 18.000. Những cảnh giới này còn chưa khai mở trí tuệ Phật, nay sắp khai mở, cho nên dùng con số này để biểu thị.
Kinh văn nói “phía dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ, phía trên chiếu đến cõi trời A-ca-ni-trá”, tức là nói 6 pháp giới [phàm phu]. Lại [nói] thấy được chư Phật, Bồ Tát, các vị tỳ-kheo v.v. đó là nói đầy đủ mười pháp giới. Cho nên kinh văn nói là “không một nơi nào không soi thấu”, tức là ý nghĩa này.
Nếu phân kinh văn nói về cõi này thì [điềm lành phóng quang] là tướng thứ sáu, nếu nói về những cõi khác thì [điềm lành phóng quang] này là tướng tổng quát soi chiếu các cõi.
Tiếp đến làm rõ sáu điềm lành trong việc [phóng hào quang] soi chiếu các cõi khác. [Điềm lành] thứ nhất là thấy [hết thảy chúng sinh trong] sáu đường, thứ hai là thấy chư Phật, tức là nói trên thánh dưới phàm hợp thành một cặp. [Điềm lành] thứ ba là nghe Phật thuyết pháp, thứ tư là bốn chúng đạt đạo, tức là nói người và pháp hợp thành một cặp. [Điềm lành] thứ năm là thấy Bồ Tát tu hành công hạnh, thứ sáu là thấy Phật nhập Niết-bàn, tức là nói chỗ khởi đầu và kết thúc hợp thành một cặp.
Nếu có chúng sinh có thể giáo hóa, liền có Phật có khả năng giáo hóa. Có Phật là có thuyết pháp, có thuyết pháp tức là có đệ tử. Có đệ tử tức là có tu hành công hạnh ban đầu. Có tu công hạnh ban đầu tức là có đạt đến kết quả cuối cùng.
Nếu như sáu điềm lành ở cõi này là điềm báo chung tất cả chúng sinh sẽ được tự giác, thì sáu điềm lành ở cõi kia là điềm báo chung tất cả chúng sinh sẽ được giác tha. Lại nữa, sáu điềm lành ở cõi này và cõi kia là biểu thị đạo của Phật ở bất cứ nơi đâu cũng đều như nhau.
KINH VĂN
Từ nơi thế giới này thấy hết thảy sáu đường chúng sinh các cõi kia,[325] lại thấy chư Phật hiện tại ở các cõi ấy cùng nghe được những kinh điển giáo pháp mà chư Phật ấy thuyết giảng, cùng thấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những vị tu hành đạt đạo. Lại thấy các vị Đại Bồ Tát, đủ mọi nhân duyên, đủ mọi tín giải, đủ mọi tướng mạo, thực hành đạo Bồ Tát. Lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn; lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn, đại chúng thu xá-lợi Phật, dựng tháp thờ bằng bảy món báu.
Từ câu “từ nơi thế giới này thấy hết thảy sáu đường chúng sinh cõi kia” cho đến “thực hành đạo Bồ Tát”
[326] là thị hiện cõi kia vốn cũng đồng như cõi này.
Từ câu “lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn” cho đến “dựng tháp bằng bảy báu”
[327] là thị hiện cõi này rồi sẽ đồng như cõi kia.
Phần nói giản lược đến đây là hết. Lại nói rộng ra thì từ chỗ “thấy hết thảy sáu đường chúng sanh” là thị hiện đức Phật ở cõi kia vì thế gian có 5 sự uế trược cho nên mới xuất hiện ở đời. Đức Phật ở cõi này cũng giống như vậy. Ý nghĩa [Phật] ra đời ở hai cõi đều giống nhau.
“Cùng nghe được những kinh điển giáo pháp mà chư Phật ấy thuyết giảng” là thị hiện đức Phật ở cõi kia ban sơ [thuyết giảng] từ một pháp vô tướng, không phải đốn mà đốn, so với ở cõi này [đức Phật] ban đầu thuyết kinh Hoa nghiêm, ý nghĩa giống nhau.
Từ câu “cùng thấy các vị tỳ-kheo...” ở cõi kia là thị hiện đức Phật cõi kia [thuyết pháp] không phải tiệm mà tiệm, so với đức Phật ở cõi này tiếp theo giảng thuyết Tam tạng giáo điển, ý nghĩa giống nhau.
Từ câu “lại thấy các vị Đại Bồ Tát” trở đi là thị hiện đức Phật ở cõi kia sau khi thuyết Tam tạng giáo điển rồi lại thuyết các kinh Phương đẳng, Bát-nhã, so với đức Phật cõi này thuyết các kinh sau Tam tạng giáo điển thì ý nghĩa giống nhau.
Từ câu “lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn” cho đến “dựng tháp thờ bằng bảy món báu” là thị hiện đức Phật ở cõi kia sau khi thuyết kinh Bát-nhã liền khai trừ pháp quyền biến, hiển lộ pháp chân thật, thâu vô lượng pháp nhập vào một pháp, báo trước việc nhập Niết-bàn, hoàn tất việc giáo hóa, [đại chúng] dựng tháp. Hào quang chiếu đến cõi kia [khiến cho mọi việc] từ trước đến sau, rốt ráo đều hiện ra rõ ràng trước mắt [đại chúng], cho nên biết rằng ở cõi này [đức Phật cũng] từ một pháp sinh ra vô lượng pháp, không phải đốn mà đốn, không phải tiệm mà tiệm. Những việc như vậy đã hoàn tất, tất nhiên [đức Phật cũng sẽ] thâu vô lượng pháp nhập vào một pháp, trừ bỏ quyền biến, hiển lộ chân thật, dừng việc giáo hóa, quay về nguồn chân, so với [đức Phật] cõi kia cũng đồng như nhau.
[Kinh văn nói] “đủ mọi nhân duyên”, đó là nói [đức Phật] thuở xưa tích lũy việc lành là nhân, ngày nay giáo hóa [chúng sanh] là duyên. Nếu nói chi tiết hơn thì đó chính là sau khi thuyết giảng Tam tạng giáo điển, đức Phật giảng rõ [ý nghĩa] “cộng” và “bất cộng”
[328] trong Bát-nhã là nhân, các pháp trợ đạo, giới, định, tuệ là duyên. Lại ước định người trong ba thừa tức là có đủ mọi nhân duyên. Các hạng người “cộng” và “bất cộng” cũng có đủ mọi nhân duyên.
Kinh nói “đủ mọi tướng mạo”, đó là nói mỗi hạng người “cộng” hay “bất cộng” đều có [phân ra theo] bốn pháp môn [Tạng, Thông, Biệt, Viên], mỗi một pháp môn lại có vô số tướng mạo. Năm trăm vị tỳ-kheo, mỗi vị đều nói ra bản nhân của chính mình, tức là ý nghĩa này. Hạng “bất cộng” trong bốn pháp môn lại cũng như vậy. Cho nên biết rằng có vô số các loại tướng mạo nhân duyên sai biệt. Đây là điều mà ở cõi kia với cõi này đều giống như nhau. Ở cõi kia thị hiện rõ tướng nhân duyên tướng mạo như thế rồi lại thể nhập một nhân, một duyên, một tướng, một mạo. Nên biết rằng ở cõi này cũng đồng như cõi kia.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc nghĩ rằng: “Nay đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, do nhân duyên gì mà có điềm lành này? Nay đức Thế Tôn đã nhập tam-muội, việc biến hiện hy hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai? Ai có thể giải đáp?” Rồi lại nghĩ rằng: “Ngài Văn-thù-sư-lợi là con đấng Pháp vương, đã từng thân cận cúng dường vô số chư Phật trong quá khứ, chắc hẳn đã từng được thấy tướng ít có này, nay ta nên thưa hỏi.” Lúc ấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng với chư thiên, loài rồng, quỷ thần... cũng đều nghĩ rằng: “Tướng thần thông hào quang chiếu sáng của đức Phật, nay biết thưa hỏi ai?”
Từ câu “Lúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc nghĩ rằng” cho đến “nay nên hỏi ai” là phần mở đầu niệm nghi.
Kinh văn phần này có hai ý. Một là niệm nghi của Bồ Tát Di-lặc, hai là niệm nghi của đại chúng.
Niệm nghi của ngài Di-lặc lại có ba ý. Một là nghĩ đến sáu điềm lành, hai là nghĩ đến việc nên hỏi ai, ba là nghĩ đến ngài Văn-thù. Khi khởi lên ý niệm nghĩ đến ngài Văn-thù thì niệm thứ hai mất đi, chỉ còn niệm thứ nhất [về sáu điềm lành], hợp thành một niệm nghi.
[Ngài Di-lặc nghĩ: “Nay đức Thế Tôn hiện tướng] thần biến.” Thần là bên trong, biến là bên ngoài. Thần gọi là “lòng trời”, tức là trí tuệ tự nhiên bên trong. Biến gọi là biến động, tức là sáu điềm lành hiện rõ bên ngoài.
Kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Đức Phật trụ nơi pháp không phân biệt, có thể hiện thần thông.” Đấng Pháp vương pháp lực siêu việt che trùm hết thảy. Ngài Di-lặc không lường được sự biến đổi bên ngoài, cũng không rõ biết được trí tuệ bên trong, cho nên khởi niệm như vậy. Nói chung, kẻ tầm thường không thể rõ biết người có phương thuật, kẻ tán loạn không thể rõ biết người có định tâm, người phàm không thể rõ biết các bậc thánh, hàng tiểu thánh không thể rõ biết [bậc Đại Thanh văn như ngài] Xá-lợi-phất, ngài Xá-lợi-phất không thể rõ biết hàng Bồ Tát, hàng Bồ Tát không thể rõ biết bậc [Nhất sinh bổ xứ], bậc Nhất sinh bổ xứ không thể rõ biết Đấng Tôn quý tối cực. [Sự thị hiện này của đức Thế Tôn] cũng là chỗ tối cực nên ngài Di-lặc không thể rõ biết.
Lại nói rằng, ngài Di-lặc [đã từng] ở nơi các đức Phật trồng nhiều căn lành, lẽ nào [đối với việc này] không mơ hồ biết được phần nào hay sao? [Nên biết,] đây là [vì sự giáo hóa chúng sinh nên cần] che khuất chỗ rõ biết, thị hiện như không biết, dùng phương tiện quyền biến mà nói là không biết.
Về đại chúng thì [ở đây nói] khởi lên 2 ý niệm. Một là ý niệm chính về 6 điềm lành và thứ hai là ý niệm chưa biết hỏi ai [về việc này]. Nếu theo [nội dung] phần kệ bên dưới để hiểu chỗ này thì thấy có 3 ý niệm. Trong lời kệ, [ngài Di-lặc] nói: “Bốn chúng đều ngưỡng vọng, mong đợi ngài và tôi.”
[329] Nếu không có ý niệm thứ ba [là nghĩ đến ngài Văn-thù] thì làm sao có sự ngưỡng vọng, nhìn ngài Văn-thù mong đợi? [Kinh văn] chỗ này không nói đủ, đó là muốn [người đọc tự] suy ra nghĩa vị [Bồ Tát] Bổ xứ có cương vị cao hơn [đại chúng].
Theo các nhà cựu giải thì [vị Bổ xứ] cương vị cao hơn [đại chúng] có ba ý. Thứ nhất là [Nhất sinh] Bổ xứ, [chỉ còn một đời nữa thành Phật], thứ hai là có đủ ba ý niệm [nghi], thứ ba là có thể nêu câu hỏi. Do ý nghĩa này nên [phần nói về] đại chúng thiếu đi một niệm [nghi].
● Hỏi: Hai vị Văn-thù, Di-lặc về đức độ và giai vị đều như nhau, đều chỉ kém Phật, vì sao lại có kẻ hỏi người đáp?
● Đáp: Nói chung, cơ duyên tuy có nhưng vốn ở nơi không, giai vị tuy đồng như nhau nhưng vai trò chủ khách phải thích nghi khác nhau. [Thứ nhất là vì] bậc Thánh [giáo hóa] tùy cơ duyên, nhưng không có người thưa hỏi thì không thể đáp. [Thứ hai là vì] pháp môn có quyền có thật. Vị Bồ Tát Bổ xứ quyền thừa nên thưa hỏi, vị Bồ Tát Bổ xứ chân thật nên giải đáp. [Thứ ba là vì tuy cùng tu tập] từ thuở xưa nhưng có lâu xa, có gần đây hơn. [Vị Bồ Tát tu tập] gần đây hơn nên thưa hỏi, [vị Bồ Tát tu tập] rất lâu xa nên giải đáp. [Thứ tư là dựa theo] danh xưng để có sự thuận tiện, dễ dàng [nhận hiểu. Danh xưng] Di-lặc có nghĩa là “từ”, từ tâm [thương xót] vì chúng sinh nên thưa hỏi. [Danh xưng] Văn-thù có nghĩa là “diệu đức”, đức độ cao quý nên giải đáp. Đó là bốn cách giải thích để hiểu rõ ý nghĩa kinh văn.
[330]
_____________________________________________
CHÚ THÍCH
[1] Ngưu Si (牛呞), tức là con trâu nhai lại. Chữ si (呞) ngày nay ít gặp, từ điển Quảng vận giải thích: “吐而噍也 – thổ nhi tiếu dã”, nghĩa là “nôn ra rồi nhai”, mô tả cách loài trâu đưa thức ăn từ dạ dày ngược lên miệng rồi nhai lại.
[2] Ngưu Vương (牛王), con trâu chúa, con trâu đầu đàn. Gọi tên theo tiền thân của ngài.
[3] Ngưu Tích (牛跡), tích là dấu tích, dấu vết của sự vật gì trong quá khứ còn lại. Gọi tên Ngưu Tích ý nói ngài vẫn còn lại dấu tích của đời trước làm thân trâu.
[4] Nhạn (雁), chim nhạn, ở đây chỉ là loài ngỗng trời, một loài chim hoang dã sống theo bầy đàn, biết di trú theo mùa trong năm.
[5] Tinh Tú (星宿), Thất Tú (室宿), Giả Hòa Hợp (假和合), đều là các tên gọi dựa theo ý nghĩa mà hình thành.
[6] Tức Văn-thù-sư-lợi vấn kinh (文殊師利問經), 2 quyển, ngài Tăng-già-bà-la dịch vào đời Lương, hiện có trong ĐCT, T14, 468.
[7] Ở đây chỉ nói trong phạm vi 5 giới dành cho người cư sĩ.
[8] Nguyên văn dùng bối tử (貝子), chỉ đồng tiền, vì tiền ngày xưa làm bằng vỏ sò. Vì dùng với nghĩa chỉ đồng tiền nên trong đoạn văn này vua dâng cúng “nhất tiền - 一錢” nhưng lại nói “bối tử tùng tháp phi xuất - 貝子從塔飛出”. Do đó biết rằng bối tử và tiền đều dùng để chỉ đồng tiền.
[9] Đại Tất (大膝), nghĩa là đầu gối lớn.
[10] Trường Trảo (長爪) nghĩa là móng tay dài.
[11] Năm vùng Ấn Độ: tức Đông Ấn, Tây Ấn, Nam Ấn, Bắc Ấn và Trung Ấn.
[12] Tỳ-lưu-bặc-xoa (毘留匐叉), phiên âm từ Phạn ngữ Virūḍhaka, cũng đọc là Tỳ-lâu-lặc-ca (毘樓勒迦), Tỳ-lâu-lặc-xoa (毘樓勒叉), là vị thiên vương hộ thế cai quản ở phương nam, một trong bốn thiên vương hộ thế, Hán dịch là Tăng Trưởng Thiên vương (增長天王).
[13] Vi-đà (韋陀), phiên âm Phạn ngữ là Veda, thường đọc là Phệ-đà (吠陀), tức bốn bộ cổ thư của Ấn Độ, là kinh điển căn bản của đạo Bà-la-môn.
[14] Khẩu mật (口密), cũng gọi là ngữ mật (語密), là một trong Tam mật (三密) của chư Phật. Do những công năng cũng như phẩm tính này không thể dùng sự hiểu biết của phàm nhân mà nhận hiểu đo lường được nên gọi là mật. Về ngữ mật, khi Phật thuyết pháp thì người nghe trong vòng một dặm, mười dặm cho đến trăm ngàn vạn dặm đều có thể nghe rõ âm thanh thuyết pháp của Phật. Hơn nữa, cùng trong một Pháp hội, trong số thính chúng có người nghe thuyết về bố thí, có người nghe về trì giới v.v. Mỗi người đều tùy theo căn tánh mà được nghe pháp thích hợp với mình. Đó là công năng không thể nghĩ bàn, nên gọi là ngữ mật.
[15] Khẩu luân (口輪) Cũng gọi Giáo giới luân, Chánh giáo luân, Thuyết pháp luân. Giáo pháp từ kim khẩu Phật nói có khả năng diệt trừ phiền não, giúp chúng sinh bỏ tà theo chánh, nương theo chánh giáo tu hành giải thoát, cho nên gọi là Khẩu luân.
[16] Phóng Ngưu Nan-đà (放牛難陀), trong nhiều kinh luận khác gọi là Mục Ngưu Nan-đà (牧牛難陀), đều do ý nghĩa trước đây ngài làm nghề chăn bò. Vua Tần-bà-sa-la có lần thỉnh Phật và Tăng chúng an cư ba tháng. Khi ấy ngài Nan-đà là người chăn bò ở gần đó, mỗi ngày đều mang sữa bò đến dâng cúng, trong suốt ba tháng không hề bê trễ. Vua nhận thấy tâm thành như vậy nên tạo điều kiện cho được gặp Phật. Ngài Nan-đà tự nghĩ, đức Phật được tôn xưng là bậc Nhất thiết trí, chuyện gì cũng biết, nhưng là người xuất thân từ cung vua chắc không thể biết những chuyện của dân quê như việc nuôi trâu bò. Do vậy nên khi được gặp Phật liền mang chuyện nuôi trâu bò ra thưa hỏi. Đức Phật nhân đó thuyết bài pháp nói về 11 điều cần biết trong việc nuôi trâu bò, tức là kinh Phật thuyết Phóng ngưu (佛說放牛經). Ngài Nan-đà được nghe pháp khởi tâm cung kính, nhân đó xuất gia trở thành đệ tử Phật.
[17] Chỗ này e rằng Văn Cú đã bị nhầm, vì như chú thích trên vừa nói rõ xuất thân của ngài Mục Ngưu Nan-đà, không phải thuộc họ Thích, và cũng không bị ép xuất gia mà có nhân duyên rõ ràng. Người thuộc dòng họ Thích và bị ép phải xuất gia là ngài Tôn-đà-la Nan-đà (H. 孫陀羅難陀, S. Sundara-nanda), em cùng cha khác mẹ với thái tử Tất-đạt-đa.
[18] Điều này không đúng, vì Bạt-nan-đà được nhắc đến trong Luật tạng tuy cũng là người họ Thích xuất gia nhưng thuộc về nhóm Lục quần tỳ-kheo, không phải ngài Nan-đà trong Pháp hội này. Trong Luật tạng có kể lại, chính vì Bạt-nan-đà mà Phật chế định 15 pháp Xả đọa (từ pháp thứ 6 đến pháp 20); 6 pháp Đơn đọa (từ pháp 37 đến pháp 42) và pháp Chúng học thứ 95.
[19] Tức là nói ngài cũng thuộc dòng họ Cù-đàm (Gotama), sự phát tích của dòng họ đã nói rõ trong phần nói về ngài A-na-luật.
[20] Nguyên tác dùng tứ chỉ (四指), là cách dùng cổ đại, theo đó lấy độ dài của lóng giữa ngón tay giữa làm một tấc, nên gọi đủ là chỉ xích (指尺).
[21] Trong kinh luận nói ngài có đủ 30 tướng tốt, chỉ kém Phật 2 tướng là tướng bạch hào (lông trắng giữa hai chân mày) và lỗ tai ngắn hơn tai của Phật. Do ngài có nhiều tướng tốt như vậy nên nhiều người không phân biệt rõ mà nhầm lẫn giữa ngài với đức Phật.
[22] Nguyên tác là “vân hà tự nhục - 云何自辱“ hàm ý cho rằng việc đức Phật đi khất thực, xin ăn từng nhà, là tự làm nhục mình, không xứng với d.tộc đế vương.
[23] Vườn Ni-câu-loại (尼俱類), tức là vườn Ni-câu-luật (尼拘律), do cách đọc khác nhau, đều là phiên âm từ chữ Nyagrodhārāma.
[24] Ngài Nan-đà khi ấy chưa xuất gia, là một trong các vương tử có thể sẽ được nối ngôi vua, nên mang việc ấy ra dọa người cạo tóc.
[25] Văn Cú chỉ nói tóm gọn trong câu này. Để giáo hóa Nan-đà, đức Phật đã đưa ông lên các cung trời với vô số những cảnh dục lạc và thiên nữ xinh đẹp. Sau đó Phật hỏi, các thiên nữ này so với Tôn-đà-lợi vợ ông thì như thế nào, Nan-đà phải thừa nhận là vợ ông không thể sánh bằng. Phật dạy, nếu chịu tu tập thì việc hưởng dục lạc cõi trời không có gì khó. Sau đó, Phật đưa ông xuống các tầng địa ngục với vô số cảnh khổ đau khủng khiếp và dạy rằng, nếu không tu tập thì sớm muộn về sau cũng không tránh khỏi sẽ rơi vào những chốn này. Nan-đà vì sợ cảnh khổ địa ngục và tham muốn dục lạc cõi trời nên quyết tâm tu tập. Đến khi thực sự chứng được quả A-la-hán thì tham dục dứt trừ, không còn tham muốn gì nữa.
[26] Ý nói tên gọi Tôn-đà-la là xuất phát từ tên cô Tôn-đà-lợi. Tên này cũng được dùng trong ý nghĩa để phân biệt với ngài Mục Ngưu Nan-đà như đã kể ở trên.
[27] Tên đầy đủ của vị này là Phú-lâu-na Di-đa-la-ni tử (富樓那彌多羅尼子), phiên âm từ Phạn ngữ Pūrṇa-maitrāyaṇīputra, Hán dịch là Mãn Từ tử. Mãn là tên ngài, Từ là nêu theo họ người mẹ. Do lấy họ mẹ nên gọi là Mãn Từ tử (con của bà họ Từ). Tên ngài cũng được dịch là Mãn Nguyện tử, Mãn Chú tử.
[28] Đây là quy tắc trong Phạn ngữ, chẳng hạn như śramaṇa (sa-môn-na) chỉ chung các vị tu sĩ nam, nhưng nữ tu sĩ là bhikṣuṇī (tỳ-kheo-ni).
[29] Kinh Trung A-hàm, quyển 2, xem kinh Thất xa (七車經), ĐCT, T1, 26, tr.429c, d.28. Phần nội dung này đã trích dẫn trong phần nói về ngài Xá-lợi-phất và cuộc gặp gỡ giữa hai người. Văn cú nhầm lẫn như đã chỉ rõ, kinh văn nói “我名滿“ (tôi tên Mãn), không phải “我父名滿“ (cha tôi tên Mãn).
[30] Nguyên tác dùng “thị nhân - 是人“ (người này) trong ngữ cảnh chỉ đến cha ngài Phú-lâu-na.
[31] Nguyên tác nói là kinh Thất xa dụ (七車喻經), chính là kinh Thất xa như chúng tôi đã dẫn.
[32] Tên gọi của ngài Tu-bồ-đề còn có nhiều cách dịch khác là Thiện Nghiệp (善業), Thiện Cát (善吉), Thiện Hiện (善現), Thiện Thật (善實), Thiện Kiến (善見).
[33] Y báo (依報) là hoàn cảnh, môi trường mà một chúng sinh được sinh vào đó; chánh báo (正報) là thân tâm hiện có của một chúng sinh. Cả y báo và chánh báo đều tùy thuộc vào nghiệp quả đã tạo ra từ đời trước.
[34] Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc vì muốn là người lễ Phật trước tiên nên dùng thần thông biến hóa thành Chuyển luân vương, có quân binh theo hộ vệ, nhờ vậy có thể đi nhanh đến chỗ đức Thế Tôn trước tiên, rồi mới hiện thân trở lại thành tỳ-kheo-ni đảnh lễ Phật.
[35] A-di (阿夷), tức tiên nhân A-tư-đà (阿私陀), phiên âm từ Phạn ngữ Asita. Ông là người đã xem tướng cho thái tử Tất-đạt-đa lúc ngài mới đản sinh.
[36] Vua Bạch Phạn là em vua Tịnh Phạn, cha của ngài A-nan.
[37] Nguyên tác là phú kiên y (覆肩衣), tức là y tăng-kì-chi (僧祇支), phiên âm từ Phạn ngữ saṃkakṣikā. Ý chính của câu này là vì ngài A-nan dung mạo quá đẹp, nên Phật dạy khi đắp y phải che kín cả hai vai, thay vì để lộ một vai như các vị tỳ-kheo khác. Như vậy để hạn chế bớt sự chú ý của nữ giới.
[38] Bốn chúng trong ngữ cảnh này là bốn chúng xuất gia, bao gồm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, sa-di và sa-di-ni.
[39] Chúng tôi dịch sát theo nguyên tác “阿難四月八日佛成道日生 – A-nan tứ ngoạt bát nhật Phật thành đạo nhật sanh”. Đây là một trong hai thuyết khác biệt về ngày Phật thành đạo được ghi trong Câu-xá luận sớ (俱舍論疏), quyển 1 (ĐCT, T41, 1822, tr.453c, d.3 và 4): “佛成道日雖有二說不同, 或二月八日, 或四月八日– Phật thành đạo nhật tuy hữu nhị thuyết bất đồng, hoặc nhị ngoạt bát nhật, hoặc tứ ngoạt bát nhật...” (Phật thành đạo tuy có hai thuyết khác nhau, hoặc nói mồng 8 tháng 2, hoặc nói mồng 8 tháng 4...) Như vậy ở đây dựa theo thuyết mồng 8 tháng 4 Phật thành đạo.
[40] Chuyện này có đề cập đến ở phần nói về ngài Mục-kiền-liên. Xin xem chi tiết trong kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 40.
[41] Kinh Đại Bát Niết-bàn nói chi tiết về ba thỉnh nguyện của ngài A-nan: “Một là, nếu Như Lai dùng áo cũ của ngài mà ban cho con, xin cho phép con không nhận; hai là, nếu Như Lai nhận lời thọ thỉnh cúng dường riêng tại nhà đàn-việt, xin cho phép con không đi cùng; ba là, xin cho con được vào ra chỗ của Như Lai bất kỳ lúc nào.”
[42] Kinh Đại Bát Niết-bàn ghi lại lời khen của Phật: “Tỳ-kheo A-nan có đủ trí tuệ nên biết rằng, nếu vào ra có giờ giấc ắt không thể rộng làm lợi ích cho bốn chúng, mới xin được vào ra chỗ của Như Lai bất kỳ lúc nào.”
[43] Câu chuyện này được ngài Huyền Trang kể trong sách Tây Vực ký như sau: “Khi các thương chủ dâng cúng cốm mật, đức Thế Tôn đang nghĩ sẽ dùng vật gì để đựng thì Tứ Thiên Vương từ bốn phương hiện lại, mỗi vị đều mang bình bát vàng đến dâng cúng. Đức Thế Tôn lặng thinh không thọ nhận, vì người xuất gia dùng bát quý này không thích hợp. Tứ Thiên Vương liền bỏ bình bát vàng, dâng bình bát bạc, cho đến pha lê, lưu ly, mã não, xa cừ, trân châu các loại, nhưng đức Thế Tôn đều không nhận. Tứ Thiên Vương phải quay về cung trời, mang đến bình bát bằng đá có màu sáng xanh lấp lánh, cùng nhau dâng lên. Lúc ấy đức Thế Tôn dứt trừ sự phân biệt mà nhận tất cả các bát này rồi đặt chồng lên nhau, ấn xuống thành một bát, cho nên bên ngoài mép bát có bốn đường gờ nổi.” (Tây Vực Ký, Pháp sư Huyền Trang, bản Việt dịch của Thích Như Điển và Nguyễn Minh Tiến, NXB Liên Phật Hội, trang 423, California, 2022)
[44] Nguyên tác là “揵度 - kiền độ”, phiên âm từ chữ skandha, có nghĩa là một nhóm câu chữ tương đồng, cùng loại, nên có thể hiểu là một phẩm, một tiết mục hay một bài kệ. Trong ngữ cảnh này ý nghĩa bài kệ thích hợp hơn.
[45] Đây là cách nói để tỏ lòng tôn kính. Tòa ngồi thuyết pháp của đức Phật được gọi là tòa sư tử, giường nằm của Phật được gọi là giường sư tử (sư tử sàng). Chú ý là cách gọi tôn kính như thế không liên quan đến cấu tạo của tòa ngồi hay giường nằm đó, như khi Phật ngồi trên đệm cỏ khô vẫn gọi là tòa sư tử.
[46] Về 4 câu kệ xưng tán này, hiện thấy trong luận Đại Trí độ (大智度論), quyển 3, nằm trong bài kệ 8 câu, nguyên văn là: “於是造論者讚言:面如淨滿月,眼若青蓮華;佛法大海水,流入阿難心!能令人心眼,見者大歡喜;諸來求見佛,通現不失宜!- Ư thị tạo luận giả tán ngôn: Diện như tịnh mãn nguyệt, nhãn nhược thanh liên hoa; Phật pháp đại hải thủy, lưu nhập A-nan tâm! Năng linh nhân tâm nhãn, kiến giả đại hoan hỉ, chư lai cầu kiến Phật, thông hiện bất thất nghi.“ (ĐCT, T25, 1509, tr.84a, d.18-d.21). “Tạo luận giả” (người tạo luận) chính là ngài Long Thụ, tác giả bộ luận này. Do Văn Cú không nói rõ xuất xứ 4 câu kệ này nên chỉ có thể lưu ý nơi đây để tồn nghi về tác giả.
[47] Người Ly-xa (Licchavi) tức là dân nước Phệ-xá-ly (hay Tỳ-xá-ly - Vaiśāli), còn A-xà-thế là vua nước Ma-yết-đà (Magadha). Câu chuyện ngài A-nan nhập Niết-bàn được ngài Huyền Trang kể lại chi tiết hơn trong sách Tây Vực Ký như sau: “Khi ngài A-nan rời khỏi nước Ma-yết-đà, đi đến thành Phệ-xá-ly, qua sông Căng-già, thuyền lênh đênh giữa dòng. Khi ấy, vua nước Ma-yết-đà nghe tin ngài A-nan bỏ đi, trong lòng quyến luyến đức độ của ngài hết sức sâu nặng, lập tức chuẩn bị xa giá nghiêm trang, vội vã đuổi theo để thỉnh ngài [ở lại], có đến mấy trăm ngàn quân vừa kéo đến đóng trên bờ sông phía nam. Bên kia sông, vua Phệ-xá-ly vừa nghe tin ngài A-nan đến nước mình để nhập Niết-bàn thì trong tâm buồn vui lẫn lộn, lập tức điểm binh, hối hả kéo ra nghinh đón, mấy trăm ngàn quân cùng tập trung đóng trên bờ sông phía bắc. Hai bên dàn quân đối nhau, cờ hiệu như rừng, che khuất cả mặt trời. Ngài A-nan thấy vậy, sợ hai bên giao đấu sát hại lẫn nhau, liền từ trên thuyền đứng dậy, bay lên hư không, thị hiện thần biến, nhập tịch diệt, hóa lửa thiêu thân rồi tự chia đôi, một phần rơi về bờ nam, một phần rơi về bờ bắc. Như vậy, hai vua đều được mỗi người một phần xá-lợi, toàn quân đều buồn đau gào khóc, rồi mỗi bên đều lui về nước, xây tháp để thờ phụng cúng dường.” (Tây Vực Ký, sách đã dẫn, trang 371-372)
[48] Phong phấn tấn Tam-muội (風奮迅三昧), cũng gọi là Phong Tam-muội, là loại thiền định tự làm cho gió mạnh nổi lên, làm phân tán các phần của thân thể.
[49] Vì La-hầu-la ở trong thai mẹ đến sáu năm, nên khi sinh ra mọi người mới biết. Do sự khác thường này, không ai tin rằng đó là con của thái tử Tất-đạt-đa.
[50] Bảo nữ (寶女), người con gái đẹp không do người sinh ra mà do phước báu của Chuyển luân vương nên hiện ra, là một trong các báu vật của vị Chuyển luân vương. Thái tử Tất-đạt-đa khi ra đời đầy đủ phước báu của một vị Chuyển luân vương nên chiêu cảm hiện ra bảo nữ này để hầu hạ. Khi ngài xuất gia thì bảo nữ theo hầu Da-du-đà-la.
[51] Pháp hoa văn cú ký nói rõ hơn về lời chứng này. Cô Cù-tỳ-la nói: “我常與耶輸進止共俱未曾有過 – Ngã thường dữ Da-du tấn chỉ cộng câu vị tằng hữu quá.” (Tôi cùng với Da-du-đà-la không lúc nào rời nhau, chưa từng thấy cô ấy có lỗi lầm gì.)
[52] Pháp hoa văn cú ký nói là dâng lên Phật một bình bát có đủ các món ăn ngon cùng với loại thuốc viên hoan hỷ. Đây có thể là một loại thuốc bổ, vì không thấy liên quan đến bệnh tật gì.
[53] Các món báu hiện đến, tức là biểu hiện phước báu của một vị Chuyển luân Thánh vương.
[54] Nguyên tác dùng “kiến ái”, tức là kiến phiền não và ái phiền não. Kiến phiền não chỉ chung tất cả những phiền não do mê lầm về lý, như ngã kiến, biên kiến, tà kiến... còn ái phiền não chỉ chung tất cả những phiền não do phân biệt mê lầm về sự như tham dục, ganh ghét, sân hận...
[55] Ở đây có lẽ căn cứ theo Tăng Nhất A-hàm, quyển 44, trong đó kể ra bốn vị này là Đại Ca-diếp (Mahā-kāśyapa), Quân-đồ-bát-hán (Kuṇḍa-dhāna), Tân-đầu-lô (Piṇḍola-bhāradvāja) và La-hầu-la (Rāhula).
[56] Nguyên tác dùng “tứ trụ - 四住“ tức tứ trụ địa (四住地), bao gồm Kiến nhất thiết trụ địa (tức là hết thảy kiến hoặc trong ba cõi), Dục ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Dục giới), Sắc ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Sắc giới), Hữu ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Vô sắc giới). Bốn yếu tố này là căn bản khởi sinh của tất cả phiền não nên gọi là trụ địa.
[57] Tuần tự tu tập, tức là theo trình tự quán chiếu Không, Giả, Trung, nương theo đó lần lượt chứng đắc ba trí.
[58] Ba trí là Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí.
[59] Năm trụ địa: giống như bốn trụ địa vừa kể trên, thêm vào Vô minh trụ địa, tức là hết thảy vô minh trong ba cõi.
[60] Nguyên tác dùng nhị biên, có thể hiểu theo nhiều cách nhưng trong ngữ cảnh nói về giáo lý Thiên Thai nên được hiểu là lìa cả hai bên Không và Giả, đi vào Trung đạo, ở đây hàm ý là vốn không có ngăn chướng.
[61] Ở đây nhắc lại những ngăn che chướng ngại đã lược kể ở trước về tên gọi Phú Chướng của ngài La-hầu-la, tám ngăn chướng đầu là từ việc ở trong thai sáu năm v.v. đều ngăn trở việc tu tập chứng đắc Niết-bàn, ngăn chướng thứ chín là chuyên cần tu tập nhưng không chứng quả, ngăn chướng thứ mười khiến ngài không nhập Vô dư Niết-bàn là vâng lời Phật dạy để trụ thế cho đến khi Phật pháp dứt mất. Mười ngăn chướng này đều là hình tích thị hiện.
[62] Nguyên tác dùng “滿字 - mãn tự” và “半字 - bán tự”, để chỉ ý nghĩa rốt ráo và chưa rốt ráo. Chưa rốt ráo có nghĩa là phương tiện quyền thừa, tùy thuận chúng sinh.
[63] Chỗ này làm rõ thêm sự tồn nghi về số lượng các vị A-la-hán, vì nếu số lượng các vị được ít người biết đến là 2.000 vị, thì không thể nào những vị nổi tiếng, nhiều người biết đến hơn lại đến 12.000. Cho nên số lượng 1.200 là hợp lý hơn.
[64] Văn Cú Ký giải thích chỗ này nói công dụng và vô công dụng là xét theo các trụ địa trước hoặc sau.
[65] Văn Cú Ký giải thích cụ túc hay chưa cụ túc là nói các địa vị Đẳng giác, Diệu giác.
[66] Câu hỏi này của ngoại đạo là muốn hỏi khó, vì quả vị A-la-hán vốn được gọi là Vô học, nên ở đây chất vấn vì sao các vị vẫn còn phải tiếp tục theo Phật học pháp.
[67] Trong câu trả lời, đức Phật giải thích rõ ý nghĩa vô học.
[68] Ngũ phương tiện của tông Thiên Thai bao gồm: 1. Xưng danh vãng sinh niệm Phật tam muội môn; 2. Quán tướng diệt tội niệm Phật tam muội môn; 3. Chư cảnh duy tâm niệm Phật tam muội môn; 4. Tâm cảnh câu ly niệm Phật tam muội môn; 5. Tính khởi viên thông niệm Phật tam muội môn.
[69] Theo giáo lý tông Thiên Thai thì có 10 pháp giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, cõi người, cõi trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật. Trong mỗi pháp giới này lại có đủ 10 pháp giới như vậy, hình thành 100 pháp giới (bách giới). Mỗi pháp giới lại có đủ 10 loại sự lý (thập như thị) là tướng, tính, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo, bản mạt cứu cánh, như vậy trong 100 pháp giới có đủ 1.000 như thị (bách giới thiên như). Lại quán sắc và tâm trong mỗi như thị nên đủ số 2.000.
[70] Kinh văn ở đây dùng chữ “quyến thuộc” nhưng không theo nghĩa thế tục, mà là để chỉ các vị tỳ-kheo-ni tu tập dưới sự dẫn dắt của các vị này, cho nên chúng tôi dịch là ni chúng.
[71] Phần trước sau khi trình bày các vị tỳ-kheo thì kết lại bằng câu “chúng sở tri thức” (mọi người đều biết đến), cho nên xác định được là nhiều người biết đến. Phần nói về chúng tỳ-kheo-ni không có câu văn này nên không dựa vào đâu để phân chia việc nhiều hay ít người biết đến các vị.
[72] Câu này là biện bác về cách chú giải trước đây, theo đó phân chia chúng tỳ kheo ở trước là đại danh văn (nhiều người biết), tiểu danh văn (ít người biết) và gọi chúng tỳ-kheo-ni là vô danh văn (không có danh tiếng, không ai biết đến).
[73] Kinh Thập nhị du (十二 遊經), gọi đầy đủ là Phật thuyết Thập nhị du kinh (佛說十二 遊經) (ĐCT, T4, 195).
[74] Kinh Vị tằng hữu, tức Phật thuyết Vị tằng hữu nhân duyên kinh (佛說未曾有因緣經) (ĐCT, T17, 754). Tuy nhiên, đúng ra thì trong kinh này nói La-hầu-la là con của bà Da-du-đà-la. Khi đức Phật sai ngài Mục-kiền-liên về thành Ca-tỳ-la để vấn an phụ vương, ngài cũng dặn dò: “因復慰喻羅睺羅母耶輸陀羅。令割恩愛放羅睺羅令作沙彌。 Nhân phục ủy dụ La-hầu-la mẫu Da-du-đà-la, linh cát ân ái phóng La-hầu-la linh tác sa-di.” (tr.575b, d.24-25) Kinh Thụy ứng, tức Phật thuyết Thái tử thụy ứng bản khởi kinh (佛說太子瑞應本起經) (ĐCT, T3, 185). Kinh này kể cả tiền thân đức Phật khi mua hoa của cô gái tên Cù-di và kết thành nhân duyên vợ chồng từ đó, cho đến khi ngài đản sinh là thái tử Tất-đạt-đa vẫn gặp lại và kết thành vợ chồng. Chúng tôi e rằng kinh này gọi tên người mẹ La-hầu-la là Cù-di chỉ vì muốn sử dụng tên của bà trong tiền thân vừa kể ở trước.
[75] Vì trong ba vị phu nhân thì Cù-di là thứ nhất, tức có địa vị lớn nhất, nên gọi là đại mẫu của La-hầu-la.
[76] Cù-tỳ-đà (瞿毘陀), tức Cù-tỳ-la (瞿毘羅), cô bảo nữ đã nhắc đến ở phần trước khi nói về nỗi oan của Da-du-đà-la.
[77] Nguyên tác dùng “bác địa - 博地“ chỉ cõi người, nhân gian, trong ngữ cảnh này ý nói người phàm, không có quả vị tu tập.
[78] Pháp hoa văn cú ký giải thích rằng, phu nhân Lộc-dã không sinh con nên nêu ra trong quán không, phu nhân Da-du-đà-la có sinh con nên nêu ra trong quán giả, phu nhân Cù-di có địa vị cao nhất trong ba người nên nêu ra trong quán trung đạo.
[79] Lạc (酪): sữa được nấu cho đặc lại thành cao sữa, sữa đặc. Ở đây hàm ý từ một nguyên liệu ban đầu (sữa) đã được chuyển thành một sản phẩm có chất lượng tốt đẹp hơn nhiều (lạc).
[80] Phương đẳng: chỉ giáo pháp Đại thừa.
[81] Nguyên tác dùng Ma-ha-diễn (摩呵衍), phiên âm từ chữ Mahā-yāna để chỉ giáo pháp Đại thừa.
[82] Nguyên tác dùng “半字法 - bán tự pháp” (pháp như nửa chữ), chỉ các pháp quyền thừa, chưa trọn nghĩa, chưa phải nghĩa rốt ráo trọn vẹn. Đây là lấy theo cách dùng trong kinh Đại Bát Niết-bàn. Bán tự (nửa chữ) là pháp chưa rốt ráo, mãn tự (trọn chữ) là pháp rốt ráo.
[83] Nguyên tác dùng “四枯雙樹 - tứ khô song thọ“ (bốn cây khô mọc sóng đôi), dựa theo ý nghĩa câu chuyện sau khi đức Phật nhập Niết-bàn thì trong 8 cây sa-la mọc sóng đôi quanh chỗ Phật nhập diệt có 4 cây khô héo, bốn cây tiếp tục tươi tốt. Bốn cây khô héo là biểu trưng cho bốn pháp mà Phật đã dạy sẽ không còn phát triển. Đó là các pháp: khổ, không, vô thường và vô ngã. Bốn cây tiếp tục tươi tốt là biểu trưng cho bốn pháp sẽ tiếp tục phát triển. Đó là các pháp: thường, lạc, ngã và tịnh. Điều này có nghĩa là các pháp quyền thừa đã qua giai đoạn dẫn dắt, không còn nhiều lợi ích nữa sau khi đức Phật đã thuyết dạy các pháp rốt ráo.
[84] Nguyên tác dùng “半滿法 - bán mãn pháp”. Mãn pháp là pháp trọn vẹn, rốt ráo, nhưng ở đây chưa hoàn toàn rốt ráo nên gọi là “bán mãn pháp”.
[85] Nhị thừa chỉ hai thừa Thanh văn và Duyên giác. Nguyên tác dùng chữ “獨善 - độc thiện” là cách nói của Nho gia để chỉ khuynh hướng chỉ tập trung vào việc hoàn thiện riêng bản thân mình mà không quan tâm đến cộng đồng, đến người khác. Ở đây chỉ đến khuynh hướng tu tập của hàng Nhị thừa chỉ nhằm giải thoát tự thân, không chú trọng nhiều đến việc giáo hóa chúng sinh, cho nên gọi là nhỏ hẹp.
[86] Nguyên tác là “四榮雙樹 - tứ vinh song thụ” (bốn cây tươi tốt mọc sóng đôi). Ý nghĩa đã được giải thích ở phần trên. Bốn cây tươi tốt này biểu trưng cho các pháp thường, lạc, ngã, tịnh.
[87] Nguyên tác dùng “常住滿字 - thường trụ mãn tự”, chỉ giáo pháp thường trụ viên mãn, rốt ráo trọn vẹn.
[88] Nguyên tác là “非枯非榮 - phi khô phi vinh”, có nghĩa là phủ nhận cả hai trường hợp vừa nêu ở trước để đạt đến ý nghĩa chân thật rốt ráo viên mãn.
[89] Nguyên tác là “主將之功畢 - chủ tướng chi công tất” (công việc của vị chủ tướng đã hoàn tất). Theo hình ảnh so sánh được dùng trong ngữ cảnh này, chủ tướng chính là đức Phật ra đời và công việc ở đây là sự giáo hóa chúng sinh.
[90] Nguyên tác dùng chữ “化 - hóa” để chỉ sự nhập diệt, diệt độ, xả bỏ báo thân.
[91] Tâm sở (心所), chỉ các tâm niệm khác nhau khởi sinh tương ứng với các tâm lý khác nhau. Nguyên tác Văn Cú dùng theo cách gọi cũ là tâm sổ (心數) với cùng ý nghĩa, nhưng về sau không ai dùng như vậy nữa mà chỉ dùng tâm sở (心所).
[92] Theo Pháp hoa văn cú ký thì hai tâm sở ỷ (猗) và giác (覺) tương đương với tàm (慚) và quý (愧) theo Tân dịch.
[93] Tức 10 đại địa pháp (大地法), Phạn ngữ là mahābhūmikā-dharma, chỉ mười tác dụng tâm lý tương ưng và đồng sinh khởi với tâm vương.
[94] Khác với các thiện tâm sở như đã kể trên chỉ kết hợp với các tâm thiện, các thông tâm sở (通心數) này có thể kết hợp với cả tâm thiện hoặc tâm xấu ác (bất thiện) nên gọi là thông.
[95] Tâm sở ở đây là nói các thông tâm sở thiện, tức là 10 thông tâm sở vừa kể trên kết hợp với tâm thiện.
[96] Nguyên tác dùng “Phổ Hiền quán”, chỉ đến kinh Phật thuyết Quán Phổ Hiền Bồ Tát hành pháp (佛說觀普賢菩薩行法經). Đoạn trích này trong kinh có thứ tự ngược lại và nằm cách xa nhau: “我心自空罪福無主... 觀心無心法不住法。 - Ngã tâm tự không tội phúc vô chủ... Quán tâm vô tâm pháp bất trụ pháp.” (ĐCT, T9, 277, tr.392c, d.26-28)
[97] Ý nghĩa ở đây là việc hóa độ chúng sinh chính là dứt trừ các tâm sở trần lao phiền não, cho nên khi chưa dứt hết thì chưa thành Chánh giác.
[98] Bốn chúng xuất gia và tại gia: chỉ bốn chúng gồm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc (cư sĩ nam) và ưu-bà-di (cư sĩ nữ).
[99] Theo một cách hiểu phổ biến hơn thì bồ-đề (bodhi) được dịch là giác ngộ, tỉnh thức và tát-đỏa (sattva) được dịch là chúng sinh hay hữu tình.
[100] Thông, biệt và viên chỉ các giai vị Bồ Tát theo Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo. Riêng chữ thiên (偏) có nghĩa là thiên lệch, có thể chỉ các vị Bồ Tát tiền Thông giáo, được xem là căn cơ chậm lụt, tương đương với các hành giả Tiểu thừa thuộc Tạng giáo.
[101] Đoạn này dẫn theo Diệu Pháp Liên Hoa kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義), thuộc ĐCT, T33, 1716, trang 703b, d.8 và 9. “大品云。有菩薩初發心與薩婆若相應。” Phần trích dẫn thiếu chữ “初 - sơ“ để chỉ vị Bồ Tát mới phát tâm. Hai chữ “薩婆 – tát-bà” được phiên âm từ Phạn ngữ sarva, có nghĩa là “hết thảy, dành cho tất cả”, trong ngữ cảnh này được hiểu là bình đẳng, thấy biết tất cả các pháp đều bình đẳng.
[102] Văn Cú ký cho rằng ở đây sữa đặc (lạc) là muốn chỉ hàng Bồ Tát Thông giáo. Theo đây suy ra thì ví dụ trước nói chuyển “máu thành sữa” là để chỉ hàng Bồ Tát tiền Thông giáo hay Bồ Tát phát tâm vẫn còn thiên lệch.
[103] Tương tự như câu trên, câu này vẫn dẫn hoàn toàn theo Diệu Pháp Liên Hoa kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義) và cũng thiếu chữ “sơ”. Nguyên văn là: “有菩薩初發心如遊戲神通淨佛國土。” (Sách đã dẫn, trang 703b, d.9 và 10)
[104] Kinh Tịnh danh (淨名), tức kinh Duy-ma-cật sở thuyết (維摩詰所說經), thuộc ĐCT, T14, 475.
[105] Trong kinh Duy-ma-cật gọi là các vị Bồ Tát “新發意 - tân phát ý”, cũng tức là sơ phát tâm.
[106] Nội dung trích dẫn này là lấy từ phẩm Bất Tư Nghị (không thể nghĩ bàn). Trong đoạn kinh này, ngài Duy-ma-cật hiện thần lực đưa 32.000 tòa ngồi hết sức cao rộng về gian tịnh thất của ngài, khiến các vị đệ tử Thanh văn và hàng Bồ Tát mới phát tâm đều không thể lên ngồi được. Khi ấy, Duy-ma-cật hướng dẫn các vị này đảnh lễ đức Phật Tu-di Đăng Vương, sau đó liền có thể biến thân hình to lớn tương đương để có thể lên ngồi trên các tòa cao đó. (於是新發意菩薩及大弟子即為須彌燈王如來作禮,便得坐師子座 – Ư thị tân phát ý Bồ Tát cập đại đệ tử tức vi Tu-di Đăng Vương Như Lai tác lễ, tiện đắc tọa sư tử tòa.”
[107] Đây là nói trong lúc ngài Duy-ma-cật thị hiện thuyết giảng giáo pháp, các vị Bồ Tát sơ phát tâm (cũng như các đại đệ tử Thanh văn) có nhiều lần chịu lắng nghe những lập luận chê trách của ngài Duy-ma-cật, mục đích là để hiển dương giáo pháp Đại thừa.
[108] Văn Cú Ký giải thích rằng ở đây sinh tô và thục tô được dùng để ví như hàng Bồ Tát thuộc Biệt giáo.
[109] Nguyên tác dùng “道樹 - đạo thọ” chỉ cây bồ-đề, vì chữ bồ-đề được dịch thành chữ đạo.
[110] Tương tự những câu trên, câu này cũng dẫn theo Diệu Pháp Liên Hoa kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義) nhưng trình bày lại ý này khác hơn và cũng thiếu chữ “sơ”. Nguyên văn là: “有菩薩初發心即坐道場為如佛。 - Hữu Bồ Tát sơ phát tâm tức tọa đạo trường vi như Phật.” (Có Bồ Tát vừa mới phát tâm đã ngồi nơi đạo trường làm được như Phật.)
[111] Văn Cú Ký giải thích rằng đề hồ ở đây được dùng để ví với hàng Bồ Tát thuộc Viên giáo.
[112] Nguyên văn trong kinh Pháp hoa: “菩薩聞是法,疑網皆已除 – Bồ Tát văn thị pháp, nghi võng giai dĩ trừ.” (ĐCT, T9, 262, tr.10a, d.20).
[113] Đoạn này chỉ dẫn theo ý kinh. Nguyên văn kinh đoạn này là: “多有人在家、出家行菩薩道,若不能得見聞、讀誦、書持、供養是法華經者,當知是人未善行菩薩道;若有得聞是經典者,乃能善行菩薩之道。 - Đa hữu nhân tại gia, xuất gia hành Bồ Tát đạo, nhược bất năng đắc kiến văn, độc tụng, thư trì, cúng dường thị Pháp hoa kinh giả, đương tri thị nhân vị thiện hành Bồ Tát đạo, nhược hữu đắc văn thị kinh điển giả, nãi năng thiện hành Bồ Tát chi đạo.” (ĐCT, T9, 262, tr.31c, d.3 - d.6.)
[114] Ở đây dùng lại các ví dụ so sánh trên để nói, bốn vị của sữa chế thành là ví như các giai vị của hàng Bồ Tát, một vị đề hồ ngon nhất, quý nhất là ví như quả Phật.
[115] Nguyên tác dùng “鎚碪 - chùy châm” (búa và đe). Văn Cú Ký giải thích rằng ở đây so sánh đức Phật ra đời giáo hóa với sự giúp sức của chư Bồ Tát giống như búa và đe phối hợp nhau để có thể rèn các chất liệu thô thành khí cụ hữu dụng. (ĐCT, T34, 1719, tr.182c, d.14 -17)
[116] Nguyên tác dùng “高山先照 - cao sơn tiên chiếu”, chỉ hàng lợi căn đốn ngộ, khi gặp Phật pháp thì ngộ đạo trước tiên, lấy ý từ kinh Hoa nghiêm được dẫn lại trong Ma-ha Chỉ quán, quyển 1: “Ví như mặt trời mọc lên, trước hết chiếu sáng trên núi cao, tiếp đến chiếu nơi hang núi, cuối cùng mới chiếu sáng đồng bằng. Đồng bằng ví như chúng sinh chưa biết đạo, hang núi ví như hàng tiệm tu, núi cao là hàng căn cơ đốn ngộ.”
[117] Năm trụ trần lao: tức năm trụ địa, bao gồm bao gồm Kiến nhất thiết trụ địa (tức là hết thảy kiến hoặc trong ba cõi), Dục ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Dục giới), Sắc ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Sắc giới), Hữu ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Vô sắc giới) và Vô minh trụ địa (hết thảy vô minh trong Tam giới). Năm yếu tố này là căn bản khởi sinh của tất cả phiền não nên gọi là năm trụ địa hay năm trụ trần lao.
[118] Ở đây giải thích ba ý trong danh xưng Đại Bồ Tát (Ma-ha Bồ-đề-tát-đỏa). Chữ tát-đỏa được dịch là “chúng sanh” thay vì dịch là “tâm” như ở đoạn trước.
[119] A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (阿耨多羅三藐三菩提), phiên âm từ Phạn ngữ Anuttara-samyak-saṃbodhi, thường được dịch là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chỉ quả vị Phật.
[120] Cảnh diệu (境妙), cảnh nhiệm mầu vi diệu, chỉ đối tượng của trí là cảnh bên ngoài. Đây là một trong Thập diệu theo cách giảng giải của Đại sư Trí Khải về kinh Pháp hoa. Cảnh được thuyết giảng trong kinh Pháp hoa là mầu nhiệm, vi diệu so với được thuyết giảng trong các kinh trước đó, cho nên nói là cảnh diệu. Theo Tích môn của tông Thiên Thai thì 14 phẩm đầu của kinh Pháp hoa là nói về Thập diệu, bao gồm: cảnh diệu, trí diệu, hạnh diệu, vị diệu, tam pháp diệu, cảm ứng diệu, thần thông diệu, thuyết pháp diệu, quyến thuộc diệu và lợi ích diệu. Ở đây dẫn các nghĩa này để nói về Vô thượng đạo.
[121] Vị diệu (位妙), quả vị nhiệm mầu vi diệu, là thứ tư trong Thập diệu đã nói trên.
[122] Tâm thứ sáu (六心) tức địa vị thứ sáu trong Thất gia hành vị, bao gồm: 1. Ngũ đình tâm vị; 2. Biệt tướng niệm trụ vị; 3. Tổng tướng niệm trụ vị; 4. Noãn pháp vị; 5. Đỉnh pháp vị; 6. Nhẫn pháp vị; 7. Thế đệ nhất pháp vị. Đây cũng được gọi là Thất phương tiện vị.
[123] Nguyên tác là “輕毛菩薩 - khinh mao Bồ Tát”, theo ý nghĩa cho rằng hàng Bồ Tát ở giai đoạn này công phu chưa vững chãi, vẫn còn dễ bị dao động theo ngoại cảnh, giống như chiếc lông rất nhẹ (khinh mao) dễ dàng bị thổi bay theo chiều gió.
[124] Nguyên tác là “信根未立 - tín căn vị lập”, nghĩa là niềm tin căn bản còn chưa được thiết lập vững chãi.
[125] Nguyên tác dùng “地師- Địa sư” chỉ các luận sư của phái Địa luận (地論宗), một trong 13 tông phái chính tại Trung Hoa. Tông phái này xây dựng học thuyết dựa trên Thập địa kinh luận (十地經論), cũng thuộc về Đại thừa. Những vị truyền bá, giảng dạy học thuyết, tư tưởng của tông phái này được gọi là Địa luận sư (地論師) hay Địa sư (地師), đôi khi cũng gọi là Địa nhân (地人).
[126] Đây là dẫn theo 52 giai vị tuần tự tu tiến của hàng Bồ Tát theo kinh Thủ-lăng-nghiêm, bao gồm Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác và Diệu giác.
[127] Kinh Anh lạc, tức Bồ Tát Anh lạc kinh (菩薩瓔珞經).
[128] Ba pháp quán (tam quán), tức quán Không, quán Giả và quán Trung đạo.
[129] Nguyên tác là “舊云 - cựu vân” (trước đây nói rằng). Cựu ở đây chỉ các nhà cựu giải, những vị đã luận giải kinh Pháp hoa từ trước đó.
[130] Mười hai câu này theo kinh văn là bắt đầu từ câu “皆得陀羅尼 - giai đắc đà-la-ni” cho đến câu thứ mười hai là “能度無數百千眾生 - năng độ vô số bá thiên chúng sanh”. Về ý nghĩa mỗi câu, xin xem phần Việt dịch Kinh văn.
[131] Ba câu xưng tán hiện tại là: “皆得陀羅尼, 樂說辯才, 轉不退轉法輪 - Giai đắc đà-la-ni, nhạo thuyết biện tài, chuyển bất thối chuyển pháp luân”.
[132] Ba câu xưng tán đức hạnh quá khứ là: “供養無量百千諸佛, 於諸佛所殖眾德本, 常為諸佛之所稱歎 - Cúng dường vô lượng bá thiên chư Phật, ư chư Phật sở thực chúng đức bản, thường vi chư Phật chi sở xưng thán”.
[133] Bốn câu này là: “以慈修身, 善入 佛慧, 通達大智, 到於彼岸 - Dĩ từ tu thân, thiện nhập Phật tuệ, thông đạt đại trí, đáo ư bỉ ngạn”.
[134] Hai câu này là: “名稱普聞無量世界, 能度無數百千眾生- danh xưng phổ văn vô lượng thế giới, năng độ vô số bá thiên chúng sanh”.
[135] Nguyên tác dùng “進退 - tấn thối” (tới lui), ở đây hàm ý “tới” là tiến lên, xét theo nghĩa của Biệt giáo, Viên giáo, còn “lui” là lùi lại, xét theo nghĩa của Tạng giáo, Thông giáo. Sau khi xét kỹ tới lui như vậy thì thấy những luận giải trên không phù hợp với giáo nghĩa của bất cứ tông chỉ nào trong Tứ giáo.
[136] Tức là 12 câu trong kinh văn như phần phân tích trên, cộng thêm một câu trước đó là “bất thối chuyển”.
[137] Nguyên tác là “橫竪消文 - hoành thụ tiêu văn”, hiểu theo nghĩa đen là phân tích nghĩa văn theo hai chiều ngang dọc. Ngang và dọc ở đây là theo ý nghĩa về thời gian, cho nên chiều ngang (hoành) có nghĩa là phân tích ý nghĩa ở cùng một thời điểm, cũng có nghĩa là mở rộng ý nghĩa, còn chiều dọc (thụ) có nghĩa là phân tích ý nghĩa theo trình tự thời gian, cũng có nghĩa là theo trình tự tu tiến qua từng giai vị.
[138] Hoan hỷ địa (歡喜地 - Phạn ngữ: Pramuditā-bhūmi), còn có các tên khác là Cực hỷ địa, Hỷ địa, Duyệt dự địa.
[139] Ba sự không thối chuyển (三不退 - tam bất thối), tức là giai vị không thối chuyển, công hạnh không thối chuyển và niệm lực không thối chuyển.
[140] Ly cấu địa (離垢地 - Phạn ngữ: Vimalā-bhūmi), còn có các tên khác là Vô cấu địa, Tịnh địa.
[141] Tức Phát quang địa (發光地 – Phạn ngữ: Prabhākarī-bhūmi), còn có các tên khác là Minh địa, Hữu quang địa, Hưng quang địa.
[142] Tức Diệm tuệ địa (焰慧地 - Phạn ngữ: Arciṣmatī-bhūmi), còn có các tên khác là Diệm địa, Tăng diệu địa, Huy diệu địa.
[143] Nan thắng địa (難勝地 - Phạn ngữ: Sudurjayā-bhūmi), cũng gọi là Cực nan thắng địa.
[144] Hiện tiền địa (現前地 - Phạn ngữ: Abhimukhī-bhūmi), còn có các tên khác là Hiện tại địa, Mục kiến địa, Mục tiền địa.
[145] Viễn hành địa (遠行地 - Phạn ngữ: Dūraṃgamā-bhūmi), còn có các tên khác là Thâm hành địa, Thâm nhập địa, Thâm viễn địa, Huyền diệu địa.
[146] Hai trí (nhị trí), chỉ quyền trí (cũng gọi là phương tiện trí) và thật trí.
[147] Bất động địa (不動 地 - Phạn ngữ: Acalā-bhūmi).
[148] Năm đường (ngũ đạo), chỉ chung các cảnh giới tái sinh của chúng sinh, thường là bao gồm cõi trời, cõi người, cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ và cõi súc sinh.
[149] Thiện tuệ địa (善慧地 - Phạn ngữ: Sādhumatī-bhūmi), còn có các tên khác là Thiện tai ý địa, Thiện căn địa.
[150] Pháp vân địa (法雲地 - Phạn ngữ: Dharmameghā-bhūmi), cũng gọi là Pháp vũ địa.
[151] Tức là thấu triệt cả ba pháp quán Không, quán Giả và quán Trung đạo. Tông Thiên Thai gọi ba pháp quán này là Tam đế vì giúp hành giả nhận thức được ý nghĩa chân thật của thực tại.
[152] Tức là thấu triệt lẽ nhân quả, từ nơi nhân hiện tại có thể rõ biết được quả trong tương lai.
[153] Sau khi vượt qua Thập địa thì đến hai giai vị trước khi thành tựu quả Phật là Đẳng giác và Diệu giác, 2 câu 11 và 12 có thể hiểu là xưng tán 2 giai vị này.
[154] Nguyên tác dùng “薩婆若 - tát-bà-nhã”, phiên âm từ Phạn ngữ sarvajña, Hán dịch là nhất thiết trí, nghĩa là trí tuệ thấy biết hết thảy các pháp.
[155] Ở đây chỉ các vị Bồ Tát Thập tín bước vào giai đoạn được gọi là Thập tín tương tự đạo (十信相似道), đoạn trừ được Kiến hoặc, Tư hoặc trong Ba cõi, sáu căn thanh tịnh, ba quán (không, giả, trung) viên dung, phát khởi trí tuệ chân chứng tương tự với giai vị Sơ trụ, cho nên nói là có hiểu biết tương t
[156] Đại thiên thế giới: Nguyên tác dùng “三千界 - tam thiên giới” là cách nói tắt của “三千大千世界 - tam thiên đại thiên thế giới”. Theo giải thích trong kinh luận thì 1.000 thế giới hợp lại thành một tiểu thiên thế giới, 1.000 tiểu thiên thế giới hợp lại thành một trung thiên thế giới, 1.000 trung thiên thế giới hợp lại thành một đại thiên thế giới. Do sự cấu thành của một đại thiên thế giới là 3 lần của số 1.000, nên gọi là “tam thiên đại thiên thế giới”. Như vậy, thuật ngữ này chỉ cho một đại thiên thế giới, trong đó bao gồm 1 tỷ thế giới (3 lần số ngàn). Do vậy cách chuyển dịch “ba ngàn đại thiên thế giới” là không đúng, vì khiến người đọc hiểu sai.
[157] Khẩu mật (口密), là một trong Tam mật, bao gồm thân mật, khẩu mật và ý mật, tức là ba nghiệp của chư Phật Bồ Tát, vì rất siêu việt, không thể dùng trí tuệ, nhận thức của phàm phu để hiểu được, do đó gọi là mật.
[158] Nguyên tác dùng “無緣慈 - vô duyên từ”, chỉ tâm từ tuyệt đối chân thật, không phụ thuộc vào bất cứ ngoại duyên bên ngoài nào nên gọi là vô duyên. Đại Trí độ luận nói: “Tâm từ bi có ba loại là chúng sinh duyên, pháp duyên và vô duyên. Tâm từ của hàng phàm phu là chúng sinh duyên, của hàng Nhị thừa thì khởi đầu là chúng sinh duyên, sau đó là pháp duyên. Chư Phật và Đại Bồ Tát thấu triệt lẽ không, nên tâm từ gọi là vô duyên từ.”
[159] Nguyên tác dùng “一 心三智 - nhất tâm tam trí”, chỉ việc cùng lúc đạt được cả ba trí là Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí.
[160] Ở đây nói đến bảng chữ cái trong tiếng Phạn, chữ A là đầu tiên, chữ trà là cuối cùng. Ngài Nam Nhạc Tuệ Tư (thầy của Đại sư Trí Khải) có soạn sách Tứ thập nhị tự môn nghĩa (四十二字門義) nay không còn nữa, nhưng nội dung được biết là giải thích phối hợp 42 mẫu tự của Phạn ngữ với 42 giai vị tu hành của hàng Bồ Tát.
[161] Ở đây so sánh tính chất bình đẳng trong công năng của chữ viết với các pháp môn tu tập và giai vị của hàng Bồ Tát, tuy có phân chia khác biệt về hình thức nhưng công năng hướng đến sự giải thoát đều bình đẳng như nhau.
[162] Luận Pháp hoa, tức Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luận Ưu Ba Đề Xá (妙法蓮華經論優波提舍) (ĐCT, T26, 1520). Phần này chỉ trích ý, không phải nguyên văn.
[163] Ở đây nói “thứ hai” vì trước đó trong nguyên tác có “thứ nhất” là “pháp môn phân chia trên dưới” (上支下支門 - thượng chi hạ chi môn). Mục thứ hai này nguyên văn là “攝取事 門 - nhiếp thủ sự môn”. Do Văn Cú chỉ lược lấy ý, không trích dẫn nguyên văn nên có những chỗ khó hiểu như thế này.
[164] Đây là ba pháp đà-la-ni được trình bày trong phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm (thứ 28) của kinh Pháp hoa, bao gồm: Toàn Đà-la-ni (旋陀羅尼), Bá thiên vạn ức Toàn Đà-la-ni (百千萬億旋陀羅尼) và Pháp âm phương tiện Đà-la-ni (法音方便陀羅尼). Toàn Đà-la-ni có công năng chuyển hóa tâm bám chấp hình tướng của phàm phu để đạt đến nhận thức đúng thật về tánh không của tất cả các pháp, nên tương đương với quán Không trong Tam quán của tông Thiên Thai. Hai đà-la-ni còn lại tương ứng với quán giả và quán Trung đạo, như được trình bày trên. Ba pháp đà-la-ni này được đưa vào giải thích trong Phật Quang Đại từ điển ở mục từ Tam đà-la-ni (三陀羅尼), nhưng ở tên đà-la-ni thứ 2 bị bỏ sót chữ “toàn”, thành là Bá thiên vạn ức Đà-la-ni (百千萬億陀羅尼), là một danh xưng không có nghĩa. Bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Quảng Độ do căn cứ bản Hán văn (có lẽ không tra cứu so sánh kinh văn) nên cũng bỏ sót y như vậy. Ngoài ra, bản dịch kinh Pháp hoa của Hòa thượng Thích Trí Tịnh không biết vì sao gọi đây là “Triền Đà-la-ni” (纏陀羅尼 - vốn là một pháp đà-la-ni khác) và bỏ sót không đề cập đến Bá thiên vạn ức Toàn Đà-la-ni (百千萬億旋陀羅尼).
[165] Ba pháp quán tâm: tức là quán không, quán giả và quán Trung đạo.
[166] Nguyên tác nói “五住 - ngũ trụ”, tức ngũ trụ địa hoặc (五住地惑), cũng gọi là ngũ trụ địa phiền não, chỉ cho 5 phiền não: Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa.
[167] Tam đế: là ba sự thật được nhận biết do thực hành Tam quán, tức là Không đế, Giả đế và Trung đế. Dung hòa Tam đế cũng gọi là Tam đế viên dung (三諦圓融), tức là dung nhiếp cả ba đế thành một đế vì quán chiếu thấy không tức là giả cũng tức là trung. Đây là Tam quán theo Viên giáo.
[168] Nguyên tác là “一心三觀 - nhất tâm tam quán”, tức là trong một tâm đạt được đủ ba pháp quán là quán không, quán giả và quán trung. Thành tựu của pháp quán như vậy là “tam đế viên dung” (三諦圓融) như đã nói ở trước.
[169] Nguyên tác dùng “Đại kinh”, có lẽ chỉ Đại Bát Niết-bàn kinh, vì trong kinh này có câu kinh được trích dẫn này: “了了見佛性,猶如妙德等 - liễu liễu kiến Phật tánh, do như Diệu Đức đẳng”. (ĐCT, T12, 374, tr.485b, d.2)
[170] Kinh Vô hành, tức kinh Chư pháp vô hành (諸法無行經), 2 quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch (ĐCT, T15, 650). Tuy nhiên, trong kinh này dùng danh xưng là Bồ Tát Diệu Đức. (750a, d.15-16.)
[171] Chỗ này có lẽ Văn Cú bị nhầm vì trích dẫn theo Phiên dịch danh nghĩa tập, nguyên văn là “無行經名滿殊尸師利。 - Vô hành kinh danh Mãn-thù-thi-sư-lợi”. (ĐCT, T54, 2131, tr.1061b, d.20.) Hơn nữa, Văn Cú cũng bỏ sót một chữ mà gọi là Mãn-thù-thi-lợi (滿殊尸利).
[172] Kinh Phổ siêu, tức Văn-thù-chi-lợi Phổ siêu Tam-muội kinh (文殊支利普超三昧經). Văn Cú không trích dẫn trực tiếp mà trích lại từ Phiên dịch danh nghĩa tập (sách đã dẫn), từ phần Bồ Tát biệt danh thiên (菩薩別名篇). Đây là thiên thứ sáu, nói về các danh hiệu khác nhau của các vị Bồ Tát, trong đó khi nói về Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi có câu: “普超經名濡首。” (Phổ siêu kinh danh Nhu Thủ.) Nhưng sự nhầm lẫn này có thể thấy rõ ràng vì kinh Phổ siêu đã gọi tên Bồ Tát là Văn-thù-chi-lợi (文殊支利) ngay trong tên kinh và không có đoạn nào sử dụng danh xưng Nhu Thủ.
[173] Kinh Tư ích, tức kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn (思益梵天所問經), 4 quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch ( ĐCT, T15, 586). Phần được trích dẫn nằm trong quyển 3 của kinh này, ở trang 49a, từ dòng 18 đến dòng 20, nguyên văn là: “文殊師利法王子言:若菩薩雖說諸法而不起法相, 不起非法相, 是名菩薩。 - Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử ngôn: Nhược Bồ Tát tuy thuyết chư pháp nhi bất khởi pháp tướng, bất khởi phi pháp tướng, thị danh Bồ Tát.” (Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi nói: Bồ Tát nào tuy giảng thuyết các pháp mà không khởi tướng pháp, không khởi tướng không phải pháp, đó gọi là Bồ Tát.) Câu kinh này nằm trong phần nội dung các vị Bồ Tát lần lượt đưa ra những định nghĩa “thế nào là Bồ Tát” và đây là định nghĩa của Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi. Như vậy, phần trích dẫn của Văn Cú đã không chính xác, vì kinh này gọi tên Bồ Tát là Văn-thù-sư-lợi và câu kinh không liên quan gì đến danh xưng Diệu Đức.
[174] Kinh Bi Hoa (悲華經), tức Đại bi liên hoa kinh (大悲蓮華經), 10 quyển, do ngài Đàm-vô-sấm dịch ( ĐCT, T3, 157). Phần trích dẫn được đề cập ở đây nằm trong quyển 3, Phẩm Bồ Tát thụ ký, là phẩm thứ tư. Nội dung phát nguyện và được thụ ký của Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi (khi ấy là vị vương tử thứ ba, con của Chuyển luân Thánh vương Vô Tránh Niệm) là một đoạn khá dài, ở đây Văn Cú chỉ trích một vài ý, không phải nguyên văn kinh, và sự trích dẫn có nhầm lẫn nên chúng tôi e rằng đã trích từ một nguồn khác mà không phải trực tiếp từ kinh văn. Đây là đoạn nguyên văn lời đức Phật Bảo Tạng trong kinh Bi Hoa: “汝善男子!為眾生故自發如是尊重之願取妙國土, 以是故今號汝為文殊師利 。於未來世過二恒河沙等無量無邊阿僧祇劫, 入第三無量無邊阿僧祇劫, 於此南方有佛世界名曰清淨無垢寶寘, 此散提嵐界亦入 其中。彼世 界中有種種莊嚴, 汝於此中當成阿耨多羅三藐三菩提, 號普現如來應正遍知明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師佛世 尊. - Nhữ thiện nam tử! Vị chúng sinh cố tự phát như thị tôn trọng chi nguyện thủ diệu quốc độ, dĩ thị cố kim hiệu nhữ vi Văn-thù-sư-lợi. Ư vị lai thế quá nhị hằng hà sa đẳng vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nhập đệ tam vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, ư thử nam phương hữu Phật thế giới danh viết Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Trí, thử San-đề-lam giới diệc nhập kì trung. Bỉ thế giới trung hữu chủng chủng trang nghiêm, nhữ ư thử trung đương thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hiệu Phổ Hiện Như Lai, Ứng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.” (Trang 188a, dòng 27 đến 188b, dòng 6.) Như vậy, ngài Văn-thù-sư-lợi được thụ ký thành Phật ở thế giới phương nam tên là Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Trí và khi thành Phật sẽ có danh hiệu là Phổ Hiện Như Lai. Các chi tiết này khác với trích dẫn của Văn Cú.
[175] Nguyên tác dùng “三德祕密 - tam đức bí mật”. Tam bí mật, cũng gọi là tam mật, tức là ba nghiệp thân, khẩu, ý của chư Phật, Bồ Tát, vì trí tuệ phàm phu và Nhị thừa không thể đo lường nhận hiểu nên gọi là bí mật.
[176] Nguyên tác dùng “不縱不橫 - bất tung bất hoành” (không ngang không dọc), đây là lấy ý từ kinh luận mô tả chữ y (乊) trong Phạn ngữ gồm 3 dấu chấm, không nằm ngang cũng không nằm dọc, được dùng để biểu đạt ý nghĩa “不一 不異,或非前 非後 - bất nhất bất dị, phi tiền phi hậu”. Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2, phẩm Thọ mạng, phần 2 có đoạn: “Sao gọi là tạng bí mật? Ví như chữ Y (乊), nếu viết ba chấm theo hàng ngang hay theo hàng dọc thì đều chẳng thành chữ Y. Phải như ba con mắt nơi gương mặt của thần Ma-hê-thủ-la mới thành hình dạng chữ Y. Nếu tách riêng biệt ba chấm cũng chẳng thành chữ Y.”
[177] Trích dẫn này cũng không chính xác với kinh văn trong Tư ích Phạm thiên sở vấn kinh (đã dẫn trước). Nguyên văn đoạn này trong kinh là: “觀世音菩薩言:若菩薩眾生見者, 即時畢定於阿耨多羅三藐三菩提, 又稱其名者得免眾苦,是名菩薩。 - Quán Thế Âm Bồ Tát ngôn: Nhược Bồ Tát chúng sinh kiến giả tức thời tất định ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hựu xưng kỳ danh giả đắc miễn chúng khổ, thị danh Bồ Tát.” (Bồ Tát Quán Thế Âm nói: “Bồ Tát nào mà chúng sinh nhìn thấy liền lập tức khởi tâm quyết định đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại xưng niệm danh hiệu liền được thoát mọi khổ nạn, đó gọi là Bồ Tát.) (Xem trang 48b, d òng 29 đến 48c, dòng 3, kinh đã dẫn trước.) Đây là lời của Bồ Tát Quán Thế Âm, đưa ra một định nghĩa về “thế nào là Bồ Tát” và không liên quan đến danh xưng của ngài.
[178] Phần này cũng chỉ trích ý từ kinh Bi Hoa, không phải trích nguyên văn.
[179] Trong nguyên tác đến đây là hết phần thượng của quyển 2, bắt đầu phần hạ.
[180] Tam trí (三智), là ba trí gồm Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí.
[181] Tam đế (三諦), tức ba đế gồm Không đế, Giả đế và Trung đế.
[182] Tam quán (三觀), tức ba pháp quán gồm Không quán, Giả quán và Trung quán.
[183] Câu trích dẫn này từ kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn (đã dẫn trước) không hoàn toàn chính xác. Đây là Nguyên tác kinh văn: “得大勢菩薩言:若菩薩所投足處, 震動三千大千世界及魔宮殿, 是名菩薩。 - Đắc Đại Thế Bồ Tát ngôn: Nhược Bồ Tát sở đầu túc xứ, chấn động tam thiên đại thiên thế giới cập ma cung điện, thị danh Bồ Tát.” (Bồ Tát Đắc Đại Thế nói: “Nếu Bồ Tát đặt chân đến nơi đâu đều chấn động thế giới đại thiên cùng những cung điện của ma, đó gọi là Bồ Tát.” (Xem trang 48c, dòng 3-4, kinh đã dẫn trước.) Đây là lời của Bồ Tát Đắc Đại Thế, đưa ra một định nghĩa về “thế nào là Bồ Tát” và không liên quan đến danh xưng Đại Thế Chí.
[184] Phần này trích ý từ kinh Bi Hoa, không dẫn nguyên văn kinh, và nội dung có chỗ không chính xác. Đây là nguyên văn câu kinh ghi lời thụ ký của đức Phật Bảo Tạng: “善男子! 由汝願取大世界故,因字汝為得大勢。 - Thiện nam tử! Do nhữ nguyện thủ đại thế giới cố, nhân tự nhữ vi Đắc Đại Thế.” (Xem trang 186c, dòng 11-12, kinh đã dẫn.) Như vậy, trong lời nguyện của Bồ Tát là “nguyện được thế giới lớn lao”, tương ứng với danh hiệu được đức Phật ban cho là Đắc Đại Thế (được thế giới lớn lao). Văn Cú dẫn lại thành “願取大千世界 – nguyện thủ đại thiên thế giới” thì ý nghĩa hoàn toàn khác biệt và không phù hợp với danh xưng. Cuối cùng, ta thấy kinh văn nói đến Đắc Đại Thế chứ không có danh xưng Đại Thế Chí.
[185] Tam chỉ (三止), ba sự ngăn dứt, dừng lại, tương ứng với ba pháp quán không, giả và trung. Thứ nhất là thể chân chỉ (體真止), tương ứng với quán không, vì thấy được tướng chân thật nên gọi là thể chân. Thứ hai là phương tiện tùy duyên chỉ (方便隨緣止), cũng gọi tắt là phương tiện chỉ, tương ứng với quán giả, vì tuy thấy được tất cả đều giả tạm nhưng vẫn phương tiện tùy duyên để tu tập và làm lợi ích cho chúng sinh. Thứ ba là tức nhị biên phân biệt chỉ (息二邊分別止), tương ứng với quán trung đạo, vì ngăn dứt được hoàn toàn nhận thức phân biệt hai bên, không rơi vào bám chấp.
[186] Tam đế (三諦), tức Không đế, Giả đế và Trung đạo đế. Câu này hàm ý nhờ tu Tam quán đạt Tam chỉ nên thấu triệt được Tam đế.
[187] Trong kinh văn còn có Bồ Tát Thường Tinh Tấn được kể ra trước vị Bồ Tát này. Văn Cú Ký giải thích rằng do danh xưng Thường Tinh Tấn và Bất Hưu Tức có nghĩa như nhau nên lược bớt.
[188] Đoạn trích này không chính xác với kinh văn trong kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn. Nguyên văn đoạn kinh này là: “無疲倦菩薩言:若恒河沙等劫 為一日一夜,以 是三十日為一月,十二月為歲;以是歲數,若過百千萬億劫得值一佛;如是於恒河沙等佛所,行諸梵行修集功德,然後受阿耨多羅三藐三菩提記,心不休息無有疲倦,是名菩薩。- Vô Bì Quyện Bồ Tát ngôn: Nhược Hằng hà sa đẳng kiếp vi nhất nhật nhất dạ, dĩ thị tam thập nhật vi nhất nguyệt, thập nhị nguyệt vi tuế, dĩ thị tuế số, nhược quá bá thiên vạn ức kiếp đắc trực nhất phật, như thị ư Hằng hà sa đẳng Phật sở, hành chư phạm hạnh tu tập công đức, nhiên hậu thụ A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề ký, tâm bất hưu tức, vô hữu bì quyện, thị danh Bồ Tát.” (Bồ Tát Vô Bì Quyện nói: “Nếu lấy số kiếp nhiều như số cát sông Hằng làm một ngày đêm... ... tâm chẳng dừng nghỉ, không hề chán mệt, đó gọi là Bồ Tát.”) (Trang 48c, từ dòng 4 đến dòng 9, kinh đã dẫn.) Như vậy, nội dung này là Bồ Tát Vô Bì Quyện đưa ra một định nghĩa về Bồ Tát, và ba chữ “bất hưu tức” được dùng với ý nghĩa rõ rệt, không phải danh xưng Bồ Tát.
[189] Tức kinh Văn-thù-chi-lợi Phổ siêu Tam-muội (文殊支利普超三昧經) đã dẫn ở trước.
[190] Trong câu này Văn Cú bị sót một chữ quan trọng (có thể do lỗi khắc in) khiến câu văn thành tối nghĩa hoặc sai nghĩa. Văn Cú trích là: “被上德鎧乃至佛無能沮敗令釋大乘。 - Bị thượng đức khải nãi chí Phật vô năng trở bại linh thích Đại thừa.” Nguyên tác kinh văn có thêm một chữ: “被上德鎧乃至佛慧。無能沮敗令釋大乘。 - Bị thượng đức khải nãi chí Phật tuệ. Vô năng trở bại linh thích Đại thừa.” Phần trích lại thiếu chữ “慧 - tuệ” và cũng không chấm câu sau đó, khiến phần sau câu văn bị hiểu sai thành “...cho đến Phật cũng không thể cản trở phá hoại làm cho từ bỏ Đại thừa.” Điều này vô nghĩa, vì đức Phật không làm việc “cản trở phá hoại”. Câu văn đúng sẽ được hiểu là “... cho đến khi đạt được trí tuệ Phật. Không gì có thể ngăn trở phá hoại làm cho từ bỏ Đại thừa.“
[191] Đoạn này chỉ lược trích, không đủ nguyên văn kinh. Câu cuối cùng không có trong kinh văn. Đoạn kinh này là do Bồ Tát Bảo Chưởng nói ra, nên có câu mở đầu là “寶掌菩薩曰 - Bảo Chưởng Bồ Tát viết”. Nội dung cả đoạn là giảng giải về phương tiện tu tập để tương ưng với trí tuệ Đại thừa, không có ý nghĩa giải thích danh xưng của ngài. Chúng tôi không rõ là Văn Cú có nhầm lẫn hay do trích lại từ nguồn khác dẫn đến sai lệch.
[192] Đoạn này chỉ trích một phần rất ngắn trong kinh Bi Hoa, quyển 6. Những thông tin chúng tôi bổ sung như trên là căn cứ theo kinh văn.
[193] Bảy vị Bồ Tát lược bớt không giải thích, kể từ sau Bồ Tát Dược Vương, đó là các vị: Bồ Tát Dũng Thí (勇施菩薩), Bồ Tát Bảo Nguyệt (寶月菩薩), Bồ Tát Nguyệt Quang (月光菩薩), Bồ Tát Mãn Nguyệt (滿月菩薩), Bồ Tát Đại Lực (大力菩薩), Bồ Tát Vô Lượng Lực (無量力菩薩), Bồ Tát Việt Tam Giới (越三界菩薩).
[194] Kinh Tư ích, tức kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn, đã dẫn ở trước. Thật ra đoạn này không tìm thấy trong kinh Tư ích, nhưng là được dẫn lại từ Phiên dịch danh nghĩa tập (翻譯名義集), quyển 1, nguyên văn: “思益云。若眾生聞名者, 畢竟得三菩提, 故云善守 - Tư ích vân: Nhược chúng sinh văn danh giả, tất định đắc Tam-bồ-đề, cố vân Thiện Thủ.” (ĐCT, T54, 2131, tr.1062b, d.14 - 15)
[195] Danh xưng của Bồ Tát này là Đạo Sư (導師), chữ đạo (導) này là dẫn dắt, dẫn đường, không phải chữ đạo (道) là đạo pháp.
[196] Đoạn này thật ra là trích dẫn lại theo Phiên dịch danh nghĩa tập, quyển 4, sách đã dẫn, ở trang 1124c, d.6 - 7.
[197] Tức là câu: “如是等菩薩摩訶薩八萬人俱 - Như thị đẳng Bồ Tát Ma-ha-tát bát vạn nhân câu.” (Các vị Đại Bồ Tát như vậy có 80.000 vị cùng quy tụ.)
[198] Ngũ đạo (五道), thông thường được dùng để chỉ năm cảnh giới tái sinh của tất cả chúng sinh, bao gồm cõi trời, cõi người và các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Tuy nhiên, ở đây là bao gồm cảnh giới a-tu-la và không có chúng sinh địa ngục.
[199] Nhị giới (二界), hai giới ở đây là chỉ Dục giới và Sắc giới.
[200] Nguyên tác dùng bát phiên (八番), Văn Cú Ký giải thích: “八番者, 欲天色天,龍,乾,緊,修,迦,人, 具如下列 - Bát phiên giả, Dục thiên Sắc thiên, long, càn, khẩn, tu, ca, nhân, cụ như hạ liệt.” (Tám phiên, đó là chỉ chư thiên cõi Dục, cõi Sắc, loài rồng, càn-thát-bà, khẩn-na-la, a-tu-la, ca-lầu-la, người,... đầy đủ như [kinh văn] bên dưới kể ra.) Do đó biết rằng đây là chỉ Tám bộ chúng. Văn Cú Ký kể ra như vậy chỉ còn thiếu loài ma-hầu-la-già và loài phi nhân.
[201] Kinh Phương đẳng (方等經), chỉ chung các kinh Đại thừa.
[202] Kinh Trung Ấm (中陰經), 1 quyển, ngài Trúc Phật Niệm (竺佛念) dịch sang Hán ngữ. (ĐCT, T12, 385)
[203] Đây là nói thứ tự liệt kê trong kinh Pháp hoa, sau các vị Bồ Tát thì kể đến chư thiên, long vương, rồi đến các loài khẩn-na-la, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, cuối cùng mới đến loài người.
[204] Ý khác là nói hàm ý trong việc sắp xếp loài người ở về cuối cùng trong thứ tự liệt kê. Ở đây nhận định rằng việc nói là do phân chia chủ khách chưa hẳn đã đúng, nhưng không biết có ý nghĩa nào khác nữa chăng.
[205] Nguyên tác nói “鬼神重出 - quỷ thần trùng xuất”, vì cả ba loài khẩn-na-la, càn-thát-bà, a-tu-la đều được xếp vào loai quỷ thần.
[206] Nguyên tác là “頓施 - đốn thí”, hiểu theo nghĩa đen là bố thí cách nhanh nhẹn, dứt khoát, không chần chừ. Hòa thượng Thích Đức Thắng so sánh với nguyên tác Pali chỗ này là cụm từ “sakkaccaṃ dānaṃ adāsi” nên chuyển dịch là “bố thí một cách nhiệt thành, cung kính”.
[207] Nguyên tác là “堪能作主 - kham năng tác chủ”, có lẽ bị nhầm, vì đoạn này trích từ kinh Tạp A-hàm, quyển 40. Chúng tôi đã đối chiếu kinh văn, chỗ này chỉ nói “以堪能故 - dĩ kham năng cố” (vì có khả năng làm được như vậy), tức là nói việc bố thí. (ĐCT, T2, 99, tr.290c, d.23 - 26)
[208] Trong kinh văn tên gọi này là Sa-bà-bà (娑婆婆), cũng đọc là Bà-sa-bà và gọi tên loại y được mang ra bố thí là bà-sân-tư y (婆詵私衣), không phải cùng tên. Hòa thượng Thích Đức Thắng so sánh với Nguyên tác Pali ở chỗ này là āvasatha, có nghĩa là “nhà ở”, nên cho rằng có thể bản Hán ngữ đã hiểu nhầm thành chữ vasanakā có nghĩa là y phục.
[209] Văn Cú nói “舍脂是妇钵低是夫。 - Xá-chi thị phụ, Bát-đê thị phu.” (Xá-chi là tên người vợ, Bát-đê là tên chồng.) Nhưng xem trong kinh văn được trích dẫn thì không có câu này. Đức Phật chỉ giải thích vì nữ a-tu-la tên Xá-chi (舍脂) là đệ nhất phu nhân của Thiên Đế-thích nên gọi ông theo tên đó.
[210] Tam quang thiên tử: ba vị thiên tử tiêu biểu cho ba loại ánh sáng trong vũ trụ là mặt trời (Nhật quang), mặt trăng (Nguyệt quang) và các vì sao (Tinh quang).
[211] Ba pháp quán là quán giả, quán không và quán trung. Hai trí là căn bản trí và hậu đắc trí.
[212] Ba trí là Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí. Tam quang là Nhật quang (ánh sáng mặt trời), Nguyệt quang (ánh sáng mặt trăng) và Tinh quang (ánh sáng các ngôi sao).
[213] Tam đế là Giả đế, Không đế và Trung đế. Tam trí là Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí.
[214] Tầng trời thứ năm của Dục giới là Hóa lạc thiên (Nirmṇarati), chư thiên có thể tự biến hóa ra các món dục lạc để tự thỏa mãn, cho nên gọi là “hóa lạc”. Tầng trời thứ sáu là Tha hóa tự tại thiên (Para-nirmita-vaśa-vartin), chư thiên có thể thỏa mãn bằng những món dục lạc do chư thiên khác biến hóa ra, cho nên gọi là “tha hóa”.
[215] Tức là nói cõi trời Sắc cứu cánh (Akaniṣṭha), vị thiên chủ ở đó là Đại Phạm Thiên. Sắc giới có 17 tầng trời, cõi trời Sắc Cứu Cánh là cao nhất.
[216] Ba món độc: tham độc, sân độc và si độc.
[217] Đoạn này thật ra không trích từ kinh Bi Hoa, mà trích dẫn lại từ Phiên dịch danh nghĩa tập (sách đã dẫn) và cũng không trích đủ. Nguyên văn trong sách này là: “悲華云。何名娑婆。是諸眾生忍受三毒及諸煩惱, 能忍斯惡, 故名忍土。 - Bi Hoa vân: Hà danh Ta-bà? Thị chư chúng sinh nhẫn thọ tam độc cập chư phiền não, năng nhẫn tư ác, cố danh Nhẫn độ.” (ĐCT, T54, 2131, tr.1096a, d.8 - 9)
[218] Nguyên tác là “九道 - cửu đạo”, chín đường chúng sinh, là cách tính gồm “lục phàm tứ thánh” nhưng trừ ra không tính a-tu-la. Tứ thánh bao gồm: Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác. Lục phàm gồm: chư thiên, loài người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Sở dĩ không tính đến a-tu-la vì có lập luận cho rằng a-tu-la không phải một loài riêng biệt, mà biểu thị cho tính khí nóng nảy, hiếu chiến, nhiều sân hận, vốn có thể biểu hiện trong những cách giới khác như ở chư thiên hay loài người... Do vậy, trong “lục phàm tứ thánh” trừ ra a-tu-la thì còn chín đường.
[219] Phạm chúng: tức chư thiên ở cương vị dân chúng của cõi Phạm thiên, như thường dân ở cõi người.
[220] Phạm phụ: tức các vị thiên tử có vai trò phụ giúp Thiên vương trong việc cai trị, cũng như quan tướng ở cõi người.
[221] Đây là tầng trời thứ nhất của Tứ thiền, tức Vô vân thiên.
[222] Đây là tầng trời thứ hai của Tứ thiền, tức Phúc sinh thiên.
[223] Đây là tầng trời thứ ba của Tứ thiền, tức Quảng quả thiên.
[224] Ngũ Na-hàm thiên, tức Ngũ tịnh cư thiên, gồm 5 tầng trời là nơi các bậc chứng Thánh quả A-na-hàm sinh về. Do vậy mà có danh xưng “Na-hàm” hay “Tịnh cư”.
[225] Xem lại chuyện này ở phần giải thích về ngài Mục-kiền-liên trong quyển 1.
[226] Ngũ trụ địa phiền não, gồm Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa.
[227] Hai sự chết, tức nhị tử, chỉ phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử. Phần đoạn sinh tử là sự sống chết của phàm phu, bỏ thân này thọ thân khác. Biến dịch sinh tử là sự thọ thân của các bậc thánh, không còn trói buộc trong ba cõi nhưng do nguyện lực, định lực mà thọ thân để giáo hóa chúng sinh và tiếp tục tu tập.
[228] Tên vị Long vương này là Utpala, trong kinh Pháp hoa phiên âm là Ưu-bát-la (優鉢羅), Văn Cú khi chép lại đã sử dụng một cách phiên âm khác là Âu-bát-la (漚鉢羅). Chúng tôi theo kinh văn điều chỉnh lại.
[229] Ở đây Utpala (ưu-bát-la) được dịch nghĩa là “黛色蓮華池 - Đại Sắc liên hoa trì” (Hồ sen Đại Sắc). Chữ đại (黛) nghĩa là màu đen, không phải chữ đại (大) là to lớn. Cách giải thích này được thấy trong Huyền ứng âm nghĩa (玄應音義), quyển 3, trong khi hầu hết những nơi khác trong kinh luận đều dịch là hoa sen xanh (青蓮花 - thanh liên hoa). Cũng có nơi nói loại hoa này có hai màu, xanh và đỏ.
[230] Nguyên tác là Ban-già-vu-sắt (般遮于瑟), phiên âm từ chữ Pañca-vārṣika, tức Ban-già-vu-sắt hội (般遮于瑟會), là pháp hội được tổ chức 5 năm một lần nên cũng được gọi là Ngũ tuế hội (五歲會). Pháp hội được tổ chức để bố thí bình đẳng đến mọi tầng lớp trong xã hội, nhưng cũng có phần thuyết giảng giáo pháp.
[231] Ở đây đang nói theo giáo lý tông Thiên Thai nên Tứ giáo bao gồm Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo.
[232] Thập lực, tức Như Lai thập lực hay Như Lai thập trí lực, tức là mười năng lực trí tuệ phi thường mà chỉ chư Phật mới có được, bao gồm: 1. Tri thị xứ phi xứ trí lực: Biết rõ tính khả thi và tính bất khả thi trong mọi trường hợp; 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực hay Nghiệp dị thục trí lực: Biết rõ luật nhân quả, quả báo, tức là nghiệp nào tạo quả nào; 3. Tri nhất thiết sở đạo trí lực: Biết rõ nguyên nhân nào dẫn đến con đường tái sinh nào; 4. Tri chủng chủng giới trí lực: Biết rõ các thế giới với những yếu tố thành lập của nó; 5. Tri chủng chủng giải trí lực: Biết rõ căn tánh riêng biệt của mỗi chúng sinh; 6. Tri nhất thiết chúng sinh tâm tánh trí lực: Biết rõ căn cơ học đạo cao thấp của mọi chúng sinh; 7. Tri chư thiền giải thoát Tam-muội trí lực: Biết tất cả các cách thiền định; 8. Tri túc mệnh vô lậu trí lực: Biết rõ các tiền kiếp của chính mình; 9. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực: Biết rõ sự hoại diệt và tái sinh của chúng sinh; 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực: Biết các pháp ô nhiễm sẽ chấm dứt như thế nào. Danh xưng Thập lực cũng dùng để chỉ đức Phật.
[233] Ba đế: tức là ba kết quả nhận thức đúng đắn có được từ ba pháp quán, tức Không đế, Giả đế và Trung đế.
[234] Các vị Khẩn-na-la và Càn-thát-bà đều chuyên lo về âm nhạc phục vụ Thiên đế, nhưng Khẩn-na-la chuyên về Pháp nhạc, nghĩa là âm nhạc xưng tán giáo pháp Phật, Càn-thát-bà chuyên về Tục nhạc, tức là âm nhạc thế tục, dùng trong những dịp vui chơi, không liên quan đến giáo pháp.
[235] Nguyên tác dùng “彌天安師 - Di Thiên An Sư”, tức ngài Di Thiên Thích Đạo An (彌天釋道安), một cao tăng từ thời Đông Tấn, sinh khoảng năm 312 (hoặc 314) và viên tịch năm 385. Ngài là người được đầu tiên thực hiện việc hệ thống kinh điển đã dịch sang Hán ngữ thành mục lục qua việc biên soạn Đạo An lục. Ngài cũng là người đầu tiên đề xuất việc dùng họ Thích cho tất cả những người xuất gia theo Phật. Tên gọi Đạo An được nhiều người biết đến hơn là Di Thiên An Sư.
[236] Dường như Văn Cú trích dẫn chỗ này không đầy đủ. Nhận xét của ngài Đạo An được ghi lại trong Pháp hoa nghĩa sớ (法華義疏), quyển 1, nguyên văn là: “釋道安, 道行經: 胡音云須羅, 此云質諒, 以其多諂曲故為立此名, 令其質直誠信也。 - Thích Đạo An, Đạo Hành kinh: Hồ âm vân Tu-la, thử vân Chất lượng, dĩ kỳ đa siểm khúc cố vi lập thử danh, linh kỳ chất trực thành tín dã.” (Trong Đạo hành kinh, ngài Đạo An nói: “Ấn Độ nói A-tu-la, Trung Hoa dịch là Chất lượng, đó là vì thần này nhiều sự dua nịnh không thật thà, cho nên đặt tên như vậy để khiến cho phải chân thật thành tín.) (ĐCT, T34, 1721, tr.465c, d.1-3)
[237] Ngũ xứ bị phược: trói buộc ở năm chỗ, nghĩa là bị dây trói vào hai tay, hai chân và cổ.
[238] Pháp hoa nghĩa sớ nói rằng vị vua A-tu-la này trước đây khi đánh nhau với Đế-thích đi tiên phong, bị Đế-thích bắt trói.
[239] Năm trói buộc (ngũ hệ), cũng tương tự như ngũ xứ hệ, nghĩa là trói ở năm chỗ, ý nói trói buộc rất chặt. Ngũ hệ cũng được hiểu theo một nghĩa khác là dùng năm loại xác chết của thú vật để trói ma, gọi là ngũ thi hệ, nhưng nghĩa này không phù hợp ở đây.
[240] Quảng kiên giáp (廣肩胛) có nghĩa là vai rộng, mô tả hình tướng của vị này.
[241] Văn Cú ghi là Chánh bản (正本), tức chỉ Chánh Pháp hoa Kinh (正法華經), 10 quyển, do ngài Trúc Pháp Hộ (竺法護) dịch vào đời Tây Tấn. (ĐCT, T9, 263)
[242] Kinh Chánh Pháp hoa, quyển 1, bản Đại Chánh tạng ghi là “欲錦阿須倫 - Dục Cẩm A-tu-luân”, không phải Bảo Cẩm (寶錦). (ĐCT, T9, 263, tr.63b, d.17)
[243] Tức là kinh Phật thuyết Quán Phật Tam-muội hải (佛說觀佛三昧海經), 10 quyển, do ngài Phật-đà-bạt-đà-la (佛陀跋陀羅) dịch vào thời Đông Tấn. Phần trích dẫn ở đây lấy từ quyển 1 và chỉ lược trích, không đầy đủ.
[244] Văn Cú nói là “生此地 - sinh thử địa” (sinh ở đất này), nhưng trong kinh nói là “飛行世間 - phi hành thế gian” (bay đến thế gian), xét ra hợp lý hơn. Một số chi tiết khác chúng tôi cũng căn cứ kinh văn để nhận hiểu.
[245] Kinh văn không có ý này, chỉ nói khi chư thiên xuống biển tắm rửa, do thân xúc chạm thích thú nên xuất tinh trong nước biển.
[246] Kinh văn mô tả thêm: mỗi đầu có ngàn con mắt, 999 cái miệng, mỗi miệng có 4 răng nanh. Ngoài ra 24 cánh tay, mỗi tay đều có cầm đủ loại vũ khí.
[247] Kinh văn mô tả đứa con trai này có 9 đầu, mỗi đầu có 1.000 mắt, miệng phun ra lửa, có 999 cánh tay và 8 cái chân.
[248] Đoạn này Văn Cú lược trích không đủ ý nên thành tối nghĩa, chúng tôi phải căn cứ kinh văn để bổ sung vào mới hiểu được câu chuyện. Chẳng hạn như việc Tỳ-ma-chất-đa “thách cưới” bằng yêu cầu xây cung điện bảy báu và Đế-thích làm được nhờ thiện nghiệp của ông, nhưng Văn Cú không đề cập đầy đủ.
[249] Chuyện này kinh văn kể chi tiết hơn. Đế-thích mỗi khi đến vườn Hoan Hỷ thì cùng các thể nữ xuống tắm dưới hồ, cùng nhau vui đùa. Nàng Xá-chi ghen tức liền sai người mách chuyện này với cha là Tỳ-ma-chất-đa, nói rằng Đế-thích không còn yêu thương cô nữa. Tỳ-ma-chất-đa nghe như vậy liền nổi giận, mang quân đến đánh.
[250] Văn Cú ghi Chánh bản (正本), tức Chánh Pháp hoa Kinh (正法華經) đã dẫn.
[251] Văn Cú chỗ này ghi La-hầu-la nhưng trong kinh Pháp hoa ghi tên vị này là La-hầu A-tu-la vương (羅睺阿修羅王). Các phần sau Văn Cú cũng gọi là La-hầu.
[252] Văn Cú ghi là Chánh bản (正本), tức Chánh Pháp hoa Kinh (正法華經) đã dẫn.
[253] Nguyên tác dùng “trúc thật”, chỉ bông trúc kết thành hạt giống như bông lúa. Có lẽ chỉ là truyền thuyết, vì các loại tre, trúc tuy có trổ bông kết hạt nhưng thường rất hiếm hoi, không phải hằng năm.
[254] Nguyên tác là “乳桐 - nhũ đồng”, chúng tôi vẫn tồn nghi vì chưa biết đến loại cây này, chỉ nghe nói cây ngô đồng (梧桐), nhưng cây ngô đồng thì không quá lớn.
[255] Văn Cú ghi là “正本 - chánh bản”, tức kinh Chánh Pháp hoa. Trong quyển 1 kinh này ghi là “大具足王 - Đại Cụ Túc Vương”. (ĐCT, T9, 263, tr63b, d.20)
[256] Văn Cú ghi là “正本 - chánh bản”, tức kinh Chánh Pháp hoa, đã dẫn.
[257] Theo Câu-xá luận (俱舍論), quyển 11, thì tầng cấu trúc thấp nhất của một thế giới là phong luân (風輪), có độ dày 100 vạn do-tuần, cứng chắc như kim cương. Bên trên phong luân là thủy luân (水輪), là tầng nước có độ sâu 80 vạn do-tuần. Bên trên thủy luân là kim luân, có độ dày 32 vạn do-tuần, kết cấu bằng kim cương nên gọi là kim luân. Bên trên kim luân là địa luân (地輪), là nơi có núi và biển cùng đất đai hình thành thế giới. Như vậy theo mô tả ở đây là chim ca-lâu-la lao xuống xuyên qua hết thảy nhưng bị cản lại ở tầng phong luân.
[258] Các nhà Cựu dịch dịch là Tư Duy (思惟), về sau dịch là Tư Thắng (思勝).
[259] Theo Từ điển Phật Quang thì danh xưng Balaruci được phiên âm là “婆羅留支 - Bà-la-lưu-chi) và dịch là Chiết Chỉ (折指), nghĩa là gãy ngón tay, do A-xà-thế lúc bị thả từ trên cao xuống chỉ gãy một ngón tay mà không chết nên có tên gọi này.
[260] Nguyên tác nói Đại Kinh (大經), ở đây chỉ kinh Đại Bát Niết-bàn (大般涅槃經), 40 quyển, do ngài Đàm-vô-sấm dịch. Phần trích dẫn thuộc quyển 20, nguyên văn kinh là: “言阿闍者, 名為不生。世者名怨, 以不生佛性故則煩惱怨生。煩惱怨生故不見佛性。以不生煩惱故則見佛性。 - Ngôn A-xà giả, danh vi bất sinh. Thế giả danh oán, dĩ bất sinh Phật tánh cố, tắc phiền não oán sinh. Phiền não oán sinh cố, bất kiến Phật tánh. Dĩ bất sinh phiền não cố, tắc kiến Phật tánh.” (ĐCT, T12, 374, tr.480c, d.11 - 20)
[261] Đoạn này vẫn tiếp tục lấy ý trong kinh Đại Bát Niết-bàn nhưng không trích dẫn theo sát kinh văn.
[262] Kinh Phổ Siêu (普超經), tức Văn-thù-chi-lợi Phổ Siêu Tam-muội Kinh (文殊支利普超三昧經), 3 quyển, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch. (ĐCT, T15, 627)
[263] Duy-ma-cật sở thuyết kinh (維摩詰所說經), 3 quyển, ngài Cưu-ma-la-thập dịch có nói: “維摩詰言:若菩薩行於非道,是為通達佛道 - Nhược Bồ Tát hành ư phi đạo, thị vi thông đạt Phật đạo.” (Nếu Bồ Tát làm việc trái đạo, đó là thông đạt Phật đạo.) (ĐCT, T14, 475, tr.549a, d.1-2)
[264] Bốn vị luân vương: tức kim luân vương, ngân luân vương, đồng luân vương và thiết luân vương. Đây là gọi tên theo phước đức của mỗi vị, biểu hiện ra thành bánh xe vàng, bạc, đồng hay thiết gọi luân bảo của mỗi vị.
[265] Sáu đường ở đây chỉ sáu cảnh giới tái sinh của chúng sinh, bao gồm cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi người, cõi a-tu-la và cõi trời.
[266] Văn Cú dùng “見佛 - kiến Phật” có thể hiểu là thấy Phật hay gặp Phật đều được. Nhưng tham khảo Văn Cú Ký ở chỗ tương đương dùng “值佛 - trực Phật” thì phải hiểu là gặp Phật. Lại xét nghĩa này phù hợp hơn với các giải thích tiếp theo.
[267] Thật ra ý nghĩa một phần trên đây và nguyên vẹn câu này đã được Văn Cú dẫn lại từ Duy-ma kinh nghĩa sớ (維摩經略疏), quyển 2. (ĐCT, T38, 1778).
[268] Ở đây chỉ Thanh văn thừa.
[269] Ở đây chỉ Duyên giác thừa hay Bích-chi Phật thừa.
[270] Nguyên tác nói Tịnh Danh sớ (淨名疏), căn cứ theo những trích dẫn đã được tìm thấy thì biết là đang nói đến Duy-ma kinh nghĩa sớ (維摩經略疏) như đã dẫn ở trước. Kinh Tịnh Danh là tên khác của kinh Duy-ma-cật.
[271] Quang Trạch, tức ngài Thích Pháp Vân (467-529), trụ trì chùa Quang Trạch, từng giảng kinh Pháp hoa tại chùa Quang Trạch vào khoảng những năm đầu thế kỷ 6 (502-505).
[272] Nguyên tác dùng “tam tuệ” (三慧), chỉ văn tuệ (trí tuệ phát khởi nhờ nghe giáo pháp), tư tuệ (trí tuệ phát khởi nhờ suy ngẫm giáo pháp) và tu tuệ (trí tuệ phát khởi nhờ thực hành giáo pháp).
[273] Nguyên tác nói “四四十六眾 - tứ tứ thập lục chúng” để nhấn mạnh ý nghĩa bốn chúng, mỗi chúng lại chia thành bốn, như vừa giải thích trên, tức là 4 x 4 = 16 chúng.
[274] Nguyên tác dùng “四門 - tứ môn”, chỉ bốn cách nhận thức khi tiếp cận giáo pháp nên gọi là tứ môn, bao gồm: hữu môn (有門), không môn (空門), diệc hữu diệc không môn (亦有亦空門) và phi hữu phi không môn (非有非空門).
[275] Bốn nghĩa ở đây chỉ các nghĩa hữu, không, diệc hữu diệc không và phi hữu phi không vừa nói trên.
[276] Y báo (依報) của một người là những gì người ấy nhận được từ môi trường sống chung quanh, do nghiệp đã tạo từ đời trước mang lại. Khác với chánh báo (正報) là thân tâm trong hiện tại.
[277] Văn Cú không nói rõ nhưng đoạn này là bắt đầu trích dẫn những chi tiết được mô tả trong kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa như câu trước vừa nói.
[278] Trong kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa, trọn bài kệ tán thán này có 102 câu, mỗi câu đều có 7 chữ nên gọi là thể kệ thất ngôn. Toàn bộ nội dung bài kệ xưng tán công đức, phẩm đức của Phật.
[279] Tức phần kinh văn theo ĐCT, T9, 262, từ trang 2b, d.7 đến d.24.
[280] Nguyên tác gọi là “瑤師 - Dao Sư”, tức ngài Thích Pháp Dao (釋法瑤), hay Đàm Dao (曇瑤), tăng sĩ vào đời Tống, ở chùa Tiểu Sơn (小山寺) quận Ngô Hưng. Đến đời Tùy quận này đổi thành Hồ Châu, tức huyện Ô Trình.
[281] Đây dẫn theo kinh văn nói từ trời mưa xuống 4 loại hoa quý là hoa mạn-đà-la (曼陀羅華), hoa ma-ha mạn-đà-la (摩訶曼陀羅華), hoa mạn-thù-sa (曼殊沙華), hoa ma-ha mạn-thù-sa (摩訶曼殊沙華).
[282] Đây là trích một câu trong bài kệ trả lời của ngài Văn-thù-sư-lợi: “今相如本瑞 - Kim tướng như bản thụy.”
[283] Mười điều vi diệu hay Thập diệu trong kinh Pháp hoa bao gồm: cảnh diệu, trí diệu, hạnh diệu, vị diệu, tam pháp diệu (hay thừa diệu), cảm ứng diệu, thần thông diệu, thuyết pháp diệu, quyến thuộc diệu và lợi ích diệu.
[284] Văn Cú Ký cho rằng chỗ này e có nhầm lẫn, vì trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói là Thần thông diệu trung. (言感應中已說者, 恐文誤也。玄文列在神通妙中 - Ngôn cảm ứng trung dĩ thuyết giả, khủng ngộ văn giả. Huyền văn liệt tại thần thông diệu trung.)
[285] Tức kinh Bồ Tát thiện giới (菩薩善戒經), quyển 7, do ngài Cầu-na-bạt-ma (求那跋摩) dịch sang Hán ngữ (ĐCT, 30, 1582). Phần trích dẫn là bắt đầu từ dòng 24, trang 999c, cho đến dòng 8, trang 1000a. Phần này Văn Cú trích lại quá giản lược nên chúng tôi căn cứ kinh văn để bổ sung cho rõ ý.
[286] Vaipulya (Tỳ-phật-lược).
[287] Văn Cú chỗ này dùng chữ “捒 - thúc”, nghĩa như chữ “束 - thúc”, trong khi Văn Cú Ký thay bằng chữ “揀 - giản”, chúng tôi xét thấy hợp lý hơn. Rất có thể Văn Cú có lỗi khi in ấn vì hai chữ này rất giống nhau.
[288] Nguyên tác dùng “生師 - Sinh sư”, tức là ngài Trúc Đạo Sinh (竺道生), sinh vào khoảng năm 355, mất khoảng năm 434, là cao tăng uyên bác đồng thời với ngài Cưu-ma-la-thập. Ngài có dịch và giảng kinh Pháp hoa nên kiến giải của ngài được dẫn ở đây.
[289] Nguyên tác dùng “觀師 - Quán sư”, tức ngài Tuệ Quán (慧觀), một cao tăng uyên bác và là đệ tử kiệt xuất của ngài Cưu-ma-la-thập, từng soạn Pháp hoa tông yếu tự (法華宗要序) được ngài Cưu-ma-la-thập hết sức ngợi khen.
[290] Văn Cú Ký giải thích chỗ này rõ hơn: Hai kinh Bát-nhã và Tịnh Danh cũng thuyết nghĩa vô tướng nhưng không có phần Tự.
[291] Văn Cú Ký giải thích: Tuy cùng là vô tướng nhưng vì nói ra trước sau nên có khác.
[292] Theo nhiều bản chú sớ khác thì Cơ sư chỉ ngài Khuy Cơ (窺基), một đệ tử của ngài Huyền Trang, còn được gọi là Linh Cơ (靈基), Thừa Cơ (乘基), Đại thừa Cơ (大乘基), Cơ Pháp Sư (基法師), hay Từ Ân Cơ Sư (慈恩基師). Nếu đúng vậy thì ý này hẳn do ngài Huyền Lãng thêm vào sau chứ không phải do Đại sư Trí Khải viết ra.
[293] Văn Cú Ký nói rằng Ấn sư là đệ tử của Long sư, Long sư là đệ tử của ngài Tuệ Viễn (334-416), chúng tôi vẫn chưa rõ đây là vị nào.
[294] Văn Cú Ký giải thích: Trước đây Phật nói giáo nghĩa hữu tướng, rốt ráo không phải nhân thành Phật. Chỉ đến khi thuyết dạy lẽ vô tướng mới có nghĩa thành Phật.
[295] Câu này tối nghĩa, chúng tôi dựa theo Văn Cú Ký giải thích: “Kinh Vô lượng nghĩa chưa được phiên dịch.” Như vậy ở đây nói “không đến đất nhà Tần” (不來秦地 - bất lai Tần địa) có nghĩa là chưa được dịch.
[296] Lưu Cầu (劉虬), cư sĩ Phật giáo người Trung quốc, sống vào đời Nam Tề, người Niết Dương, Nam Dương, (phía nam huyện Trấn bình, tỉnh Hà nam hiện nay). Ông sinh năm 437, mất năm 495, từng giảng kinh Niết-bàn, Bát-nhã, Pháp hoa. Ông có soạn bộ Chú Pháp hoa Kinh nhưng đã thất truyền. Những nội dung trích dẫn ở đây có thể là lấy từ bộ chú giải này.
[297] Tức là kinh Phật thuyết Quán Phổ Hiền Bồ Tát hành pháp (佛說觀普賢菩薩行法經) (ĐCT, T9, 277). Phần nội dung được lược trích ở đây có thể xem chi tiết ở trang 392c, d.15 - 21.
[298] Tức là nói kinh Vô lượng nghĩa ở trước và kinh Quán Phổ Hiền ở sau.
[299] Ở đây phản biện bằng cách chỉ rõ trong kinh Niết-bàn, tức Đại Bát Niết-bàn kinh, tuy phần tự là phẩm Thuần-đà đã khai mở lẽ thường, nhưng kinh văn vẫn tiếp tục nói rộng các lẽ thường, lạc, ngã, tịnh.
[300] Kinh Tịnh Danh, là tên khác của Duy-ma-cật sở thuyết kinh.
[301] Chung cùng ở đây là chung cùng với Nhị thừa. Nguyên tác dùng “共因 - cộng nhân”. Đức Phật có 18 pháp bất cộng là không chung cùng với hai thừa. Hàng Bồ Tát Thông giáo chưa dứt hẳn nhân Nhị thừa nên gọi là chung cùng.
[302] Tập chủng tánh (習種性): chủng tánh có được nhờ huân tập tu hành qua thời gian.
[303] Tánh chủng tánh (性種性): chủng tánh tự nhiên vốn có của chúng sinh từ vô thủy, nay nhờ tu tập mới được phát huy hiển lộ.
[304] Bánh xe vàng: kim luân (金輪), bản Đại Chánh tạng chỗ này chép nhầm là ca luân (迦輪), không có nghĩa. Chúng tôi đã đối chiếu bản khắc gỗ của Càn Long tạng, đúng là chữ kim luân.
[305] Bốn câu này là: “Vũ đại pháp vũ, xuy đại pháp loa, kích đại pháp cổ, diễn đại pháp nghĩa.”
[306] Văn Cú Ký giải thích câu này là trong Pháp hoa huyền nghĩa cũng sử dụng phương thức dùng danh xưng Thông giáo nói nghĩa Viên giáo (名通義圓 - danh Thông nghĩa Viên), nay ở đây hiểu theo nghĩa ấy thì không có gì lạ.
[307] Mỗi thế giới Phật là chỉ cho khắp cõi thế giới do một vị Phật giáo hóa.
[308] Chỉ sự bám chấp của nơi sáu căn với sáu trần cảnh.
[309] Nguyên tác dùng “縱橫 - tung hoành”, Văn Cú Ký dùng “hoành thụ” để thay thế. Như vậy là ý nghĩa như nhau, đều chỉ cách giải thích dựa theo thời gian, “hoành” nghĩa là đồng thời, trong cùng một thời điểm và “tung” hay “thụ” nghĩa là diễn tiến theo trình tự thời gian, có trước sau khác biệt.
[310] Kinh Ưu-bà-tắc thanh tịnh hạnh (優婆塞清淨行經) hiện chúng tôi chưa tìm thấy trong Đại Chánh tạng, có lẽ đã thất truyền hoặc mang một tên khác.
[311] Ở đây giải thích theo y lý Trung Hoa.
[312] Động, khởi, dũng, chấn, hống, giác (動起涌震吼覺), Văn Cú Ký dẫn cách giải thích mới là động, dũng, chấn, kích, hống, bộc (動踊震擊吼爆). Văn Cú Ký cũng giải thích ý nghĩa chi tiết, động là rung động, dao động, khởi là từ thấp lên cao, dũng là từ chỗ thấp vọt mạnh lên cao, chấn là rung động có âm thanh phát ra, hống là phát ra âm thanh lớn có tiếng vọng lại, giác là khiến cho chúng sinh được giác ngộ.
[313] Nguyên tác dùng “大經 - Đại kinh”, thường mang nghĩa là kinh quan trọng nhất. Ý nghĩa quan trọng nhất này được hiểu khác nhau ở mỗi tông phái. Vì sách này biên soạn chủ yếu theo giáo lý tông Thiên Thai nên Đại kinh ở đây chỉ kinh Đại Bát Niết-bàn, được xem là quan trọng nhất. Câu trích dẫn này nằm trong kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2, phẩm Ai thán thứ 3: “動時能令眾生心動 - Động thời năng linh chúng sinh tâm động.” (ĐCT, 12, 375, tr.615a, d.24)
[314] Nguyên tác dùng Quán Phật Hải Tam-muội kinh (觀佛海三昧經), nhưng đoạn trích dẫn này thật ra được trích lại từ Pháp hoa nghĩa sớ (法華義疏) (ĐCT, T34, 1721). Tuy nhiên, Pháp hoa nghĩa sớ ghi tên kinh này là Quán Phật Tam-muội kinh (觀佛三昧經), trong khi tên chính thức hiện còn trong Đại Chánh tạng là Phật thuyết Quán Phật Tam-muội hải kinh (佛說觀佛三昧海經) (ĐCT, T15, 643).
[315] Ở đây là thước cổ, bằng khoảng 33 cm.
[316] Nguyên tác là “一丈四尺 - nhất trượng tứ xích”, mỗi trượng là 10 thước.
[317] Nguyên tác dùng Nhị đế, thông thường là chỉ Chân đế và Tục đế, nhưng trong ngữ cảnh trình bày giáo lý tông Thiên Thai nên đây là Không đế và Giả đế, hợp với Trung đạo thành Tam đế của tông Thiên Thai.
[318] Nguyên tác dùng diện môn (面門) được dịch từ Phạn ngữ mukha, có ba nghĩa khác nhau, chỉ miệng, hoặc cả khuôn mặt, hoặc khoảng ngay dưới mũi và trên miệng. Trong trường hợp kinh Đại Bát Niết-bàn có thể hiểu là cả khuôn mặt. Tuy nhiên, Văn Cú Ký giải thích là từ nơi miệng.
[319] Nguyên tác nói “育王經 - Dục vương kinh”, tức là A-dục vương kinh (阿育王經), do ngài Tăng-già-ba-la Hán dịch. (ĐCT, T50, 2043)
[320] Văn Cú dùng “膩吒天 - Nị-trá thiên”, Văn Cú Ký thay bằng “尼吒 - Ni-trá thiên”. Đây đều là nói giản lược để chỉ A-ca-ni-trá thiên (阿迦尼吒天), phiên âm từ Phạn ngữ Akaniṣṭha-deva, là một trong 18 tầng trời của Sắc giới (色界十八天) và là cõi trời cao nhất, một trong Ngũ Tịnh cư thiên (五淨居天), cũng được gọi là cõi trời Hữu đỉnh (有頂天), Nhất cứu cánh thiên (一 究竟天) hay Nhất thiện thiên (一善天).
[321] Nguyên tác dùng “生身 - sinh thân”, tức là thân do cha mẹ sinh ra, cũng gọi là thân thế gian hay nhục thân, tức là thân xác thịt. Thân này phân biệt với pháp thân không hình tướng, không giới hạn.
[322] Nguyên tác dùng “增道損生 - tăng đạo tổn sinh”, chỉ việc Bồ Tát tu tập đúng hướng nên trí tuệ về Trung đạo ngày càng tăng trưởng và biến dịch sinh tử ngày càng suy giảm. Đây là giáo lý đặc thù của tông Thiên Thai.
[323] Nguyên tác dùng “四位 - tứ vị”, ở đây chỉ Noãn vị, Đỉnh vị, Nhẫn vị và Thế đệ nhất pháp vị.
[324] 18 giới hay thập bát giới là chỉ 18 phạm vi do sáu căn tiếp xúc với sáu trần có sáu thức sinh ra ở khoảng giữa. Sáu căn thuộc về thân thể nên gọi là sáu nội giới, sáu trần thuộc về ngoại cảnh nên gọi là sáu ngoại giới, sáu thức khởi sinh ở giữa do sự tiếp xúc giữa căn với trần nên gọi là sáu trung giới.
[325] Tức là các thế giới về phương đông được hào quang Phật soi chiếu.
[326] Kinh văn trong Đại Chánh tạng (Tập 9, 262, trang 2b), từ d.19 đến d.23.
[327] Tức kinh văn đã dẫn trên, d.23 - 24.
[328] Cộng và bất cộng, có nghĩa là chung cùng hoặc không chung cùng, chỉ các pháp có thể thích hợp, cộng thông với các pháp khác hoặc chỉ có thể hiện hành riêng biệt không chung cùng. Chẳng hạn như những công đức mà chỉ có chư Phật mới có được thì gọi là bất cộng, vì không chung cùng với hàng Bồ Tát hay Nhị thừa.
[329] Đây là trích từ kinh văn: “四眾欣仰瞻仁及我 - Tứ chúng hân ngưỡng chiêm nhân cập ngã.” (ĐCT, T9, 262, trang 3c, d.4.)
[330] Trong nguyên tác đến đây hết quyển 2, bắt đầu quyển 3.