Khắp cõi thiên hạ, Tam bảo là tôn quý. Trong ngoài cõi thế, 
					Tam bảo là trên hết. Tam bảo là gì? Là Phật, Pháp, Tăng vậy.
				  
				  Tam bảo có ba cách hiểu. Một là Đồng thể Tam bảo. Theo lý 
					chân như, tự tánh sáng tỏ gọi là Phật bảo. Giữ đức theo 
					khuôn phép, tự tánh chân chánh gọi là Pháp bảo. Chỗ động 
					không phạm, không tranh, tự tánh thanh tịnh, gọi là Tăng 
					bảo.
				  Hai là Xuất thế Tam bảo. Pháp thân, Báo thân và Hóa thân tùy 
					loại ứng hiện, gọi là Phật bảo. Lục độ, Tứ đế, Thập nhị nhân 
					duyên, gọi là Pháp bảo. Những bậc Tam hiền, Thập thánh, Tứ 
					hướng, Tứ quả, gọi là Tăng bảo.
				  Ba là Thế gian trụ trì Tam bảo. Tranh vẽ, ảnh tượng dùng thờ 
					phụng, gọi là Phật bảo. Kinh quyển lưu truyền, gọi là Pháp 
					bảo. Những vị cạo tóc mặc áo cà-sa, gọi là Tăng bảo. 
				  Người quy y Tam bảo, diệt được vô số tội nghiệp; người chiêm 
					ngưỡng thì phước báo được tăng vô lượng. Nay có kẻ tà ngu 
					chẳng hiểu, giả tạo ra quyển “Chân tông diệu nghĩa kinh”, 
					nói bậy rằng “tinh là Phật bảo, khí là Pháp bảo, thần là 
					Tăng bảo”, khiến cho những người đã bước vào nẻo lành, chỉ 
					vì tin theo tà thuyết ấy mà chẳng tôn kính Tam bảo, thật 
					đáng thương thay!
				  Như chẳng biết tôn kính Thế gian Tam bảo thì do đâu mà được 
					Đồng thể Tam bảo và Xuất thế Tam bảo? Đã đành là tự dối 
					mình, lại còn dối gạt cả người khác nữa! Điều đó chính là 
					ngăn trở con đường chân chánh, che khuất tầm mắt của mọi 
					người, hủy hoại giáo lý chân chánh về nhân quả, khuấy rối 
					nếp lành định huệ. Thật không còn gì tệ hại hơn thế nữa!
				  Phật dạy rằng: “Hết thảy chúng sanh nếu chẳng quy y Tam bảo, 
					mãi mãi phải chịu đọa trong ba nẻo dữ.” Chẳng nghe lời xưa 
					dạy: “Chư Phật mười phương, Giáo pháp trọn đủ, với Bồ Tát 
					tăng Đại thừa, ba ngôi ấy công đức khó nghĩ bàn.” 
				  Người quy y Phật thì chẳng đọa địa ngục. Người quy y Pháp 
					thì chẳng đọa ngạ quỷ. Người quy y Tăng thì chẳng đọa súc 
					sanh. Tại sao vậy? Vì Phật là vị vua thầy thuốc, không ai 
					hơn được. Pháp là thuốc hay trừ bệnh. Tăng là bậc tri thức 
					dẫn đường. Ba ngôi ấy đều là ruộng phước chân chánh trong 
					sạch. Đi ngược lại là tà, hướng theo đó là chánh. Phàm được 
					thấy mỗi hình tượng của Phật, nên xem như chính đó là đức 
					Như Lai. Thấy được mỗi phần Thánh giáo, nên nghĩ tưởng rất 
					là khó gặp. Gặp mỗi vị tỳ-kheo Tăng, nên xem như đó là bậc 
					tổ sư. Vậy nên phải lễ bái cúng dường, không được khinh khi. 
					Dùng những món trang nghiêm thân Phật mà trang nghiêm thân 
					mình. Được như vậy thì tự tâm đã trọn đủ Nhất thể Tam bảo.
				  Này các vị! Nếu muốn đắc đạo, nên y theo lời Phật dạy. Như 
					trái lời Phật dạy mà đắc đạo, quyết không thể được.
				  ° ° °
				   Hoặc có kẻ hỏi rằng: “Ngài Đạt-ma từ Tây phương sang đây, 
					chẳng lập văn tự. Chỉ thẳng vào tâm người, thấy tánh thì 
					thành Phật. Như vậy cần gì phải xem kinh giáo rồi mới ngộ 
					đạo sao?”
				  Đáp rằng: “Giáo thuyết của ngài Đạt-ma thật là món thuốc hay 
					ứng theo bệnh mà trị. Người đời nay chẳng đạt tông chỉ của 
					tổ sư, trở lại chấp lấy thuốc mà thành bệnh. Tổ sư vì muốn 
					cho người ta ngộ được tự tâm, hòa hợp theo giáo pháp, cho 
					nên thuyết ra lời ấy. Ngài sợ rằng người học đạo cố chấp nơi 
					văn tự mà chẳng chịu suy xét cầu Phật quả, cũng giống như kẻ 
					mãi nhìn nơi ngón tay chỉ mà chẳng chịu ngó lên mặt trăng 
					vậy!
				  Lục tổ nói: “Ngài Đạt-ma nói lý chỉ thẳng là cặn kẽ lắm. Vì 
					sao vậy? Phải biết rằng, chỉ riêng hai chữ “chẳng lập” cũng 
					đã là văn tự rồi. Sao lại bảo rằng không có văn tự? Nếu thật 
					là chẳng lập văn tự, thì người ta chẳng nên nói năng gì. Chỉ 
					việc nói năng cũng là cái tướng của văn tự rồi. Sao nói rằng 
					chẳng lập được sao? Người ngu nghe nói rằng chẳng lập, liền 
					chỉ một lòng chấp không. Chỉ nói chẳng lập văn tự, trở nên 
					hủy báng kinh Phật. Tội chướng sâu nặng lắm, chẳng nên ngăn 
					ngừa sao? 
				  Chẳng nghe kệ truyền pháp của ngài Đạt-ma rằng:
				  Vốn ta lại đất này,
				  Truyền pháp cứu mê tình
				  Một hoa trổ năm cánh,
				  Kết quả tự nhiên thành.
				  Tổ Đạt-ma còn nói rằng: “Ta có bốn quyển kinh Lăng-già, cũng 
					đem trao cho ngươi. Đây là pháp môn quan trọng của tâm địa 
					Như Lai, khiến cho chúng sanh được mở thông, chỉ bày, hiểu 
					đạo và nhập đạo.” Như vậy, ngài Đạt-ma há lại không lấy văn 
					tự truyền cho người đó sao?
				  Người xưa nói rằng: “Xem kinh là để hiểu rõ giáo lý của 
					Phật.” Đó là nhờ giáo lý mà hiểu rõ tông chỉ, nên tâm mình 
					với giáo pháp hiệp nhau. Lấy tâm truyền tâm, không hai không 
					khác. Cho nên phải biết rằng, muốn đạt chân thừa, phải nên 
					học hỏi giáo điển. Theo nơi giáo pháp mới rõ được lý. Rõ 
					được lý rồi, sau đó mới tu hành. Hạnh và nguyện đều không 
					thiếu sót, đạo quả có thể chứng đắc. Xem kinh giáo đã có lợi 
					ích như thế, há nên khinh chê hay sao? 
				  Quy sơn cảnh sách nói: “Lời Phật dạy không chịu ghi lòng tạc 
					dạ thì đạo nhiệm mầu không thể do đâu mà tỏ ngộ. Cho đến khi 
					tuổi tác về già, dù xuất gia trải đã nhiều năm mà trong tâm 
					thật chẳng được gì. Vì chẳng chịu gần gũi học người hiền 
					đức, chỉ biết ngông nghênh cao ngạo... Cuối cùng rồi thành 
					ra buông lung thô lỗ, gặp việc bế tắc như quay mặt vào 
					tường. Người mới học đến thỉnh giáo, chẳng có gì để chỉ bày. 
					Như có gượng nói ra cũng chỉ là sai kinh lệch nghĩa. Vậy mà 
					có bị khinh chê, lại trách rằng hậu sanh vô lễ. Chỉ vừa học 
					biết được chút ít, liền tự xưng là bậc sơn tăng. Lòng cao 
					ngạo chấp lấy nhân ngã, khinh khi ngăn trở kẻ hậu học. Uổng 
					phí cả một đời, khi ăn năn cũng chẳng cứu vớt lại được. Xoay 
					chuyển mãi trong luân hồi, biết bao giờ mới dứt!
				  “Ôi! Như có người căn cơ chỉ ở mức bình thường, không thể 
					nhất thời vượt thoát, thì nên hết sức chú tâm mà học hỏi 
					giáo pháp. Thông thuộc kinh điển, nghiền ngẫm cứu xét nghĩa 
					lý tinh tường, rồi truyền rộng ra khắp nơi, dẫn dắt người 
					hậu học, báo đáp ơn đức Phật. Thời gian trôi qua, chớ nên 
					luống mất, phải nên lấy sự tu tập như trên mà làm chỗ dựa 
					đời mình. Giữ lấy oai nghi, thành bậc pháp khí giữa chúng 
					tăng. Chẳng thấy như dây leo kia, nhờ dựa vào thân cây tùng 
					mà lên được đến tầng cao chót vót. Hãy chọn lấy tác nhân cao 
					trổi mà ký thác đời mình, mới có thể rộng làm lợi ích.”
				  
				  Như vậy, há có thể khinh thường giáo pháp, khinh thường bậc 
					trí thức hay sao? Nếu khinh thường bậc trí thức, tức là 
					khinh thường giáo pháp. Khinh thường giáo pháp tức là khinh 
					thường chư Phật, chư Tổ. Khinh thường chư Phật Tổ tức là tự 
					khinh thường tâm thức của mình. Khinh thường tâm thức của 
					mình thì tự phải chìm đắm trong bể khổ vậy! 
				  Than ôi! Đức Thế Tôn Thích-ca còn bỏ cả thân mạng mà cầu 
					nghe nửa bài kệ; lấy thân mình làm chỗ nằm ngồi để cầu được 
					pháp mầu. Kìa chẳng thấy trong phẩm Hạnh nguyện nói rằng: 
					“Lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, trích máu làm mực, viết 
					chép kinh điển, chất chứa như Tu-di, là vì kính trọng giáo 
					pháp vậy.” Thân mạng còn chẳng tiếc, huống chi là ngôi vua, 
					thành trì, vợ con, voi ngựa và bảy món báu? Đức Thế Tôn đã 
					kính trọng giáo pháp như vậy, phàm phu lại có thể khinh 
					thường giáo pháp sao?
				  Bồ Tát Dược Vương lấy thân mình làm đuốc để báo đền ân sâu 
					của Phật, Bồ Tát Thường-đề bán tim gan mà học pháp Bát-nhã, 
					ngài Thần Quang chặt tay cầu pháp, ngài Thiện Tài đi tham 
					học về hướng nam, khóc chảy máu mắt. Đó đều là những bậc vì 
					pháp quên mình. Nhờ vậy mới hiểu rõ được việc lớn sanh tử.
				  Kinh Viên Giác dạy rằng: “Chúng sanh muốn tu hành ở đời mạt 
					pháp, nên cầu được bậc có tri kiến chân chánh hiểu biết mọi 
					sự, ắt sẽ được thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề.”
				  Luận Trí Độ viết: “Đối với các bậc thầy dạy đạo, nên cung 
					kính như đức Thế Tôn. Như ai có thể vì mình mà giảng rõ 
					nghĩa lý sâu xa, giải trừ được những mối ngờ vực trói buộc, 
					đó là làm lợi ích cho mình, phải hết lòng cung kính, chẳng 
					nên nghĩ đến những chỗ xấu bề ngoài của họ. Ví như cái túi 
					xấu mà đựng của báu, chẳng nên vì chê túi xấu mà chẳng dùng 
					của báu. Lại như khi đi đường hiểm lúc ban đêm, có người mặc 
					áo rách cầm đuốc cùng đi, chớ nên vì vẻ ngoài rách rưới của 
					người mà chẳng nhờ lấy ánh sáng.”
				  Kinh Hoa Nghiêm nói: “Đối với người thuyết giảng pháp Phật, 
					nên nghĩ biết là rất khó gặp. Đối với tự thân, nên nghĩ biết 
					đó là bệnh khổ. Đối với bậc thiện tri thức, nên xem như bậc 
					y vương. Đối với pháp được thuyết, nên xem như thuốc hay. 
					Đối với việc tu hành, nên xem như phép trừ bệnh. 
				  “Như nghe được một câu kinh, một bài kệ, đó là pháp chưa 
					từng có, còn hơn là được bảy thứ báu chứa đầy trong cõi ba 
					ngàn đại thiên thế giới, cùng là ngôi vị Đế-thích, Chuyển 
					luân vương.”
				  Kinh Pháp Hoa nói: “Đối với người thuyết được kinh này, nên 
					cúng dường như đức Như Lai, nên lấy những vật báu cõi trời 
					mà rãi quanh xưng tụng, nên dùng những kho báu cõi trời mà 
					phụng hiến. Vì sao vậy? Vì người ấy hoan hỷ thuyết pháp, nếu 
					nghe qua trong chốc lát thì đạt được chỗ cứu cánh là quả Vô 
					thượng Chánh đẳng Chánh giác. 
				  Luận Khởi Tín nói: “Như trong cây có tánh lửa, lửa tức là 
					chánh nhân. Nhưng nếu không ai biết đến, không nhờ dùng 
					phương tiện mà tự tánh ấy thiêu cháy được cây, quyết không 
					thể được! Chúng sanh cũng vậy. Cho dù sẵn có sức chánh nhân 
					un đúc lâu đời, nhưng nếu chẳng gặp kinh giáo của chư Phật, 
					Bồ Tát, cùng sự khai thị của hết thảy thiện tri thức, mà tự 
					mình có thể thành Phật, quyết không thể được!”
				  Người xưa nói: “Sanh ra ta là cha mẹ, giúp ta thành đạt là 
					thầy với bạn.” Chẳng phải đúng như vậy sao?
				  Cần phải biết rằng, kinh điển Đại thừa là thầy của chư Phật. 
					Quả vị Bồ-đề của chư Phật đều do đó mà ra.
				  Xem khắp những người tu ba tịnh nghiệp và được Thượng phẩm 
					thượng sanh, đều thấy nói là có đọc tụng kinh điển Đại thừa, 
					hiểu được chân lý tối thượng. Nếu có thể như vậy, chắc chắn 
					được vãng sanh. 
				  Kinh Đại thừa là gì? Đó là những kinh như Hoa Nghiêm, Pháp 
					Hoa, Bát-nhã, Niết-bàn, Lăng Nghiêm, Lăng-già, Viên Giác, 
					Quán Vô Lượng Thọ Phật .v.v... cùng với tất cả những kinh 
					chuyên luận về Tịnh độ. Người tu tịnh nghiệp nên thọ trì đọc 
					tụng các kinh ấy, y theo lời dạy trong kinh mà tu hành.
				  ° ° °
				   Hỏi: Những người biết chữ có thể đọc kinh được, còn những 
					kẻ không biết chữ thì làm sao?
				  Đáp: Tuy không biết chữ để đọc tụng, nhưng cũng có thể dự 
					phần trong việc in ấn lưu hành. Lại nếu như thường xuyên lễ 
					bái nương theo, sẽ có ngày tự nhiên thông hiểu. Kìa chẳng 
					thấy như Thiện Tài một đời chứng quả, Long nữ tám tuổi thành 
					Phật hay sao? Đó thật phải là nhờ đã gắng sức trong nhiều 
					đời, há chỉ một ngày mà thành tựu được? 
				  Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương trong kinh Pháp Hoa nói rằng: 
					“Như có những kẻ nam người nữ lòng lành, nhờ trồng sẵn thiện 
					căn, nên đời đời thường gặp các bậc thiện tri thức. Các bậc 
					thiện tri thức ấy có thể làm được Phật sự, chỉ bày dạy dỗ 
					điều lợi ích vui vẻ cho mình, khiến cho đắc nhập quả Vô 
					thượng Chánh đẳng Chánh giác.” 
				  Chư đại đức nên biết rằng: Bậc thiện tri thức, đó là nhân 
					duyên lớn. Nhờ người chỉ dạy, dắt dẫn, giúp cho mình được 
					thấy Phật, lại là chuyện lợi ích nhỏ hay sao? Đời nay, những 
					người chẳng rõ lý Phật, đều là do đời trước khinh chê pháp 
					Phật. Như đời nay cũng chẳng biết tôn sùng, đời sau lại càng 
					thêm ngu si, khốn đốn. 
				  Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đối với những người mà trong ngàn 
					muôn ức kiếp chẳng nghe danh hiệu Phật, cũng chẳng được nghe 
					chánh pháp, thật rất khó cứu độ.” Chẳng nghe điều ấy sao?
				  Khổ thay! Khổ thay! Những kẻ chê bai kinh giáo và nhạo báng 
					pháp sư như vậy, còn nặng tội hơn cả mắng Phật. Lại không 
					biết sợ mà tránh đi sao? Nếu ai chẳng tin lẽ ấy, nên xem qua 
					phẩm Hỏa trạch và phẩm Pháp sư trong kinh Pháp Hoa để rõ.
				  Nay ta khuyên người học đạo sau này, nếu muốn tu quả Vô 
					thượng Bồ-đề, nên tham lễ bậc minh sư và nghe theo lời dạy 
					bảo. Nếu gặp phải vị thầy kém cỏi, thì người học đạo dẫu 
					muốn siêu thăng, hóa ra lại phải chịu chìm đắm mất vậy! Cho 
					nên mới nói rằng: 
				  Qua sông phải dùng bè. 
				  Đến bờ cần chi ghe!