Tôi có nghe rằng: Chư Phật vì một việc nhân duyên lớn nên 
					vào núi tu hành, chứng thành đạo quả cứu độ chúng sanh. 
					Những người hậu học ắt phải noi theo chỗ làm của bậc đã giác 
					ngộ mới có thể thấu rõ việc đại sự ấy, nên cũng phải ẩn mình 
					trong rừng núi mà suy xét việc này. Có người tìm đến hỏi 
					rằng: “Thầy ở đây làm gì?”
				  Nhất Nguyên đáp: “Học đạo Phật.”
				  Lại hỏi: “Có thể nói cho tôi nghe cái lý của đạo Phật được 
					chăng?”
				  Đáp: “Ông cứ tùy ý hỏi, tôi sẽ đáp.”
				  Khách nói: “Giáo pháp của hai đạo Thích, Lão vốn đều là 
					những sự dị đoan, thầy theo học làm gì?” 
				  Nhất Nguyên hỏi: “Vì sao ông lại nói như vậy?”
				  Khách đáp: “Cái hư vô của đạo Lão, sự tịch diệt của đạo 
					Phật, chẳng phải đều là dị đoan đó sao?”
				  Nhất Nguyên cười hỏi lại rằng: “Ông đã từng đọc những sách 
					nói về hư vô, tịch diệt hay chưa?”
				  Đáp: “Đó là giáo pháp dị đoan, chẳng cần xem đến.”
				  Nhất Nguyên nói: “Kinh sách của họ ông còn chưa đọc, sao 
					biết được là đạo dị đoan? Như vậy chẳng phải giáo pháp các 
					đạo ấy là dị đoan, mà chính là tự ông chấp lấy sự dị đoan. 
					Nếu ông hiểu được Khổng tử, ắt sẽ hiểu được Phật, Lão. Vì 
					không hiểu Khổng tử nên mới chống báng với Phật, Lão đó 
					thôi. Trương Vô Tận nói rằng: ‘Ta nhờ học Phật rồi sau mới 
					rõ được đạo Nho.’ Lời ấy thật đúng lý thay!”
				  Khách chắp tay vái, hỏi tiếp rằng: “Thầy có thể nói cho tôi 
					nghe lý rốt ráo của cả Tam giáo được chăng?”
				  Đáp: “Nghe thì có thể được, chỉ sợ ông không thể làm theo. 
					Nếu như thường làm theo thì có thể trở thành như Khổng tử, 
					như Lão tử, cũng có thể thành Phật. Còn như nghe mà chẳng 
					tin, hoặc tin mà chẳng làm, thì có khác chi cái bánh vẽ, 
					không thể no lòng.”
				  Khách thưa rằng: “Xin thầy giảng giải, tôi nguyện sẽ làm 
					theo.”
				  Nhất Nguyên nói: “Chỗ rốt ráo trong cả Tam giáo chỉ một sự 
					nhất tâm mà thôi. Tâm là nguồn cội của con người. Đạo Phật 
					nói: ‘Tâm là vua các pháp.’ Đạo Lão nói: ‘Tâm là vua của 
					chúng.” Đạo Nho nói: ‘Tâm là chủ của người.’ 
				  “Tất cả pháp đều không ra ngoài tâm. Nếu vua chẳng động ắt 
					muôn dân đều yên ổn, tâm không rối loạn thì những điều tà 
					vạy không sanh khởi. Đó thật là: Tâm có chủ định ắt không 
					thể rối loạn.
				  “Đạo Phật dạy: ‘Pháp môn tâm địa không phải ở nơi sự biện 
					luận.’ Đạo Lão nói: “Tâm địa ra công, việc đời dứt sạch.” 
					Đạo Nho nói: ‘Nói không bằng làm, làm không bằng đạt tới.’ 
					Thảy đều nói sự thiết yếu là chỗ rốt cùng chân thật, đạt tới 
					nguồn cội này, thấu rõ thật nghĩa, quay về cội gốc, tùy cơ 
					duyên mà có sự cảm ứng. 
				  “Cho nên, đức Khổng tử lấy sự vắng lặng chẳng động làm thể, 
					chỗ dụng là cảm ứng mà thông suốt; đức Phật lấy tâm an định 
					làm thể, chỗ dụng là trí huệ. Lão tử lấy hư vô làm thể, chỗ 
					dụng là hiện hữu nhiệm mầu. Đều là cùng một ý như thế.
				  “Than ôi! Không chỉ là học giả đời nay không thấy được đạo 
					Phu tử, không hiểu được lòng Phu tử, cho đến trong số môn đệ 
					đương thời có Nhan tử được xem là đầy đủ đức hạnh của bậc 
					thánh, nhưng dùng hết sức bình sanh cũng chỉ nói được rằng: 
					‘Mới nhìn thấy trước mặt, bỗng hiện lại sau lưng...” như 
					đứng sừng sững đó nhưng rốt cùng chẳng thể nắm bắt, sờ mó 
					được.
				  “Tuy vậy, đức Khổng tử đã mở bày chỉ bảo rất rõ ràng. Ngài 
					dạy các môn đệ rằng: ‘Các ông cho rằng ta có chỗ che giấu ư? 
					Ta không che giấu điều chi cả.’ Theo đó mà xét ra, thánh 
					nhân chưa hề có sự che giấu, tránh né các đệ tử, chỉ do hàng 
					đệ tử tự có chỗ sai lệch, hiểu lầm đó thôi.
				  “Lại như trong kinh Pháp hoa, Phật dạy: “Kinh này mở cánh 
					cửa phương tiện, chỉ rõ tướng chân thật.” Kinh Pháp hoa này 
					hàm chứa sự sâu xa, kiên cố và ẩn mật, huyền nhiệm, không ai 
					có thể thấu triệt nổi. Vì sao vậy? Pháp này không thể dùng 
					sự suy lường phân biệt mà hiểu được. Hết thảy Thanh văn, 
					Duyên giác đều không hiểu nổi, cho đến tất cả các vị đại Bồ 
					Tát cũng không hiểu nổi. Chỉ riêng Phật với Phật mới có thể 
					cứu xét đến cùng pháp ấy.
				  “Than ôi! Các vị hiền thánh trong ba thừa còn không thể suy 
					lường trí Phật, huống chi phàm phu lại có thể xét lường được 
					sao? Lấy cái tình thức của người phàm mà suy lường trí Phật, 
					khác nào dùng chút lửa đom đóm mà đốt núi Tu-di! Thật không 
					chút ảnh hưởng gì, chỉ uổng công khó nhọc. Nào biết rằng 
					Pháp thân chân thật của Phật dường như hư không, ứng theo 
					vật mà hiện ra hình như trăng dưới nước, khi rộng thì bao 
					trùm cả pháp giới, khi hẹp thì nhỏ như hạt cải cũng khó lọt 
					vào, khi dùng đến thì cả pháp giới đều hiện rõ, khi buông bỏ 
					thì một hạt bụi cũng chẳng thành, cho đến nỗi hư không nát 
					nghiền, cõi đất san bằng, chìm mất, chúng ma ngoại đạo kinh 
					hồn, khắp hàng trời người khiếp sợ. Chỗ rốt ráo của đạo là 
					như thế, có thể dùng văn tự, ngôn ngữ mà suy lường được sao?
				  “Kinh Hoa nghiêm có ý chính rằng: ‘Chỗ rộng lớn của pháp 
					giới, hư không chẳng sánh bằng. Chỗ mầu nhiệm chân thật duy 
					nhất, dù ngàn vị thánh ra công cũng không theo kịp. Chính là 
					chỗ dùng, cũng lìa khỏi chỗ dùng, phấn chấn như cọp ra oai; 
					chỗ sáng đến, chỗ tối đến, mạnh mẽ như uy thế con trâu sắt; 
					ném cả thế giới Đại thiên ra ngoài tám hướng cũng không ngay 
					không lệch; ép núi Tu-di vào trong một hạt cải cũng không 
					chèn ép, chật hẹp. 
				  “Bảo đó là không, sao riêng có sự chân thật hiển bày; còn 
					bảo là có, thì dù một dấu tích nhỏ nhiệm cũng không tồn tại. 
					Hàng Thanh văn, Duyên giác không thể thấy được bờ bến; cho 
					đến hàng Bồ Tát từ Sơ địa trở lên cũng chưa hiểu rõ hết chỗ 
					viên dung. Chỉ có bậc căn cơ cao tột mới đốn ngộ tức thời, 
					còn hạng căn khí nhỏ nhoi ắt phải tu tập trải qua nhiều đời 
					nhiều kiếp. 
				  “Như vậy, kẻ phàm tục ngu si, thấy biết nông cạn, lẽ nào có 
					thể xét lường được sao? 
				  “Kinh Kim Cang dạy rằng: 
				  Nếu dùng sắc thấy Ta,
				  Dùng âm thanh cầu Ta.
				  Là người hành tà đạo,
				  Chẳng thể thấy Như Lai.
				  “Lại nói: ‘Không một pháp nào có thể thuyết, đó gọi là 
					thuyết pháp... Chẳng chấp giữ nơi tướng, như như chẳng 
					động.’ 
				  “Lão giáo nói: ‘Nhìn không thể thấy, nghe chẳng thể nghe, 
					lìa khỏi mọi giới hạn, đó gọi là diệu đạo.’ Lại nói: ‘Đạo 
					khó giảng nói, phải tự chứng ngộ. Pháp có thể truyền, nhưng 
					đạo không thể truyền.’
				  “Nho giáo nói: ‘Thấy không dùng mắt, nghe chẳng dùng tai, 
					lìa bỏ chỗ dùng của mắt và tai tự nhiên đạt được tánh.’ Lại 
					nói: ‘Đạo vốn không lời. Khởi nên lời nói thì chân lý tiêu 
					mất. Nếu dùng âm thanh, hình sắc để giáo hóa dân thì đó chỉ 
					là việc ở ngọn mà thôi.’ 
				  “Xét thật sâu xa chỗ rốt ráo của đạo trong Tam giáo, đều 
					không do nơi sự truyền dạy bằng văn tự. Trang tử nói: ‘Ví 
					như đạo có thể truyền được, sao người ta lại không truyền 
					cho con cháu? Ví như đạo mà dâng hiến được, sao người ta lại 
					không dâng hiến cho những người mình tôn kính?’ Sở dĩ đạo 
					không thể truyền, không thể dâng hiến, chỉ là vì khi bên 
					trong chưa làm chủ được tâm thì bên ngoài thật không có gì 
					để chứng đắc. 
				  “Lại kể chuyện rằng: ‘Phu tử muốn gặp Ôn Bá Tuyết tử đã lâu. 
					Đến khi gặp rồi, lặng thinh không nói lời nào. Khi ra về, Tử 
					Lộ lấy làm lạ hỏi rằng: ‘Thầy muốn gặp Ôn Bá Tuyết tử đã 
					lâu, nay sao lại không nói lời nào?’ Khổng tử đáp: ‘Người ấy 
					chỉ cần được tận mắt nhìn thấy thì còn có đạo, không thể 
					chấp nhận lời nói, ngôn ngữ.’ 
				  “Nên biết rằng đạo của Phu tử thật là vượt khỏi ngôn ngữ, 
					không giống như người đời nay chỉ giỏi văn tự mà không tu 
					đạo đức, chỉ đặt nặng danh vị với con người mà không tu lấy 
					sự cao quý theo đạo trời.
				  “Sách Luận ngữ viết: ‘Trời nói gì đâu? Bốn mùa chuyển vận, 
					trăm vật sanh sôi. Trời có nói gì đâu?’ Lại nói: ‘Văn chương 
					của đức Phu tử có thể được nghe, còn lời Phu tử nói về bản 
					tánh cùng với thiên đạo thì không thể được nghe.” Lại nói: 
					‘Đức hạnh là cội gốc, văn nghệ là ngọn.”
				  “Trong sách Thông thư của Chu tử có nói: ‘Không chuyên đạo 
					đức mà giỏi văn từ, đó chỉ là cái nghề mà thôi.’ Thuở xưa, 
					Tề Hoàn Công đọc sách nơi thư phòng, có người thợ làm bánh 
					xe bảo rằng: ‘Ngài đọc sách đó chỉ là cặn bã của cổ nhân, 
					không thể có được cái mùi vị chân thật thuần khiết.’ 
				  “Ngài Đạt-ma từ Ấn Độ sang đây, không lập thành văn tự, 
					riêng truyền ngoài giáo điển, chỉ thẳng nơi tâm người, thấy 
					tánh thành Phật, nào có câu nệ nơi văn tự, ngôn ngữ?
				  “Từ trước các bậc thánh trong Tam giáo vốn là không nói, 
					không thuyết, chỉ vì người đời sau mê mờ chân trí nên bất 
					đắc dĩ mới khai mở ra giáo môn để dạy người hậu thế. Tiếc 
					thay, người đời sau lại chẳng làm theo, như vậy là lỗi của 
					ai?
				  “Hòa thượng Phật Nhãn Viễn nói: ‘Người học không nên câu nệ 
					ở văn tự, ngôn ngữ. Hết thảy văn tự, ngôn ngữ đều là dựa 
					theo người khác mà hiểu nên làm chướng ngại sự tỏ ngộ của 
					chính mình, khiến cho không thể thoát ra khỏi cái giới hạn 
					biểu đạt của ngôn từ.’ 
				  “Ngày trước, lần đầu ông Đạt Quan Húc gặp hòa thượng Thạch 
					Môn Thông, chỉ muốn tranh tài biện luận. Hòa thượng nói: 
					‘Những điều ông nói đều chỉ là lời ghi chép trên giấy, đều 
					chưa đạt tới chỗ uyên áo rốt cùng, cần phải có sự tham cứu 
					cho đến chỗ chân thật chứng ngộ. Đạt ngộ rồi thì siêu việt 
					sừng sững giữa trời, chẳng dựa theo lời nói, chẳng trói buộc 
					nơi câu chữ, như sư tử chúa gầm rống, các loài thú đều khiếp 
					sợ, quay nhìn lại cái học văn tự khác nào như lấy hàng chục 
					so với hàng trăm, lấy hàng ngàn so với hàng vạn.
				  “Này các vị! Huống chi, nguồn đạo vốn chẳng xa, biển tánh 
					thật không ngăn cách, chỉ cần quay lại cầu nơi chính mình, 
					đừng chạy theo người khác mà tìm; dù tìm cũng không có được, 
					dù được cũng không phải chân thật. Người có thể làm cho đạo 
					rộng truyền, đạo không thể làm cho người phát triển. Kinh 
					Dịch nói: ‘Trăm họ thường dùng hằng ngày mà không biết, thật 
					đáng thương thay!’
				  “Than ôi! Ngay trong đời này nếu không liễu ngộ, ắt phải mãi 
					mãi chìm trong luân hồi. ‘Sáng được nghe đạo, chiều chết 
					cũng vui.’
				  “Khổng tử dạy rằng: ‘Muốn học chỗ rốt ráo của đạo, phải dứt 
					mọi niệm tưởng từ khi còn chưa chớm, trị tâm ý khi chưa sanh 
					khởi... Đừng cho rằng giấu kín thì không thấy, việc nhỏ thì 
					không bày rõ.’ Đó chính là làm cho tâm ý chân thành, không 
					tự dối mình.
				  “Lão tử nói: ‘Muốn được chỗ rốt ráo của đạo, phải lìa bỏ sự 
					thấy, nghe, nhận biết; quên tâm, quên cảnh, cho đến quên cả 
					cái quên. Quên được điều không thể quên mới thật là quên.’
				  “Đức Phật Thích-ca dạy rằng: ‘Muốn vào được chỗ rốt ráo của 
					đạo, phải lìa bỏ hết mọi sự tạo tác, dừng nghỉ, nhận lấy, 
					diệt bỏ. Nếu nói có chỗ giác ngộ tức là chưa lìa khỏi huyễn 
					ảo. Ngay cả sự lìa khỏi huyễn ảo cũng lìa bỏ đi. Một mà ba, 
					ba mà một, đó là đạo vậy.’
				  “Đạo Nho dạy: ‘Không giữ ý riêng, không định thời hạn, không 
					cố chấp điều đã biết, không lo cho riêng mình.’ Đạo Lão dạy: 
					‘Không hình tướng, không tên gọi, không có người làm, không 
					có việc được làm.’ Nhà Phật nói: ‘Không có tự ngã, không có 
					người khác, không oán ghét, không luyến ái.’ Cho nên, thánh 
					nhân trong Tam giáo đều không vượt qua một lý đạo ấy. 
				  “Khổng tử nói: ‘Ta biết được gì chăng? Ta không biết chi 
					cả.’ 
				  Kinh Lăng Nghiêm nói: ‘Thấy biết mà cho là biết, tức là gốc 
					của vô minh. Thấy biết mà không thấy biết, đó tức là 
					Niết-bàn.’
				  “Kệ Bát-nhã rằng: ‘Bát-nhã không biết nhưng không việc gì 
					không biết; Bát-nhã không thấy nhưng không việc gì không 
					thấy.
				  “Ngài Không Sanh lấy sự không nói để nói, Thiên đế lấy sự 
					không nghe để nghe. Đó là đạo nhiệm mầu của Bát-nhã chân 
					thật.
				  “Liệt tử nói: ‘Cho nên, bậc thánh nhân công cao như trời đất 
					mà chẳng nhân; sáng tỏ như mặt trời, mặt trăng mà thường 
					tối. Chẳng nhân là thi ân mà không mong sự báo đáp; thường 
					tối là chiếu sáng một cách vô tâm. Không làm mà trị yên cũng 
					là nghĩa ấy.’
				  “Khổng tử dạy người ‘làm tỏ rạng đức tánh sẵn có, làm cho 
					dân ngày càng mới mẻ, đạt đến mức chí thiện”. Nếu xét theo 
					lẽ ấy mà làm thì có thể được như Khổng tử.
				  “Lão tử dạy người ‘lấy đức chân thành mà vào, lấy sự lặng lẽ 
					mà giữ, lấy sự nhu thuận mà dùng’. Nếu xét theo lẽ ấy mà làm 
					thì có thể được như Lão tử.
				  “Đạo Phật dạy người ‘thi hành rộng rãi từ, bi, nguyện, lực.’ 
					Đại từ là mang điều vui đến cho tất cả chúng sanh. Đại bi là 
					cứu vớt khổ đau cho tất cả chúng sanh. Đại nguyện là nguyện 
					cho tất cả chúng sanh đều thành Chánh giác. Đại lực là độ 
					cho hết thảy chúng sanh đều ra khỏi Ba cõi.” Nếu xét theo lẽ 
					ấy mà làm thì có thể thành Phật. 
				  “Chỗ rốt ráo của đạo ví như vầng trăng thu lướt giữa trời 
					cao rộng, như đám mây bồng bềnh vừa thoát khỏi khe núi, hoát 
					nhiên tự tại, linh hoạt sanh động, tròn vành vạnh, sáng rỡ 
					rỡ, đã nhiệm mầu lại càng thêm mầu nhiệm.
				  “Nay tôi đã nói sơ qua chỗ rốt ráo của đạo trong Tam giáo để 
					ông được biết. Nếu nói về lý nhiệm mầu thì dù trọn kiếp cũng 
					không nói hết.
				  “Ôi! Thánh nhân luống phí tâm từ bi, kẻ hiểu nhau đâu cần 
					phải nói nhiều. Tôi khuyên mọi người hãy cùng nhau phát khởi 
					tâm Bồ-đề, cùng tu theo đạo Phật, cùng sanh về cõi Phật, 
					cùng thành tựu quả Phật.”
				  Khách cúi đầu bái biệt, thưa rằng: “Tôi xin tin nhận và kính 
					cẩn làm theo.”