Theo lịch sử Thiền tông, vào năm 520 Ngài Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma) đã 
		vượt biển đến Trung Hoa. Ngài là vị tổ thứ 28 của thiền Ấn Độ và là vị 
		Sơ tổ của thiền Trung Hoa. Cuộc hải trình kéo dài 3 năm, và lúc đó ngài 
		đã 80 tuổi. Lúc cập bến miền Nam Trung Hoa, ngài đã giảng về yếu lý 
		Thiền tông cho Lương Vũ Đế. Vì nhà vua không nắm được ý chỉ thiền, 
		Bồ-đề-đạt-ma bèn rời khỏi nước Ngụy, vân du đến đỉnh Thiếu Thất của ngọn 
		Tung Sơn, ngồi quay mặt vào vách 9 năm. Sau đó, Thiền tông Trung Hoa đã 
		khai hoa kết trái.
		Về phương diện võ học, tương truyền Bồ-đề-đạt-ma, dù tuổi đã ngoài bát 
		tuần, đã dạy võ công cho đệ tử ở chùa Thiếu Lâm, cả nội công và ngoại 
		công. Nhờ đó họ có thể trở nên mạnh mẽ hơn, tinh thần tỉnh thức hơn sau 
		những giờ tham thiền bất động. Nhiều sách võ thuật được cho là của 
		Bồ-đề-đạt-ma biên soạn, như quyển Dịch cân kinh cùng các tác phẩm về nội 
		công tâm pháp. Và cũng theo truyền thuyết, nhờ có sự phối hợp giữa thiền 
		và võ công nên phái Thiếu Lâm một thời được đề cao là Võ lâm Bắc đẩu. 
		Tiếp đến đời Tống, một vị lão sư hào kiệt là Trương Tam Phong, xuất thân 
		từ chùa Thiếu Lâm, sáng chế ra Thái cực quyền, trở thành trưởng môn phái 
		Võ Đang. Môn võ này chú trọng nhiều đến sự điều hòa hơi thở và để cho 
		các luồng chân khí trong cơ thể lưu chuyển tự nhiên. Dù các câu chuyện 
		võ thuật Trung Hoa nói trên có nhuốm màu thần bí, nhưng trên thực tế 
		thiền đã nâng cao ngành võ lên hàng đạo: Võ đạo. 
		Vào thế kỷ 13, có sự trùng hợp đặc biệt là: Thiền tông đã hưng thạnh ở 
		Việt Nam và Nhật Bản khi hai quốc gia nhỏ bé này đánh tan đạo quân xâm 
		lăng hùng mạnh của đế quốc Mông Cổ. Đế quốc này đã chinh phục và cai trị 
		một dải đất mênh mông chạy dài từ Á sang Âu, có một đạo quân sức mạnh vô 
		địch và rất tàn bạo. 
		Nhật Bản có vị trí bao bọc bốn bề bởi đại dương. Ngoài yếu tố can trường 
		và chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ, còn nhờ có những cơn bão lớn mà 
		người Nhật tôn xưng là Thần Phong (Kamikaze) đã làm cho chiến thuyền 
		Mông Cổ tan nát khi tiến đến bờ biển Nhật Bản để chuẩn bị cho một cuộc 
		đổ bộ ồ ạt. Do đó, cán cân lực lượng đã bị lệch hẳn và số quân Mông Cổ 
		còn lại phải nếm mùi thảm bại trước các chiến sĩ can trường xứ Phù Tang.
		
		Ở Việt Nam, quân đội Mông Cổ có nhiều lợi thế hơn vì họ có thể sử dụng 
		chiến thuật cố hữu với kỵ binh và bộ binh. Với đạo quân bách chiến bách 
		thắng, họ đã tràn xuống chiếm thủ đô Thăng Long. Nhưng ba lần xâm lăng, 
		ba lần họ đều gặp phải một lực lượng đối kháng mãnh liệt, với sự điều 
		động uyển chuyển và sự hợp nhất ý chí quyết tâm bảo vệ xứ sở từ vua quan 
		đến quân dân. Do đó, ba lần xâm chiếm Việt Nam, ba lần quân Mông Cổ đều 
		thảm bại, đến nỗi thái tử Mông Cổ Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để 
		cho bộ hạ kéo chạy trốn mới thoát nạn. 
		Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị đại tướng trực tiếp điều động các 
		đạo quân chiến đấu. Ngài là một vị dũng tướng đầy thao lược nhưng cũng 
		đầy lòng hỷ xả của một thiền gia: không để tâm thù hận riêng tư (sự xích 
		mích giữa hai gia đình của thân sinh Hưng Đạo Vương và vua Trần Thái 
		Tông, do sự vụng về của Trần Thủ Độ gây ra) đặt sự an nguy và tồn vong 
		của quốc gia xã tắc cùng tôn trọng hạnh phúc của người dân trên mọi hận 
		thù cá nhân nhỏ bé. Nhân cách và tài năng siêu việt của Hưng Đạo Vương 
		Trần Quốc Tuấn đã phản ảnh qua cách xử thế tiếp vật, khi an cũng như lúc 
		nguy. Các tác phẩm về chiến thuật, chiến lược, bài Hịch tướng sĩ, các 
		bài văn thơ... cũng như cách sống lúc còn nắm giữ binh quyền hay những 
		năm tuổi già sống cuộc đời một bậc trưởng lão đạt đạo nơi chốn điền 
		trang, phản chiếu hình ảnh của một người chín mùi nếp sống giải thoát, 
		dù lúc còn đang xông pha trước lằn tên mũi đạn hay lúc an cư chốn điền 
		trang.
		Nhưng trên hết, người đã biết cổ động sự nức lòng kháng giặc, sự đoàn 
		kết keo sơn, sự nỗ lực xả thân vì đất nước của các tướng lãnh, binh sĩ 
		và dân chúng khắp nơi là vua Trần Nhân Tông. Sách Đại Việt sử ký toàn 
		thư chép về nhà vua như sau: 
		“(Vua) được tinh anh của thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như 
		vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, hai cung
[1] 
		đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên Đồng tử, trên vai bên trái có nốt ruồi 
		đen, cho nên có thể cán đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 
		năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, băng ở am Ngọa Vân, núi Yên Tử, đưa về 
		táng ở Đức Lăng. Vua nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng 
		hưng sáng ngời thuở trước, thực là vua hiền của đời Trần.”
[2]
		
		Từ nhỏ vua đã có ý nhường ngôi cho em mà đi tu, nhưng chuyện bất thành. 
		Sau đó, tuy ngồi trên ngôi báu trị vì trăm họ nhưng không lúc nào xao 
		lãng chuyện tu học. 
		Nhà vua thờ Tuệ Trung Thượng sĩ làm thầy. Tuệ Trung là một vị thiền sư 
		cư sĩ, anh cả của đức Trần Hưng Đạo. Ngài được vua Trần Thánh Tông ký 
		thác cho việc dạy dỗ vua Nhân Tông. Về mặt tinh thần, ngài cũng là người 
		hỗ trợ Thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông trong việc chống quân 
		xâm lăng Mông Cổ. 
		Vua Nhân Tông đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của một ông vua thời chiến, một 
		người lãnh đạo thương yêu trăm họ thời thái bình thịnh trị, một người 
		cha nhân từ và sáng suốt đối với con cái, và một người con hiếu thảo với 
		cha mẹ. Sử gia Ngô Sĩ Liên đã kính phục viết: “Nhân Tông trên thờ Từ 
		Cung tỏ ra đạo hiếu, dưới dùng người giỏi, lập nên võ công, nếu không có 
		tư chất nhân, minh, anh, võ thì sao được như thế?”
[3] 
		Sau đó, cuối cùng vua đã rời bỏ cung vàng điện ngọc, sống cuộc đời của 
		một thiền sư khổ hạnh, lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà. Ngài đi chân 
		đất, ăn mỗi ngày một bữa, nỗ lực tu tập để thâm nhập chân lý không thể 
		nắm bắt được bằng khái niệm, bằng chữ nghĩa. 
		Đối chiếu với lịch sử các triều đại những dân tộc khác, dân tộc Việt Nam 
		có thể tự hào rằng chưa có một ông vua nào có lòng thương yêu dân chúng 
		tràn đầy, sự dũng mãnh và sáng suốt vô cùng, và cuối cùng, qua con đường 
		thiền đạo tu tập đã chứng nghiệm sở đắc tâm linh cao vút như vua Trần 
		Nhân Tông. Với đầy đủ lòng thương yêu rộng lớn và sự hiểu biết chân thật 
		nên nhà vua, trong đời sống đạo hạnh gương mẫu của một tu sĩ, đã không 
		nài khó nhọc, đi khắp nơi trong nước chỉnh đốn lại phong tục tập quán. 
		Sách Tam Tổ Thực Lục ghi lại năm 1304, thiền sư Trúc Lâm “đi khắp mọi 
		nơi thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo lý làm mười 
		điều thiện”. 
		Ngoài ra, ngài còn nhìn xa hơn trong việc mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc 
		và thịnh vượng quốc gia, nên đích thân ngài đã sang thăm vua Chiêm Thành 
		là Chế Mân. Để kết tình hòa hiếu giữa hai dân tộc Chiêm-Việt đã nhiều 
		lần tranh chấp nhau, ngài hứa gả con gái mình là công chúa Huyền Trân 
		cho vua Chiêm Thành.
[4] Tiếc thay, sau khi ngài qua 
		đời, những diễn biến bên trong triều đình Chiêm và Việt đã đưa đến những 
		cuộc chiến tranh làm cho hai dân tộc suy yếu và nhà Trần kiệt quệ dần.
		
		Trong những năm cuối đời, thiền sư Trúc Lâm đã dồn nỗ lực đào tạo một 
		thế hệ xuất sắc về đức và trí để nối tiếp dòng thiền Trúc Lâm. Sách Tam 
		Tổ Thực Lục kể lại những ngày cuối của ông vua thiền sư này: “Năm Mậu 
		thân (1308), ngày 1 tháng 11, đúng nửa đêm (trên ngọn núi Ngọa Vân), 
		Điều Ngự (Trúc Lâm) hỏi: ‘Bây giờ là giờ gì?’ Bảo Sát (đệ tử của ngài) 
		thưa: ‘Giờ Tý.’ Điều Ngự đưa tay ra hiệu mở cửa sổ để nhìn ra ngoài, 
		nói: ‘Đến giờ ta đi rồi vậy.’ Bảo Sát hỏi: ‘Tôn đức đi đâu bây giờ?’ 
		Điều Ngự nói: 
		‘Mọi pháp đều không sinh 
		
		Mọi pháp đều không diệt 
		Nếu hiểu được như thế 
		Chân lý thường hiện tiền 
		Chẳng đi cũng chẳng lại.’ 
		
		Nhất thiết pháp bất sinh
		Nhất thiết pháp bất diệt
		Nhược năng như thị giải
		Chư Phật thường hiện tiền
		Hà khứ lai chi hữu?
		Nói khác đi, mọi hiện tượng kể cả đời sống của con người đều do nhiều 
		yếu tố hợp lại. Khi thuận duyên thì những yếu tố riêng biệt kết lại 
		thành một sự vật nào đó. Khi hết duyên thì các yếu tố kết hợp đó chia 
		lìa. Như thế, không có cái gì sinh ra mà cũng chẳng có cái gì diệt đi. 
		Khi chúng ta quay về với tâm chân thật thì thấy rõ, kinh nghiệm rõ ràng 
		về trạng thái bất sinh bất diệt, chẳng đến chẳng đi đó.