Có người hỏi rằng: “Trong ba đạo là Nho, Thích và Lão, có 
					chỗ nào giống nhau hoặc khác nhau chăng? Có điểm nào hơn kém 
					nhau chăng?”
				  Nhất Nguyên đáp: “Ba đạo ấy giống nhau, lại cũng khác nhau; 
					có hơn nhau, lại cũng không hơn nhau.”
				  Người kia hỏi: “Thầy nói vậy là ý thế nào?”
				  Đáp: “Người có tâm lượng rộng lớn biết vận dụng thì là giống 
					nhau, hơn nhau. Kẻ căn cơ thấp kém cố chấp vào đạo mình chỉ 
					thấy là những điều khác nhau, kém nhau. Cả ba đạo đều từ nơi 
					một bản tánh mà khởi dùng, chỉ do căn cơ và sự thấy biết 
					khác nhau nên mới có chỗ giống nhau, khác nhau, hoặc hơn 
					hoặc kém.”
				  Lại hỏi: “Tôi có thể được nghe cái lý giống nhau, khác nhau, 
					hoặc hơn hoặc kém đó hay chăng?” 
				  Đáp: “Trương Vô Tận có lần hỏi thiền sư Đại Huệ: ‘Các vua 
					Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ đều là thánh nhân, sao đạo Phật 
					chẳng bao giờ nói đến?’ Thiền sư hỏi lại: ‘Nghiêu, Thuấn, 
					Thang, Vũ so với Phạm vương, Đế thích có hơn kém gì chăng?’ 
					Trương Vô Tận đáp: ‘Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ vốn không thể 
					sánh với Phạm vương, Đế thích, nói chi đến chuyện hơn kém?’ 
					Thiền sư nói: ‘Phật xem Phạm vương, Đế thích cũng là phàm 
					phu. Theo đó có thể biết về những hạng khác.’ Trương Vô Tận 
					vỗ tay ngợi khen rằng: ‘Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ đều kém xa 
					Phạm vương, Đế thích. Phật xem Phạm, Thích chỉ là phàm phu, 
					đủ biết rằng Phật là bậc thánh cao nhất trong các thánh, vị 
					thiên chủ cao nhất trong chư thiên, là bậc Pháp vương cao 
					trổi nhất, bậc Chánh đẳng Chánh giác!’
				  “Ngày trước, chúa Ngô là Tôn Quyền hỏi quan Thượng thư là 
					Hám Trạch rằng: ‘Khổng tử và Lão tử có thể đem so sánh với 
					Phật chăng?’ Hám Trạch đáp: ‘Nếu đem cả hai nhà Khổng, Lão 
					ra mà so sánh với pháp Phật thì càng so sánh lại càng cách 
					xa thêm.’ Lẽ tất nhiên là như vậy. Đạo Khổng và đạo Lão được 
					lập ra dựa theo phép trời để chế định rồi vận dụng, chẳng 
					dám trái với trời. Đức Phật lập ra giáo pháp, chư thiên đều 
					kính cẩn làm theo, chẳng dám trái lời Phật. Dựa theo đó mà 
					nói thì quả thật không thể so sánh được, rõ ràng là như vậy.
				  “Kinh Thư nói: ‘Kẻ sĩ kính ngưỡng người hiền, người hiền 
					kính ngưỡng bậc thánh, bậc thánh kính ngưỡng trời.’ Cao quý 
					nhất trời không ngoài Ngọc đế. Ngọc đế đem so với vị 
					A-la-hán cũng như người thơ lại đem so với vị tiến sĩ, huống 
					chi là Phật? Phật là thầy của hàng Bồ Tát Duyên giác, Thanh 
					văn, nên chính là thầy của các vị thánh.
				  Người kia lại hỏi: “Thế đạo Tiên so với đạo Phật thì thế 
					nào?”
				  Nhất Nguyên đáp: “Thần tiên nằm trong sự cai quản của Ngọc 
					đế, lẽ nào có thể đem so với Phật? Huống chi, đạo Tiên khó 
					tu, lại vẫn có ngày phải rơi xuống những cảnh giới thấp kém 
					hơn; đạo Phật dễ học, đã tu theo thì mãi mãi không bao giờ 
					thối chuyển. 
				  “Kinh Lăng Nghiêm nói: ‘Trong đời có mười loại tiên, thảy 
					đều chưa từng tu đạo Chánh giác. Khi phước báo hết phải rơi 
					vào các cảnh giới thấp kém hơn.’ Như muốn thoát vòng sanh 
					tử, vượt trên cả hai bậc thánh phàm, chỉ duy nhất có một 
					đường tu Phật mà thôi.
				  “Thuở trước, đức Thích-ca ngợi khen Phật Phất-sa rằng: 
				  Khắp đất trời không ai như Phật,
				  Trong cả mười phương cũng chẳng bằng, 
				  Từng xem khắp thảy thế gian này,
				  Không ai tôn quý như đức Phật!
				  “Quả là như vậy!
				  “Sách Liệt tử chép việc Thái tể Thương hỏi đức Khổng tử 
					rằng: ‘Thầy có phải bậc thánh chăng?’ 
				  “Khổng tử đáp: ‘Ta nghe nhiều nhớ giỏi, nhưng chẳng phải bậc 
					thánh.’ 
				  “Lại hỏi: ‘Tam vương có phải là thánh chăng?’ 
				  “Đáp: ‘Tam vương dựa vào trí dũng, còn thánh hay không thì 
					Khâu này không biết.’ 
				  “Lại hỏi: ‘Như vậy, hẳn Ngũ đế phải là bậc thánh?’ 
				  “Đáp: ‘Ngũ đế gánh vác được nhân nghĩa, còn thánh hay không 
					thì Khâu này không biết.’ 
				  “Lại hỏi: ‘Thế Tam hoàng đời thượng cổ có phải thánh chăng?’
				  
				  “Đáp: ‘Tam hoàng đời thượng cổ giỏi vận dụng theo thời cơ, 
					còn như thánh hay không thì Khâu này chẳng biết.’
				  “Thái tể hỏi: ‘Vậy ai là thánh?’ 
				  “Bấy giờ, đức Khổng tử đổi hẳn sắc mặt, đáp: ‘Bên phương tây 
					có vị đại thánh nhân, không trị mà dân chẳng loạn, không nói 
					mà dân tin cậy, không giáo hóa mà dân thi hành, dường mênh 
					mông rộng lớn thay, dân không thể nào nói ra hết được!’
				  “Quả thật là: ‘Muôn hình vạn tượng đến chỗ không là rốt 
					cùng; trăm sông cùng chảy đến biển cả là rốt cùng; hết thảy 
					hiền thánh đến quả Phật là rốt cùng; hết thảy giáo pháp đến 
					tâm là rốt cùng.’ Tâm là cội gốc nhiệm mầu của sự thâu tóm, 
					giữ gìn; là cội nguồn lớn lao của muôn pháp; cũng gọi là kho 
					chứa đại trí huệ, là Niết-bàn Vô trụ, cho đến trăm ngàn muôn 
					tên gọi cũng đều chỉ là những hiệu khác nhau của tâm mà 
					thôi.
				  “Sách Mạnh tử nói: ‘Ai cũng có thể làm vua Nghiêu, vua 
					Thuấn.’ Sách Tuân tử nói: ‘Người đi trên đường đó, ai cũng 
					có thể làm vua Vũ.’ Bồ Tát Thường Bất Khinh nói: ‘Tôi không 
					dám xem thường các ông, các ông đều sẽ thành Phật.’ 
				  “Đó là ý nghĩa: ai ai cũng có thể là thánh hiền, người người 
					đều có thể thành Phật.
				  “Tây phương Tịnh độ là pháp môn thiết yếu, thẳng tắt mau 
					chóng, ai ai cũng tu được, cho dù là xuất gia hay tại gia, 
					chỉ cần phân rõ lẽ tâm. Vốn thật không có nam nữ, vì sao 
					phải vướng mắc nơi hình tướng? Kẻ mê mờ mới sai lầm phân 
					biệt Tam giáo, người đã thấu rõ rồi thảy đều ngộ ở một tâm.
				  “Vả lại, tâm của thánh nhân là chân chánh, lời dạy của thánh 
					nhân là tốt lành, chẳng cần phải là tăng sĩ hay nho sĩ, đạo 
					này hay đạo kia. Có đạo này, đạo kia là do tình thức; phân 
					biệt tăng sĩ, nho sĩ là do hình tích. Thánh nhân truyền lại 
					hình tích vì giữ lấy gốc; thánh nhân làm theo tình thức vì 
					thuận theo tánh. Giữ lấy gốc mà không trói buộc nơi hình 
					tích, nên có thể nói pháp quyền biến; thuận theo tánh mà 
					không đắm mê nơi tình thức, nên có thể nói pháp chân thật.
				  “Nói về đạo lớn, chỉ một tâm này gọi là đạo; rộng truyền đạo 
					ấy gọi là giáo pháp. Giáo pháp là hình tích để lại của thánh 
					nhân; đạo là cội gốc lớn lao của muôn loài. Vì thế, người 
					học chỉ nên lìa bỏ tình trần mà hợp theo linh giác, không 
					thể nhận lấy sự giả dối mà mê lấp sự chân thật.
				  “Này các vị! Đạo Nho, không nhất định là Nho; đạo Lão, không 
					nhất định là Lão; cho nên biết rằng tất cả đều có thể thành 
					Phật. Không chỉ riêng người trong Tam giáo, mà cho đến người 
					trong tất cả các học phái cũng đều có thể thành Phật. Như 
					vậy sao người còn không tu hành? Sao lại xem thường Tịnh độ 
					mà chẳng sanh về?”
				  Người kia hỏi: “Chỉ cần tự mình rõ biết việc sanh tử, cần 
					chi phải khổ nhọc khuyên dạy người khác?”
				  Đáp rằng: “Chẳng phải vậy. Ông há chẳng nghe rằng: Đức Như 
					Lai ra đời, không một pháp nào không vì lợi ích chúng sanh; 
					Bồ Tát tu hành, không một mảy may lo cho riêng mình. Pháp 
					môn này, nếu người khác được biết, cũng như ta biết, chẳng 
					vui sướng lắm sao? Nếu người khác không biết, như ta không 
					biết, chẳng đau xót lắm sao?
				  “Kinh Hoa Nghiêm dạy: ‘Không phải chúng sanh thỉnh cầu ta 
					phát tâm, tự ta vì chúng sanh làm người bạn không đợi cầu 
					thỉnh.’
				  “Sách Luận ngữ nói: ‘Tự mình muốn dựng lập, hãy giúp người 
					dựng lập; tự mình muốn thành đạt, hãy giúp người thành đạt.’ 
					Suy lòng mình, hiểu được lòng người, đó là tâm địa của người 
					có đức nhân.
				  “Nếu dừng ở chỗ tự tu cho riêng mình, đó là hàng Thanh văn, 
					gọi là Tiểu thừa. Tiểu thừa ví như cỗ xe nhỏ, chẳng qua chỉ 
					chở được riêng mình mà thôi, nên Phật nói là dứt mất hạt 
					giống Phật. Nếu có thể rộng khuyên nhiều người thì gọi là 
					hàng Bồ Tát Đại thừa. Đại thừa ví như cỗ xe lớn, chở được cả 
					mình và người khác. Như vậy đạt được vô lượng phước báo, nhờ 
					đó có thể tiến lên quả Phật.
				  “Chư Phật mười phương nhiều như số cát sông Hằng đều ngợi 
					khen công đức của Phật A-di-đà là không thể nghĩ bàn, nghĩa 
					là không thể đem tâm trí mà xét, không thể dùng lời nói mà 
					luận. Công đức như vậy có thể gọi là đến mức cùng cực. Cho 
					nên Bồ Tát Đại Từ có kệ khuyến tu rằng:
				  Khuyên được vài người tu, 
				  Ví như tự tinh tấn.
				  Khuyên được hơn mười người, 
				  Phước đức thật vô lượng.
				  Khuyên được trăm, ngàn người, 
				  Đó thật là Bồ Tát.
				  Khuyên được hàng vạn người, 
				  Chính thật A-di-đà! 
				  “Do đó mà suy ra, thuyết Tây phương có thể phổ biến khắp 
					thiên hạ, hết thảy chúng sanh trong biển khổ đều có thể sanh 
					về Tịnh độ. Nếu thấy một người lui bước, chúng ta nên cùng 
					nhau hợp sức mà nâng đỡ, dẫn dắt; nếu có kẻ qua đời rời bỏ 
					cõi phàm này, chúng ta nên thay nhau chiếu cố. 
				  “Dù không đủ sức rộng truyền giáo pháp lợi ích muôn loài, 
					nhưng ta cũng có thể nghĩ nhớ lại việc xưa để biết việc ngày 
					nay.
				  “Thí cho người một chút tiền bạc, người liền nói lời biết 
					ơn; vậy giúp cho người một lời nói có ích, lẽ nào người lại 
					không biết hay sao? 
				  “Bố thí tiền bạc hẳn cứu giúp được sự nghèo khó cho người. 
					Bố thí thức ăn hẳn cứu giúp được mạng sống cho người. Bố thí 
					Chánh pháp ắt có thể khiến cho người vượt ra khỏi thế tục, 
					công đức có gì sánh bằng? 
				  “Bố thí tài vật ví như ngọn đèn, chỉ sáng trong căn nhà nhỏ. 
					Bố thí Chánh pháp ví như mặt trời, soi chiếu khắp cõi thế 
					giới. Tham tiếc Chánh pháp mà chẳng rộng khuyên người tu tập 
					thì phải nhiều kiếp đọa vào địa ngục đen tối. Tự xét lòng 
					mình mà đem Chánh pháp giáo hóa người khác, ngay trong đời 
					này đã là Phật Di-đà. 
				  “Rất mong ai nấy đều khởi lòng từ, thay nhau khuyên người 
					phát tâm tu tập, do bi nguyện này mà kết mối duyên lành 
					thanh tịnh, vớt lấy kẻ chơi vơi chìm đắm; cứu lấy người mê 
					muội quên tánh giác, cùng nhau sanh về Cực Lạc, trọn báo đền 
					ơn Phật. Đó gọi là: Với hết thảy chúng mê, nguyện đưa về bến 
					giác!”
				  
19. Biện minh việc đản sanh trước sau của ba vị Thánh nhân 
				  Tam giáo
				  Sách Tam giáo pháp số nói rằng: “Đời vua thứ tư của nhà Chu 
					là Chu Chiêu Vương, vào năm Giáp Dần, đức Phật Thích-ca đản 
					sanh tại thành Ca-duy-vệ.
				  “Đời Chu Mục Vương, năm thứ năm mươi ba, Nhâm Thân, đức Như 
					Lai nhập Niết-bàn, thọ 80 tuổi. 
				  “Sau khi Phật diệt độ 1080 năm, Phật pháp truyền đến Trung 
					Hoa vào đời Hán Minh đế, niên hiệu Vĩnh Bình. 
				  “Phật đản sanh trước, đến 422 năm sau đức Lão tử mới ra đời, 
					vào đời Chu Định Vương.
				  “Phật đản sanh trước, đến 477 năm sau đức Khổng tử mới ra 
					đời, vào đời Chu Linh Vương.
				  “Nay thuật văn này để người đời sau đều được biết, như cái 
					vạc kia tuy phân ra có ba chân nhưng vẫn cùng chung một mục 
					đích.”