Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)

Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Tài năng là do bẩm sinh, hãy khiêm tốn. Danh vọng là do xã hội ban cho, hãy biết ơn. Kiêu căng là do ta tự tạo, hãy cẩn thận. (Talent is God-given. Be humble. Fame is man-given. Be grateful. Conceit is self-given. Be careful.)John Wooden
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Quy luật của cuộc sống là luôn thay đổi. Những ai chỉ mãi nhìn về quá khứ hay bám víu vào hiện tại chắc chắn sẽ bỏ lỡ tương lai. (Change is the law of life. And those who look only to the past or present are certain to miss the future.)John F. Kennedy
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Điều khác biệt giữa sự ngu ngốc và thiên tài là: thiên tài vẫn luôn có giới hạn còn sự ngu ngốc thì không. (The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.)Albert Einstein

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Kinh Diệu Pháp Liên Hoa »» 14. Phẩm Hạnh an vui »»

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
»» 14. Phẩm Hạnh an vui

(Lượt xem: 14)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - 14. Phẩm Hạnh an vui

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Pháp Vương tử Văn-thù-sư-lợi thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Những vị Bồ Tát này thật là vô cùng hiếm có, kính thuận ý Phật nên phát lời thệ nguyện lớn lao, trong đời xấu ác về sau sẽ bảo vệ giữ gìn, tụng đọc thuyết giảng kinh Pháp Hoa này. Bạch Thế Tôn! Các vị Đại Bồ Tát trong đời xấu ác về sau làm thế nào để có thể thuyết giảng kinh này?”

Đức Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi: “Nếu vị Đại Bồ Tát trong đời xấu ác về sau muốn thuyết giảng kinh này, nên trụ yên trong 4 pháp.

“Thứ nhất, trụ yên trong phạm vi thực hành và thân cận[1] của hàng Bồ Tát thì có thể vì chúng sanh diễn giải, thuyết giảng kinh này.

“Này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là phạm vi thực hành của hàng Bồ Tát? Nếu vị Đại Bồ Tát trụ nơi giai vị nhẫn nhục,[2] luôn nhu hòa, khéo léo tùy thuận mà không hấp tấp thô bạo, trong lòng không sợ sệt, lại đối với các pháp không có chỗ làm, chỉ quán xét thấy đúng tướng như thật, cũng không thực hành sự không phân biệt, đó gọi là phạm vi thực hành của hàng Bồ Tát.

“Thế nào gọi là phạm vi thân cận[3] của hàng Bồ Tát?

“Vị Đại Bồ Tát không thân cận với hàng vua chúa, con vua, đại thần, quan chức;[4] không thân cận với hàng ngoại đạo xuất gia cũng như tại gia,[5] cùng những người viết văn chương thế tục, ca ngâm tán vịnh thế gian;[6] những kẻ luyện chú thuật thế tục hoặc nghiên tầm triết lý thế gian;[7] cũng không thân cận những kẻ chơi trò hung hiểm đâm nhau, đánh nhau,[8] cùng những kẻ diễn trò nhảy múa,[9] biểu diễn ảo thuật biến hóa;[10] cũng không thân cận hạng chiên-đà-la, những người làm nghề ác hại như nuôi súc vật heo, dê, gà, chó, những người săn bắn, đánh cá…[11] Những người như trên nếu có lúc tìm đến thì Bồ Tát vì họ thuyết pháp nhưng không mong cầu gì.

“Lại không thân cận hàng Thanh văn tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, hàng cư sĩ nam, cư sĩ nữ,[12] cũng không tới lui thăm hỏi. Dù trong phòng ốc hay nơi kinh hành, hoặc trong giảng đường, đều không ở chung với những người này. Nếu có khi họ tìm đến thì Bồ Tát vì họ thuyết pháp nhưng không mong cầu gì.

“Này Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ Tát đối với thân thể người nữ không vì đó là tướng có thể làm khởi sanh ý tưởng tham dục nên thuyết pháp cho họ, cũng không ưa thích ngắm nhìn. Nếu vào nhà người khác, không cùng trò chuyện với thiếu nữ, phụ nữ chưa chồng hoặc phụ nữ góa chồng; cũng không gần gũi thân thiết với năm loại đàn ông không đủ nam tính.[13]

“Đại Bồ Tát không một mình vào nhà người khác. Nếu có nhân duyên cần phải vào thì trong lúc ấy một lòng chú tâm niệm Phật. Nếu vì phụ nữ thuyết pháp thì không cười để lộ răng, không lộ ngực trần. Đó là vì pháp mà còn không thân thiết sâu đậm, huống chi là với những việc khác.

“Bồ Tát không ưa thích nuôi dưỡng đệ tử nhỏ tuổi, sa-di, trẻ con, cũng không thích theo học cùng thầy.

“Bồ Tát thường ưa thích ngồi thiền ở nơi vắng vẻ, tu tập nhiếp phục tâm mình.

“Văn-thù-sư-lợi! Như vậy là phạm vi thân cận thứ nhất của hàng Bồ Tát.

“Lại nữa, Đại Bồ Tát quán xét hết thảy các pháp đều là không, thấy rõ tướng như thật, không điên đảo, không dao động, không thối thất, không lay chuyển, giống như hư không, không có tánh sở hữu,[14] vượt ngoài khả năng diễn đạt của ngôn từ,[15] không sanh, không xuất, không khởi, không tên gọi, không hình tướng, thật không hiện hữu, không thể đo lường, không giới hạn, không ngăn ngại, không che chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ nơi điên đảo khởi sanh nên nói là có. Thường ưa thích quán xét tướng pháp như vậy, đó gọi là phạm vi thân cận thứ hai của hàng Bồ Tát.”

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Nếu có hàng Bồ Tát,
Đời xấu ác về sau,
Với tâm không sợ sệt,
Muốn thuyết giảng kinh này,
Nên vào chỗ thực hành,
Cùng với chỗ thân cận.

Thường xa lìa vua chúa,
Cùng những người con vua,
Hàng đại thần, quan chức,
Kẻ chơi trò hung ác,
Hoặc người chiên-đà-la,
Những Phạm chí ngoại đạo.

Lại cũng không thân cận,
Những kẻ tăng thượng mạn,
Tham chấp theo Tiểu thừa,
Học suông Kinh, Luật, Luận.

Những tỳ-kheo phá giới,
A-la-hán giả danh,
Cùng những tỳ-kheo-ni,
Ưa đùa giỡn bỡn cợt,
Đắm sâu năm món dục,
Cầu diệt độ hiện đời,
Với các ưu-bà-di,
Cũng đừng nên gần gũi.

Nếu những người như trên,
Với tâm lành tìm đến,
Chỗ Bồ Tát tu tập,
Vì muốn nghe Phật pháp.

Bồ Tát liền vì họ,
Khởi tâm không sợ sệt,
Cũng không có mong cầu,
Chỉ như pháp thuyết pháp.

Nữ góa chồng, chưa chồng,
Nam không đủ nam tính,
Đều tránh không gần gũi,
Không thân thiết sâu đậm.

Lại cũng không thân cận,
Kẻ giết mổ bán thịt,
Hoặc săn bắn, đánh cá,
Vì lợi mà giết hại
Bán thịt để mưu sinh,
Hạng bán sắc buôn hương,
Hết thảy người như vậy,
Đều không nên thân cận.

Kẻ hung ác đánh nhau,
Làm trò để mua vui,
Hoặc những gái bán dâm,
Thảy đều không thân cận.

Không một mình chỗ vắng,
Thuyết pháp cho nữ nhân,
Nếu đủ duyên thuyết pháp,
Thì không được cười đùa.

Vào xóm làng khất thực,
Đi cùng tỳ-kheo khác,
Nếu phải đi một mình,
Thì chuyên tâm niệm Phật.

Phép tắc trên gọi là,
Chỗ thực hành, thân cận.
Trụ yên hai chỗ này,
Được an vui thuyết pháp.

Không phân biệt thực hành,
Các pháp thượng, trung, hạ,
Hữu vi hoặc vô vi,
Pháp thật hay không thật,
Lại cũng không phân biệt,
Đây là nam, là nữ,
Không nắm bắt các pháp,
Không thấy cũng không biết,
Được như thế gọi là,
Chỗ thực hành Bồ Tát.

Quán xét hết thảy pháp,
Là không, không thật có,
Không có sự thường còn,
Cũng không khởi, không diệt,
Đó là chỗ thân cận,
Của bậc có trí tuệ.

Người điên đảo phân biệt,
Các pháp thành có, không,
Là thật, chẳng phải thật,
Là sanh, chẳng phải sanh.

Bồ Tát nơi vắng vẻ,
Tu tập nhiếp phục tâm,
Trụ yên không dao động,
Như núi chúa Tu-di.

Quán hết thảy các pháp,
Vốn đều không thật có,
Chỉ đồng như hư không,
Chẳng có gì bền chắc.

Không sanh, không xuất hiện,
Không động, không thối lui,
Chỉ một tướng thường trụ,
Gọi là chỗ thân cận.

Nếu có tỳ-kheo nào,
Sau khi Phật nhập diệt,
Thể nhập chỗ thực hành,
Cùng với chỗ thân cận,
Để thuyết giảng kinh này,
Thì không hề khiếp nhược.

Khi một vị Bồ Tát,
Vào am thất vắng lặng,
Dùng ý niệm chân chánh,
Quán xét pháp đúng nghĩa.

Rồi ra khỏi thiền định,
Vì các vị vua chúa,
Con vua hoặc dân thường,
Hoặc các bà-la-môn,
Mở bày và diễn giải,
Thuyết giảng bộ kinh này,
Tâm vị ấy an ổn,
Không có sự khiếp nhược.

Này Văn-thù-sư-lợi!
Đó gọi là Bồ Tát,
Trụ nơi pháp thứ nhất,
Có thể trong đời sau,
Thuyết giảng kinh Pháp Hoa.

Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Sau khi Như Lai điệt độ, trong đời mạt pháp nếu muốn thuyết giảng kinh này, nên trụ yên trong hạnh an vui, khi mở lời thuyết giảng, hoặc khi đọc kinh này, đều không ưa thích nói ra những lỗi lầm của người khác hoặc của kinh điển, cũng không khinh thường các vị thầy thuyết pháp khác, không nói đến những điều tốt xấu, ưu điểm hay khuyết điểm của người khác; đối với hàng Thanh văn, không nêu tên ra để chê bai những điều xấu lỗi, cũng không khen ngợi xưng tán điều tốt đẹp. Bồ Tát lại cũng không khởi tâm thù hiềm oán ghét, nhờ khéo tu tập tâm an vui như vậy. Đối với người đến nghe pháp đều tùy thuận không trái ý; nếu có vặn hỏi đều không dùng giáo pháp Tiểu thừa để giải đáp, chỉ dùng giáo pháp Đại thừa để vì họ giảng giải, khiến cho đạt được trí tuệ Phật.[16]

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Bồ Tát thường vui thích,
Tâm an ổn thuyết pháp,
Ở nơi đất thanh tịnh,
Thiết lập một pháp tòa.

Tắm gội sạch bụi bặm,
Bôi dầu thơm lên thân,
Đắp y mới sạch sẽ,
Trong ngoài đều thanh tịnh,
Ngồi yên trên pháp tòa,
Tùy chỗ hỏi, giảng thuyết.

Nếu có những tỳ-kheo,
Hoặc các tỳ-kheo-ni,
Cùng hàng cư sĩ nam,
Hoặc những cư sĩ nữ,
Cho đến vua, con vua,
Quan, trí thức, dân thường…
Đều dùng nghĩa vi diệu,
Hiền hòa vì họ thuyết.

Nếu có người vặn hỏi,
Tùy ý nghĩa mà đáp,
Nêu nhân duyên, thí dụ,
Để diễn bày phân biệt.

Dùng phương tiện như vậy,
Khiến cho đều phát tâm,
Rồi dần dần tăng trưởng,
Thể nhập vào đạo Phật.

Trừ tâm ý biếng nhác,
Cùng tư tưởng trễ lười,
Không lo âu buồn bực,
Khởi tâm từ thuyết pháp.

Ngày đêm vẫn thường thuyết,
Giáo pháp đạo Vô thượng,
Dùng các lẽ nhân duyên,
Và vô số thí dụ,
Để chỉ bày chúng sanh,
Khiến cho đều hoan hỷ.

Y phục, chỗ nằm, ngồi,
Thức ăn uống, thuốc men,
Đối với những thứ ấy,
Không khởi ý mong cầu,
Chỉ duy nhất tâm niệm,
Nhờ nhân duyên thuyết pháp,
Được trọn thành Phật đạo,
Cùng tất cả chúng sanh.
Đó là sự cúng dường,
An vui, lợi ích lớn.

Sau khi Phật diệt độ,
Nếu có tỳ-kheo nào,
Có khả năng thuyết giảng,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
Không ganh ghét bực tức,
Gặp phiền não chướng ngại,
Cũng không lo không buồn,
Hoặc bị người chửi mắng,
Cũng không hề sợ sệt.
Lại thêm dùng dao gậy,
Cũng không hề trốn chạy,
Nhờ trụ nơi nhẫn nhục.

Bậc trí tuệ như vậy,
Khéo tu tập tự tâm,
Có thể trụ an vui,
Như trên ta đã nói.

Công đức của vị ấy,
Dù muôn ngàn ức kiếp,
Dùng tính toán, thí dụ,
Cũng không thể nói hết.

Lại nữa, này Đại Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi! Vào đời sau cùng khi chánh pháp sắp mất đi, người thọ trì tụng đọc kinh điển này không ôm lòng ganh ghét, dua nịnh dối trá, cũng đừng khinh chê người học Phật, soi mói những chỗ ưu điểm, khuyết điểm của họ. Đối với người tu tập như tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ cầu đạo Thanh văn hay Duyên giác, hoặc cầu đạo Bồ Tát, cũng không quấy rối, khiến họ nghi ngờ hối tiếc bằng cách nói rằng: “Các người còn cách đạo quá xa, mãi mãi không thể đạt được trí tuệ Phật. Vì sao vậy? Vì các người là những kẻ buông thả phóng túng, lười nhác trên đường đạo.” Lại cũng không nên bàn luận vô bổ về các pháp, tranh cãi đúng sai. Nên khởi lòng đại bi đối với hết thảy chúng sanh, đối với các đức Như Lai xem như đấng cha lành, đối với các vị Bồ Tát xem như bậc thầy lớn, đối với các vị Đại Bồ Tát trong mười phương thường khởi tâm cung kính sâu xa mà lễ bái. Đối với hết thảy chúng sanh đều thuyết pháp một cách bình đẳng, chỉ thuận theo pháp nên không nói nhiều, không nói ít, thậm chí đối với người hết sức ưa muốn chánh pháp cũng không vì họ mà nói nhiều hơn.

Này Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ Tát ấy trong đời sau cùng khi chánh pháp sắp mất đi, nếu thành tựu được hạnh an vui thứ ba này thì khi thuyết kinh Pháp Hoa này không ai có thể quấy nhiễu làm cho rối loạn. Vị ấy sẽ có những người bạn đồng học tốt, cùng nhau tụng đọc kinh này. Lại cũng sẽ có đại chúng tìm đến nghe kinh, nghe rồi thường ghi nhớ, ghi nhớ rồi thường tụng đọc, tụng đọc rồi thường giảng thuyết, giảng thuyết rồi thường sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, cúng dường bản kinh, cung kính, tôn trọng, ngợi khen xưng tán.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

“Muốn thuyết giảng kinh này,
Bỏ ganh ghét, kiêu ngạo,
Bỏ dua nịnh, gian dối,
Tâm chân thật, thẳng thắn.

Không khinh chê người khác,
Không luận pháp vô bổ,
Nói lời gây hoài nghi:
‘Ông không thể thành Phật.’

Vị Phật tử thuyết pháp,
Thường nhu hòa, nhẫn chịu,
Từ bi với hết thảy,
Không sanh tâm biếng lười.

Đại Bồ Tát mười phương,
Thương chúng sanh, hành đạo,
Nên sanh tâm cung kính:
Bậc thầy lớn của ta.

Với chư Phật Thế Tôn,
Đấng cha lành Vô thượng,
Phá trừ tâm kiêu mạn,
Thuyết pháp không ngăn ngại.

Pháp thứ ba như vậy,
Người trí nên giữ theo,
Chuyên tâm hạnh an vui,
Vô số người cung kính.

Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ Tát vào đời sau cùng khi chánh pháp sắp mất đi, nếu có hành trì kinh Pháp Hoa này thì đối với những người tại gia và xuất gia nên khởi tâm từ ái lớn lao, đối với những người không thuộc hàng Bồ Tát nên khởi tâm bi mẫn lớn lao, nên nghĩ như thế này: “Những người này thật là chịu sự mất mát lớn lao. Đức Như Lai phương tiện thuyết pháp thích hợp nhưng họ lại không được nghe, không hay không biết đến, không thưa hỏi, không tin tưởng, không nhận hiểu được. Những người này tuy không thưa hỏi, không tin tưởng, không nhận hiểu kinh này, nhưng khi nào ta đạt được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tùy theo họ đang ở nơi nào ta sẽ dùng sức thần thông, sức trí tuệ mà dẫn dắt, khiến cho họ được trụ yên trong giáo pháp này.

“Này Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ Tát sau khi đức Như Lai diệt độ nếu thành tựu được 4 pháp này thì khi thuyết pháp không có lỗi lầm, thường được các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, vua chúa, con vua, đại thần, thường dân, bà-la-môn, cư sĩ cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xưng tán, chư thiên ở giữa hư không vì muốn nghe pháp nên cũng thường đi theo vị Bồ Tát ấy. Khi vị Bồ Tát ấy ở nơi xóm làng, thành thị hoặc rừng sâu vắng vẻ, nếu có người đến hỏi khó thì suốt ngày đêm chư thiên sẽ thường theo giúp đỡ bảo vệ người ấy, khiến cho người đến nghe pháp đều được vui mừng hoan hỷ. Vì sao vậy? Vì kinh này được sức thần của hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai thường gia hộ.

“Này Văn-thù-sư-lợi! Có vô số cõi thế giới thậm chí còn chưa được nghe đến tên kinh Pháp Hoa này, huống chi là việc được nhìn thấy, thọ trì, tụng đọc? Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như vị Chuyển luân Thánh vương mạnh mẽ, muốn dùng oai thế để hàng phục các nước, nhưng vua các nước nhỏ không chịu thần phục, Chuyển luân Thánh vương liền kéo quân đến chinh phạt. Vua nhìn thấy binh lính chiến đấu lập công, liền hết sức vui mừng, liền tùy theo công lao mà ban thưởng, hoặc ban cho ruộng đất, nhà cửa, xóm ấp, thành thị, hoặc ban cho y phục, những món trang sức làm đẹp thân thể, hoặc ban cho đủ các món quý báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, người hầu, cư dân,[17] duy nhất chỉ có viên ngọc tỏa sáng trên búi tóc là vua không lấy ra ban thưởng. Vì sao vậy? Chỉ trên đỉnh đầu vua mới có duy nhất một viên ngọc ấy, nếu lấy cho đi thì những người thân thuộc của vua sẽ hết sức kinh sợ vì quái lạ.

“Này Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai cũng giống như vậy, dùng sức trí tuệ và thiền định mà được cõi nước pháp, là vua của ba cõi, nhưng bọn ma vương không chịu quy phục. Các vị hiền thánh của Như Lai liền chiến đấu với ma vương, lập công trạng nên Như Lai cũng hoan hỷ, ở giữa 4 chúng mà thuyết giảng các kinh điển khiến cho tâm họ được an vui, ban thưởng cho các tài sản quý báu của pháp là thiền định, giải thoát, các căn và lực vô lậu, lại cũng ban thưởng cho hóa thành Niết-bàn, nói rằng đã được diệt độ, để dẫn dắt tâm ý họ khiến cho đều hoan hỷ, nhưng không vì họ thuyết kinh Pháp Hoa này.

“Này Văn-thù-sư-lợi! Cũng như Chuyển luân Thánh vương, thấy binh sĩ lập công lớn thì trong lòng hết sức vui mừng, liền đem viên ngọc quý đến mức khó tin, từ lâu vẫn cất giữ trong búi tóc không tùy tiện mang cho người khác, nay lấy ra ban cho. Đức Như Lai cũng vậy, là bậc Đại Pháp Vương trong ba cõi, dùng chánh pháp giáo hóa hết thảy chúng sanh, thấy các vị hiền thánh chiến đấu với quân ma năm ấm, ma phiền não, ma chết, có công lao rất lớn, diệt trừ được ba món độc, ra khỏi ba cõi, phá được lưới ma, thì đức Như Lai cũng hết sức hoan hỷ, liền đem kinh Pháp Hoa này, có thể giúp cho chúng sanh đạt đến trí tuệ Phật, là kinh điển mà người thế gian oán ghét khó tin nhận, trước đây chưa từng thuyết giảng, nay đem ra thuyết giảng cho nghe.

“Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là giáo thuyết bậc nhất của các đức Như Lai, là sâu xa nhất trong các giáo thuyết, sau cùng mới ban cho, giống như đức vua mạnh mẽ kia từ lâu vẫn giữ kỹ viên ngọc tỏa sáng, nay mới lấy ra ban cho.

“Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là kho tàng bí mật của các đức Phật Như Lai, ở vị trí cao nhất trong các kinh điển, chư Phật ngày đêm giữ gìn không tùy tiện thuyết giảng, cho đến hôm nay mới đem ra diễn giải thuyết giảng cho các ông.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Thường thực hành nhẫn nhục,
Thương xót mọi chúng sanh,
Mới có thể thuyết giảng,
Kinh được Phật khen ngợi.

Cho đến đời sau cùng,
Những ai trì kinh này,
Đối với hàng tăng, tục,
Hoặc không phải Bồ Tát,
Đều khởi tâm từ bi,
Thương họ không được nghe,
Không tin nhận kinh này,
Là mất mát lớn lao.

“Nguyện khi ta thành Phật,
Sẽ dùng nhiều phương tiện,
Vì họ mà thuyết pháp,
Khiến trụ trong pháp này.”

Ví như vua Chuyển luân,
Có oai thế sức mạnh,
Quân chiến đấu lập công,
Liền ban thưởng các thứ,
Voi, ngựa và xe cộ,
Đồ trang sức trên thân,
Cùng ruộng đất, vườn nhà,
Thôn xóm và thành thị,
Hoặc ban cho y phục,
Đủ các món quý báu,
Người phục dịch, tiền của,
Vui vẻ ban thưởng cho.

Như có người dũng mãnh,
Làm được việc khó làm,
Vua liền mở búi tóc,
Lấy ngọc sáng ban cho.

Đức Như Lai cũng vậy,
Là vua của các pháp,
Sức nhẫn nhục rất lớn,
Có kho báu trí tuệ,
Dùng tâm đại từ bi,
Giáo hóa người như pháp.

Thấy hết thảy người đời,
Chịu bao điều khổ não,
Vì muốn cầu giải thoát,
Phải chiến đấu với ma.

Vì những chúng sanh ấy,
Phật thuyết đủ mọi pháp,
Dùng phương tiện lớn lao,
Thuyết dạy những kinh khác.

Khi rõ biết chúng sanh,
Đã được mạnh mẽ rồi,
Cuối cùng mới vì họ,
Thuyết kinh Pháp Hoa này.

Như vua cởi búi tóc,
Lấy ngọc sáng ban cho.
Kinh này là tôn quý,
Trên tất cả các kinh,
Phật vẫn thường gìn giữ,
Không tùy tiện chỉ bày.
Nay đúng lúc thích hợp,
Vì các ông thuyết giảng.

Sau khi ta diệt độ,
Những ai cầu đạo Phật,
Nếu muốn được an ổn,
Giảng kinh Pháp Hoa này,
Thì phải thường theo đúng,
Bốn pháp như nói trên.

Người tụng đọc kinh này,
Thường không có lo buồn,
Cũng không bệnh đau đớn,
Dáng vẻ được tươi sáng,
Không sanh vào cảnh nghèo,
Hoặc hèn kém, xấu xí;
Chúng sanh ưa thích gặp,
Như ngưỡng mộ hiền thánh,
Các đồng tử chư thiên,
Thường đi theo giúp đỡ,
Dao gậy không chạm đến,
Thuốc độc không thể hại,
Người xấu ác mắng chửi,
Liền bị bịt kín miệng.

Dạo chơi không sợ sệt,
Như sư tử chúa rừng.
Trí tuệ thường chiếu sáng,
Như mặt trời trên cao.

Người ấy khi nằm mộng,
Chỉ thấy điều tuyệt diệu,
Như thấy các đức Phật,
Ngồi trên tòa sư tử,
Có đại chúng tỳ-kheo,
Vây quanh nghe thuyết pháp.

Hoặc thấy chư thiên, rồng,
Cùng loài a-tu-la,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều cung kính chắp tay,
Lại thấy tự thân mình,
Đang vì họ thuyết pháp.

Lại được thấy chư Phật,
Thân tướng màu vàng ròng,
Phóng vô lượng hào quang,
Soi sáng khắp mọi nơi,
Dùng âm thanh Phạm thiên,
Diễn giải, thuyết các pháp.

Thấy Phật vì bốn chúng,
Thuyết giảng pháp Vô thượng,
Thấy thân mình ở đó,
Chắp tay ngợi khen Phật.

Được nghe pháp mừng vui,
Lại cúng dường lên Phật,
Rồi được pháp tổng trì,
Chứng trí tuệ bất thối.

Phật biết tâm người này,
Đã vào sâu đạo Phật,
Nên liền thụ ký cho,
Thành bậc Chánh Đẳng Giác:

‘Nghe đây thiện nam tử!
Trong một đời tương lai,
Ông được trí vô lượng,
Thành tựu Vô thượng đạo.
Cõi nước trang nghiêm, đẹp,
Rộng lớn không đâu bằng.’

Lại thấy có bốn chúng,
Cùng chắp tay nghe pháp.
Lại cũng thấy thân mình,
Ở giữa chốn rừng núi,
Tu tập các pháp lành,
Chứng biết các tướng thật,
Vào sâu các thiền định,
Thấy được mười phương Phật.
Chư Phật thân sắc vàng,
Trang nghiêm trăm phúc tướng.
Nghe pháp, vì người thuyết,
Thường nằm mộng an lành.

Mộng thấy làm quốc vương,
Bỏ cung điện, quyến thuộc
Năm món dục hấp dẫn,
Đi thẳng đến đạo trường.

Ngay dưới cội bồ-đề,
Ngồi trên tòa sư tử,
Cầu đạo qua bảy ngày,
Đạt trí tuệ chư Phật.

Thành đạo Vô thượng rồi,
Bắt đầu chuyển pháp luân,
Vì bốn chúng thuyết pháp,
Qua ngàn muôn ức kiếp,
Thuyết diệu pháp vô lậu,
Độ vô số chúng sanh.

Sau đó nhập Niết-bàn,
Như đèn tắt khói dứt.
Đời xấu ác về sau,
Thuyết pháp đệ nhất này,
Sẽ được lợi ích lớn,
Đủ công đức như trên.

________________________________

CHÚ THÍCH

[1] Nguyên tác là “行處 - hành xứ” và “親近處 - thân cận xứ”.

[2] Giai vị nhẫn nhục: tức nhẫn nhục địa (忍辱地), một trong các giai vị tu tập thành tựu của hàng Bồ Tát, bao gồm thành tựu được sanh nhẫn (生忍) và pháp nhẫn (法忍). Sanh nhẫn là nhẫn chịu được tất cả những điều trái ý do chúng sanh hữu tình gây ra cho mình, như bị mắng chửi, đánh đập, vu oan v.v.; pháp nhẫn là nhẫn chịu được tất cả những điều trái ý do hoàn cảnh bên ngoài gây ra như nóng bức, rét lạnh, đói khát v.v.

[3] Hán văn dùng chữ “親近 - thân cận” có lẽ để diễn đạt một ý nghĩa bao hàm rộng hơn, vì ngoài nghĩa hẹp là gần gũi còn bao hàm cả ý có sự chia sẻ mật thiết, có mối quan tâm chung. Bản kinh Chánh Pháp Hoa thì dịch là “tùng sự” (從事). Bản Anh dịch của H. Kern diễn đạt những ý nghĩa này phức tạp hơn là “not serve, not court, not wait upon… nor keep any intercourse with them” (không phục vụ, không lấy lòng, không mong đợi… cũng không có bất cứ mối quan hệ nào với họ). Do vậy, nên hiểu từ ngữ này theo một nghĩa mở rộng là không có mối quan hệ gần gũi, thân thiết, không nhờ cậy, không mua chuộc lấy lòng, không làm việc chung...

[4] Nguyên tác Hán văn dùng “大臣, 官長 - đại thần, quan trưởng” có lẽ muốn phân biệt các vị quan lớn (đại thần) và quan chức nói chung (quan trưởng).

[5] Hán văn dùng “外道梵志, 尼揵子等 - ngoại đạo Phạm chí, ni-kiền tử đẳng”. Chữ Phạm chí được dịch từ Phạn ngữ brāhmaṇa, thường đọc theo âm thành bà-la-môn, chỉ những người theo đạo thờ Phạm thiên. Trong ngữ cảnh này, Phạm chí chỉ người xuất gia theo ngoại đạo, trong khi ni-kiền tử chỉ cho những người theo ngoại đạo nhưng không xuất gia. Văn Cú Ký giải thích ngược lại, rằng ni-kiền tử chỉ người xuất gia và Phạm chí là người tại gia. Dù hiểu theo cách nào thì trong câu này cũng chỉ chung 2 hạng xuất gia và tại gia của ngoại đạo. Ni-kiền tử ở đây không dùng để chỉ phái ngoại đạo Ni-kiền tử, vì trước đó đã nói chung tất cả ngoại đạo rồi.

[6] Hán văn dùng chữ “外書 - ngoại thư”, không phải chỉ kinh sách ngoại đạo, mà chỉ chung những loại sách không thuộc về đạo Phật, tương tự như sự phân biệt nội điển (kinh sách đạo Phật) và ngoại điển (sách vở nói về những kiến thức thế tục). Bản Anh dịch của H. Kern chỉ nói chung là “literature” (văn chương).

[7] Nguyên tác Hán văn là “路伽耶陀, 逆路伽耶陀 - lộ-già-da-đà, nghịch lộ-già-da-đà”. Lộ-già-da-đà (lokayāta) dịch nghĩa là thuận theo thế tục, nghịch lộ-già-da-đà (vāmalokayāta) dịch nghĩa là ngược với thế tục. Tuy nhiên, Từ điển Phật Quang bản Hán ngữ dẫn Phạn văn kinh Pháp Hoa hiện còn cùng với bản Tạng ngữ, cho rằng lokayāta là tương đương với lokāyatamantradhāraṇā (trì thế chú thuật), và như vậy vāmalokayāta là nghịch lại với chú thuật, chỉ cho các triết lý thế gian. Bản Anh dịch của H. Kern chỗ này cũng dịch là “adepts at worldly spells, and votaries of a worldly philosophy” (những người giỏi chú thuật thế tục và những người sùng bái triết lý thế gian). Chúng tôi cho rằng các ý nghĩa này phù hợp hơn với ngữ cảnh của kinh văn đang đề cập. Đặc biệt ở đây không thể hiểu là danh xưng của các phái ngoại đạo, vì trước đó đã đề cập chung tất cả ngoại đạo rồi.

[8] Ở đây chỉ các trò như đấu kiếm, đấu vật, đấu võ đài v.v.

[9] Nguyên tác Hán văn là “那羅 - na-la”, phiên âm từ Phạn ngữ naṭa, chỉ chung những người biểu diễn nhảy múa, khiêu vũ v.v.

[10] Nguyên tác Hán văn là “種種變現之戲 - chủng chủng biến hóa chi hý”, chỉ tất cả các trò biến hóa lạ lùng để mua vui, tức là các trò biểu diễn ảo thuật.

[11] Kinh văn gọi chung những nghề nghiệp này là “諸惡律儀 - chư ác luật nghi”, chỉ đến những nghề nghiệp gây hại chúng sanh, tạo nghiệp xấu ác.

[12] Ở đây chỉ chung những người có tâm cầu quả Thanh văn trong bốn chúng, xuất gia cũng như tại gia.

[13] Nguyên tác Hán văn là “五 種不男 - ngũ chủng bất nam”, cũng gọi là “五種不能男 – ngũ chủng bất năng nam”, Phạn ngữ là pañca paṇḍakāḥ, chỉ 5 trường hợp tuy mang hình thể nam giới nhưng không có khả năng hành dâm hoặc hành dâm bất thường. Năm loại này bao gồm: 1. Sanh bất năng nam (生不能男 - jāti-paṇḍaka): người sanh ra đã không có khả năng hành dâm; 2. Bán nguyệt bất năng nam (半月不能男 - pakṣa-paṇḍaka): người mỗi tháng đều bị mất khả năng hành dâm trong nửa tháng; 3. Đố bất năng nam (妒不能男 - īrṣyā-paṇḍaka): người nhìn thấy người khác hành dâm khởi tâm ghen tức rồi mới tự mình khởi tâm dâm. 4. Tinh bất năng nam (精不能男 - āsaktaprādurbhāvī-paṇḍaka): người mỗi khi hành dâm thì nam căn biến mất. Cũng có chỗ giải thích rằng đây là người hành dâm thụ động, tùy thuộc vào người khác. 5. Bệnh bất năng nam (病不能男 - āpat-paṇḍaka): người do bệnh hoặc vì lý do khác phải cắt bỏ nam căn.

[14] Nguyên tác Hán văn là “無所有性 - vô sở hữu tánh”, có thể hiểu là tính chất không thể thuộc về sở hữu của người hay vật khác.

[15] Nguyên tác Hán văn là “一切語言道斷 - nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn” (dứt sạch mọi ngôn ngữ), hàm ý là tất cả ngôn từ, mọi cách diễn đạt đều không thể nêu ra, không thể mô tả được.

[16] Nguyên tác Hán văn là “一切種智 - nhất thiết chủng trí” (trí biết được tất cả), chỉ cho trí tuệ Phật, hiểu biết tất cả mọi vấn đề, không có phạm vi giới hạn. Ở đây muốn phân biệt với trí tuệ của ba thừa (Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát), tuy sáng suốt nhưng vẫn còn có giới hạn, chưa phải là Nhất thiết chủng trí.

[17] Nguyên tác Hán văn là “奴婢人民 - nô tỳ, nhân dân”, cần được hiểu theo bối cảnh của Ấn Độ thời cổ đại, trong đó có tồn tại chế độ nô lệ. Do vậy, khi nhà vua ban cho “nô tỳ” có nghĩa là các nô lệ có bổn phận phục dịch người chủ, và ban cho “nhân dân” có nghĩa là một số cư dân ở địa phương nào đó và người được ban thưởng có quyền thu thuế cũng như cai quản những cư dân này.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 30 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Tự lực và tha lực trong Phật giáo


Tôi đọc Đại Tạng Kinh


Sống đẹp giữa dòng đời


Hoa nhẫn nhục

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.168 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...