Nắng trong. Một ngôi rừng nhỏ. Nơi đây đi chừng năm mười phút bạn sẽ gặp 
		một con suối nhỏ chảy róc rách tiếng thủy tinh. Lòng suối trong sỏi cát. 
		Những buổi trưa giữa rừng không gian yên tĩnh lạ. Ngàn bóng lá chập 
		chùng in bóng trên mặt nước, loáng thoáng trên đồi cỏ và che mát con 
		đường đất nhỏ. Một buổi trưa không gian quạnh quẽ. Tôi ngồi xuống bên bờ 
		suối, hơi nước bốc lên mát lạnh, giữa những thân cây xưa loang lổ bóng 
		nắng.
		
Một vầng trăng đẹp
		Có bao giờ bạn đi giữa một khu rừng trưa, trên cao có nắng và lá, rồi 
		bỗng nhiên cảm thấy cuộc sống mình đầy đủ không? Cái cảm giác đầy đủ ấy 
		đem lại cho ta một sự an lạc. Việc ấy không phải là nhờ suy luận hay một 
		tính toán nào. Mà tôi nghĩ, lý trí không có khả năng đem lại cho ta một 
		sự đầy đủ nào cả. Khi ta bằng lòng với hiện tại của mình, cái cảm giác 
		đó là một sự an lạc. Ở đây, bây giờ là một khu rừng trưa. Nhưng chiều 
		nay nếu được đi dạo trên bờ biển với một người thân, nhìn hoàng hôn 
		xuống ở chân trời, cũng có thể là một hạnh phúc bạn nhỉ! 
		Quan niệm của tôi về hạnh phúc có lẽ khác với bạn, nhưng tôi nghĩ tự thể 
		cũng đều giống như nhau. Chúng đơn sơ và bình dị hơn ta tưởng. Có lẽ một 
		ngày nào, khi ta thôi đuổi bắt tương lai hoặc quay về tìm kiếm trong quá 
		khứ, hạnh phúc sẽ lộ dạng cho ta thấy, nó hiện hữu ngay trong giờ phút 
		này. Đó có thể là một buổi trưa rừng xanh lá, một ánh trăng rơi trong 
		tách trà, tiếng cười của một người thân yêu, một bài thơ đẹp, hay là một 
		em bé đang say ngủ... Sự an lạc đôi khi rất bình dị. 
		Nhưng có điều quan trọng, hạnh phúc ấy phải thật sự là của ta. Lật những 
		trang xưa trong kinh điển có ghi chép những câu chuyện về hạnh phúc, về 
		an lạc. Nhưng ta cũng nên cẩn trọng, đừng vội lấy đó mà làm mẫu mực cho 
		mình. Đọc những câu chuyện trong nhà thiền chắc bạn cũng nhớ ngài 
		Ryuokan. Ngài nổi tiếng là một thiền sư sống một cuộc đời đơn giản trong 
		một căn lều nhỏ dưới chân núi. Vào một buổi chiều khi ngài đi vắng, có 
		một tên trộm lén vào lục soát để lấy đồ. Nhưng hắn chẳng tìm thấy một 
		vật gì có giá trị. Khi ấy Ryuokan về đến, thấy vậy ngài nói: “Có lẽ anh 
		từ xa đến đây. Không lẽ tôi lại để anh đi về tay không sao đành. Tôi chỉ 
		có bộ quần áo mặc trên người đây là đáng giá. Thôi anh hãy lấy để làm 
		một món quà.” Tên trộm lộ vẻ bối rối, ngạc nhiên. Hắn bèn cầm bộ quần áo 
		của ngài trao cho rồi lủi thủi trốn đi mất. Còn lại Ryuokan ngồi một 
		mình trần truồng, ngước mắt nhìn ánh trăng rằm vằng vặc, ngài nói thầm: 
		“Tội nghiệp anh bạn nghèo khổ ấy. Ước gì ta có thể cho anh vầng trăng 
		đẹp này!”
		Những bậc thiền sư có được những hành động phi thường như vậy là vì các 
		ngài thật-sự-là-như-vậy. Sự an lạc của các ngài rất tự nhiên và những 
		hành động của các ngài không có sự do dự, tính toán. Bạn và tôi, khi 
		chúng ta cố gắng trở thành một nhân vật nào không phải là mình, chúng ta 
		sẽ bị nô lệ, ràng buộc vào những ý niệm khô chết, cứng nhắc. Không khéo 
		vô tình ta lại chỉ tạo thêm những khổ đau không cần thiết cho mình mà 
		thôi. Những câu chuyện ấy rất cao thượng và đầy ý nghĩa khuyến tu, nhưng 
		ta hãy thận trọng, vì sự tu tập của ta không phải chỉ giản dị là bắt 
		chước theo các bậc thiền sư ấy. 
		Những ánh trăng ngày mười lăm, mười sáu đẹp thật chứ, bạn nhỉ! Có những 
		đêm trở về, đi trên con đường nhỏ dẫn vào nhà, tôi bắt gặp ánh trăng to 
		tròn sáng vằng vặc trên cao, soi những bóng cây đổ dài trước sân cỏ. Một 
		không gian bí mật và huyền diệu. Cuộc đời này, giữa những dập dồn của 
		khổ đau và hạnh phúc, đôi khi chúng ta vẫn có dịp bắt gặp những giây 
		phút tĩnh lặng. Lắm khi thật bất ngờ. Sự tu tập có lẽ mục đích là giúp 
		ta thấy được những giây phút ấy thường xuyên hơn! 
		Ta là ai?
		Ở Tây phương ngày nay có rất nhiều thiền viện và trung tâm tu học mọc 
		lên khắp nơi. Đó cũng là một điều may mắn, vì nếu biết khéo sử dụng, 
		chúng có thể trợ giúp cho ta rất nhiều trên con đường tu tập. Nhưng bạn 
		đừng xem những thiền viện như là những nơi để ta trốn tránh cuộc đời 
		này. Ngược lại, những nơi ấy phải có khả năng nuôi dưỡng ta, đem ta trở 
		về hội nhập với sự sống, với những gì đang xảy ra chung quanh mình. 
		Chúng ta phải ý thức được rõ ràng mình là ai trong giây phút hiện tại 
		này và phải biết cách đối phó với những gì đang xảy ra chung quanh ta.
		Mấy năm trước tôi có đi tham dự một khóa tu thiền Vipassana theo truyền 
		thống Nam tông. Chúng tôi được vị thiền sư chỉ dẫn cho phương pháp ngồi 
		yên lặng và theo dõi hơi thở của mình. Hai việc ấy tuy đơn giản nhưng 
		rất khó mà thực hành cho đúng đắn. Mỗi ngày chúng tôi được phép vào gặp 
		riêng vị thiền sư để trình bày những khó khăn và tiến bộ của mình. Lúc 
		vào gặp thầy, tôi có nhắc đến cái đau nơi chân khi phải ngồi yên trong 
		một thời gian dài. Thầy hỏi: “Cái đau ấy của ai? Nó có thật là của mình 
		không? Nếu vậy thì bây giờ nó đâu rồi?” Lúc ấy tôi vẫn không thật sự 
		hiểu được lời thầy muốn nói. Vì cái đau ấy đối với tôi nó có thật vô 
		cùng! Nó thật như bàn tay của tôi, mặt mày của tôi, da thịt của tôi vậy.
		Nhưng “tôi” là ai? Chắc bạn cũng biết những tế bào của ta đổi mới, chết 
		đi trong mỗi giây, mỗi phút. Tóc, da ta, máu, tim, phổi, gan... của ta 
		cũng đang được đổi mới luôn luôn. Mới đây tôi được nghe kể, toàn thể bộ 
		xương cứng rắn của ta, chỉ vỏn vẹn trong vòng ba tháng đã được đổi mới 
		hoàn toàn. Quán chiếu điều ấy, thì cái đau năm xưa thật sự là của ai bạn 
		nhỉ?
		Dừng lại để thấy
		Tôi thấy những cụm mây trắng nằm yên dưới lòng suối. Một chiếc lá ướt 
		nằm rũ mục trên cạnh bờ. Khu rừng buổi trưa hình như vươn cao hẳn lên, 
		những tàn cây lớn phủ che một bầu trời xanh thẫm, ánh nắng rơi qua kẽ lá 
		loáng thoáng trên con đường đất nhỏ gập ghềnh. Không gian tĩnh lặng.
		Bà Joko Beck nói rằng, mục đích của thiền tập là để luyện cho ta cách 
		đối diện với khổ đau. Mục đích ấy không đến nỗi bi quan như bạn nghĩ 
		đâu. Khổ đau tự nó không có một giá trị nào, nhưng nếu biết khéo sử dụng 
		nó sẽ là một vị thầy giỏi. Vì chỉ khi nào ta có thể sẵn sàng đối diện 
		với mọi kinh nghiệm của mình, cho dù là khổ đau hay hạnh phúc, chừng ấy 
		ta mới biết sống. Thật sự mà sống. Khi chúng ta ngồi thiền tức là lúc ta 
		đang tập đối diện trực tiếp với những gì đang xảy ra nơi ta ở giờ phút 
		hiện tại. Ta ngồi yên đấy trong một hoàn cảnh tương đối vững vàng và an 
		ổn. Bà Joko nói, trong những lúc ấy khổ đau có khi lại là một sự may mắn 
		cho ta.
		Ở đây đa số trong các thành phố đều có nhiều công viên xanh lá, có những 
		khu rừng nhỏ với ao hồ, với suối trong. Nhưng với sự bành trướng của 
		tiện nghi, của tiến bộ, những khu rừng này dần dà trở nên hiếm hoi. Nơi 
		đây đời sống vật chất quá đầy đủ. Sự giàu có của xứ sở này đôi khi lại 
		làm cho người ta khó có thể cảm nhận được một niềm vui căn bản của sự 
		sống, của một hiện hữu thuần túy. Việc ấy có vẻ như mâu thuẫn. Có những 
		người Tây phương sau khi sang Ấn Độ về kể lại rằng, giữa những cơ cực 
		khổ đau của cuộc sống nghèo khổ, họ cũng nhiều khi bắt gặp những niềm 
		hạnh phúc tuyệt vời của các người dân ở đấy. Khi bị bắt buộc lúc nào 
		cũng phải đối diện với chuyện tử sanh, người ta sẽ biết trân quý cái 
		giây phút hiện tại này. Vì vậy mà sự an ổn, những tiện nghi vật chất của 
		mình đôi khi có thể trở thành một chướng ngại cho việc nhìn thấy hạnh 
		phúc.
		Các vị thiền sư cứ nhắc nhở ta rằng, hạnh phúc không thể nào tìm kiếm. 
		Nhiều khi cũng vì mải mê tìm kiếm mà ta không thấy được nó. Vì khi ta đi 
		tìm, ta sẽ tự tạo ra một ý niệm về vật mà mình muốn kiếm. Mà ta có thật 
		sự biết hạnh phúc hình dạng ra sao không? Các bậc thiền sư khuyên ta hãy 
		dừng lại, rồi một ngày hạnh phúc sẽ bắt gặp ta.
		Tiếng hót chim bồ câu
		Bà Joko Beck kể một câu chuyện như sau. Có một thiền sinh trong giờ 
		trình pháp nói với bà, buổi sáng hôm ấy cô ta đang ngồi định tâm trong 
		thiền đường. Trời mới tờ mờ sáng. Không gian vô cùng tĩnh lặng. Cánh cửa 
		sổ thiền đường để mở cho không khí tươi mát buổi sáng lùa vào trong. 
		Giữa không gian yên lặng ấy chợt cô nghe tiếng gáy của một con chim bồ 
		câu trắng ngoài sân vọng vào. Ngay trong giây phút đó, hốt nhiên cô cảm 
		thấy như bừng tỉnh dậy. Hiện hữu bỗng dưng thể nhập làm một. Lúc đó cô 
		thấy không còn có cô, cũng không còn có tiếng hót của con bồ câu. Một 
		giây phút nhiệm mầu. Kể đến đó, cô dừng lại chờ lời phê bình của bà. Bà 
		Joko nhìn cô ta rồi đáp: “Tốt lắm! Kinh nghiệm của cô tốt lắm! Nhưng giả 
		sử lúc ấy thay vì nghe tiếng gáy của một con bồ câu, cô lại nghe tiếng 
		của một người nào đó chỉ trích hay xúc phạm cô thì sao, kinh nghiệm của 
		cô sẽ như thế nào? Cô thấy có gì khác biệt giữa âm thanh của tiếng chim 
		hót và của một lời chỉ trích không?”
		Lời của bà Joko có thể làm một công án để cho chúng ta quán chiếu. Sống 
		trong cuộc đời, chúng ta có thật sự nghe, thấy hết tất cả những gì đang 
		xảy ra chung quanh mình không! Hay qua một sự chọn lọc nào đó. Lưỡi gươm 
		của ý niệm phân biệt có thể chia cắt thực tại ra làm muôn ngàn mảnh vụn.
		
		Lá cây xanh tràn ngập
		Như thế thì sự tu tập không phải là để ta đi tìm một sự an lạc, hạnh 
		phúc nào hết. Chúng ta chẳng cần phải đi đâu cả. Vì thật ra chẳng có một 
		nơi nào để ta đến. Hạnh phúc nằm ngay trong giây phút này, nếu ta không 
		thấy được thì mãi mãi sẽ không bao giờ có thể thấy. Sự tu tập của ta chỉ 
		là để nhắc cho ta nhận thức được điều ấy. Bạn hãy làm những việc nào cần 
		làm bây giờ: đi dạo với một người bạn, giải quyết một vấn đề, uống một 
		tách trà, dỗ dành một em bé, mở cửa sổ cho ánh trăng vào... Việc nào 
		cũng tiềm chứa một khả năng an lạc hết. Nhưng đôi khi ta cần phải thường 
		xuyên tự nhắc nhở mình điều ấy.
		Nói đến ánh trăng, tôi nhớ đến ngài Đạo Nguyên, một thiền sư ở thế kỷ 
		13. Một đêm sáng trăng trên mặt nước, ngài có viết một bài thơ haiku:
		Nửa đêm. 
		Im sóng.
		Lặng gió. 
		Khoang thuyền không,
		Ánh trăng xanh tràn ngập.
		Trưa nay trời tĩnh lặng. Có vài con chim nhỏ trốn nắng, thỉnh thoảng hót 
		vang trong lùm cây cao. Không gian buổi trưa hanh hanh mùi hoa rừng, cỏ 
		dại. Con đường đất vàng nhỏ loáng thoáng bóng lá cây xanh. 
		Rừng trưa. 
		Im nắng.
		Con đường nhỏ. 
		Bầu trời không,
		Ngàn chiếc lá xanh 
		chập chùng lòng suối vắng.