Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất hân hoan phấn chấn, liền đứng dậy chắp tay, chiêm ngưỡng dung nhan Phật rồi bạch rằng:
“Nay con theo đức Thế Tôn mà được nghe pháp âm này, trong lòng hân hoan phấn chấn, được việc chưa từng có. Vì sao vậy? Trước đây con theo Phật, từng được nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ Tát được thụ ký sẽ thành Phật, mà [hàng Thanh văn như] chúng con không được dự phần [vào việc thụ ký ấy] nên hết sức tự cảm thương, nghĩ mình đã mất đi tri kiến vô lượng của Như Lai.
“Bạch Thế Tôn! Con thường một mình ở dưới gốc cây trong chốn núi rừng, mỗi khi tĩnh tọa hoặc đi kinh hành đều tự nghĩ rằng: ‘Chúng con cũng cùng thể nhập tánh pháp, vì sao đức Như Lai lại dùng pháp Tiểu thừa để hóa độ [chúng con]? Đây là lỗi của chúng con, chẳng phải do đức Thế Tôn. Vì sao vậy? Nếu chúng con đợi đến khi [Thế Tôn] thuyết dạy về nhân thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì ắt có thể dùng pháp Đại thừa mà được giải thoát. Nhưng chúng con lại không hiểu được sự thuyết dạy tùy phương tiện thích hợp [của đức Như Lai], nên ban sơ vừa được nghe pháp [Tiểu thừa], có sự tỏ ngộ liền tin nhận ngay, suy xét [theo đó], lấy đó làm chỗ chứng ngộ.’
“Bạch Thế Tôn! Con từ xưa nay, cả ngày lẫn đêm vẫn luôn tự trách mình, đến hôm nay theo Phật được nghe pháp chưa nghe, vốn chưa từng có, nên dứt trừ hết mọi sự nghi hoặc, hối tiếc, thân tâm thư thái an nhiên, được sự an ổn sảng khoái. Ngày hôm nay con mới biết mình đích thực là con Phật, sinh ra từ miệng Phật, hóa sinh từ pháp Phật, cũng được có phần trong pháp Phật.”
Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn lặp lại nghĩa trên nên đọc kệ rằng:
Con nghe pháp âm này,
Được việc chưa từng có.
Lòng hết sức mừng vui,
Lưới nghi hoặc dứt sạch.
Xưa nay nhờ ơn Phật,
Dạy chẳng mất Đại thừa.
Tiếng Phật rất ít có,
Người nghe dứt não phiền,
Con đã sạch lậu hoặc,
Được nghe cũng dứt phiền.
Con ở trong hang núi,
Dưới gốc cây giữa rừng,
Ngồi thiền hoặc kinh hành,
Thường suy xét một việc:
“Chúng con thật đáng trách,
Sao tự xem thường mình?
Cũng đều là con Phật,
Cùng vào pháp vô lậu,
Nhưng tương lai không thể,
Giảng thuyết đạo Vô thượng.
Thân sắc vàng, tướng tốt,
Mười lực, các giải thoát.
[1]Chúng con cùng một pháp,
Nhưng chẳng được như Phật.
Không tám mươi vẻ đẹp,
Mười tám pháp chẳng cùng...
Những công đức như vậy,
Chúng con đều không có.
Con kinh hành một mình,
Thấy Phật giữa đại chúng,
Mười phương đều nghe danh,
Rộng làm lợi chúng sanh,
Tự xét không được vậy,
Vì tự xem thường mình.
Nên suốt ngày lẫn đêm,
Con thường xét việc này.
Muốn thưa hỏi Thế Tôn,
Tánh Phật còn hay mất?
Con thường thấy Thế Tôn,
Ngợi khen các Bồ Tát,
Rồi trong suốt ngày đêm,
Suy lường mãi việc ấy.
Hôm nay nghe Phật dạy,
Mới biết Phật tùy nghi.
Bởi pháp khó nghĩ bàn,
Phải phương tiện dẫn dắt.
Con vốn xưa tà kiến,
Làm thầy các Phạm chí.
Thế Tôn biết tâm con,
Thuyết Niết-bàn, trừ tà.
Con dứt sạch tà kiến,
Chứng đắc được pháp không.
Khi ấy con tự nhủ:
“Đã được diệt độ rồi.”
Hôm nay mới tự biết,
Chẳng phải thật diệt độ.
Chỉ khi đã thành Phật,
Đủ ba mươi hai tướng,
Khắp trời, người, dạ-xoa,
Rồng, thần... đều cung kính,
Khi ấy mới đúng là,
Thật Vô dư diệt độ.
Nay Phật giữa đại chúng,
Nói con sẽ thành Phật.
Con nghe tiếng pháp ấy,
Nghi hối đều dứt sạch.
Lúc vừa nghe Phật nói,
Rất kinh sợ, hoài nghi,
Cho là ma giả Phật,
Làm loạn tâm con chăng?
Phật dùng đủ mọi duyên,
Thí dụ, khéo giảng thuyết,
Tâm an ổn, như biển,
Con nghe dứt lòng nghi.
Phật thuyết trong quá khứ,
Vô số Phật diệt độ,
Trụ yên trong phương tiện,
Cũng đều thuyết pháp này.
Phật hiện tại, tương lai,
Nhiều vô số, vô lượng,
Cũng đều dùng phương tiện,
Diễn thuyết pháp như vậy.
Như Thế Tôn hiện nay,
Từ sinh ra, xuất gia,
Thành đạo, chuyển pháp luân,
Cũng dùng phương tiện thuyết.
Phật thuyết đạo chân thật,
Ba-tuần không thể thuyết.
Nên con biết chắc chắn,
Không phải ma giả Phật.
Bởi con sa lưới nghi,
Nên tưởng rằng ma nói.
Nghe tiếng Phật êm dịu,
Sâu xa, rất vi diệu,
Diễn giảng pháp thanh tịnh,
Tâm con rất hoan hỷ.
Dứt nghi nan hối tiếc,
An trụ trong thật trí,
Con nhất định thành Phật,
Được trời người cung kính.
Chuyển Pháp luân Vô thượng,
Giáo hóa các Bồ Tát.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Hôm nay ta sẽ nói rõ giữa đại chúng này, có chư thiên, loài người, sa-môn, bà-la-môn v.v... Trước đây ta từng ở nơi 20.000 ức vị Phật, vì thuyết dạy đạo Vô thượng nên thường giáo hóa ông. Ông cũng theo ta học đạo trong suốt đêm dài [của vô minh si ám]. Ta dùng phương tiện dẫn dắt ông được sinh vào trong Chánh pháp của ta. Xá-lợi-phất! Xưa ta dạy ông chí nguyện hướng theo Phật đạo, nay ông đã quên hết cả rồi nên [khi chứng quả Tiểu thừa] mới tự cho mình đã được diệt độ. Nay ta muốn làm cho ông nhớ lại chí nguyện và sự tu tập thuở xưa nên mới vì hàng Thanh văn mà thuyết kinh Đại thừa này, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.
“Xá-lợi-phất! Trong tương lai trải qua vô lượng vô biên số kiếp không thể nghĩ bàn, ông sẽ cúng dường biết bao nhiêu là ngàn muôn ức vị Phật, cung kính thọ trì Chánh pháp, thực hành đầy đủ mọi công hạnh của đạo Bồ Tát, rồi sẽ được thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
“Cõi Phật ấy tên là Ly Cấu, đất đai bằng phẳng ngay ngắn, thanh tịnh trang nghiêm, an ổn vui hòa, phong phú sung túc, chư thiên và loài người đều đông đúc thịnh vượng. Mặt đất nơi ấy toàn bằng lưu ly, đường đi thông suốt về tám hướng, dùng dây bằng vàng ròng giăng theo ven đường, hai bên đường đều có những cây bằng bảy báu đứng thành hàng, trên cây lúc nào cũng có hoa trái.
“Đức Như Lai Hoa Quang cũng dùng ba thừa để giáo hóa chúng sanh. Xá-lợi-phất! Khi đức Phật ấy ra đời, tuy không phải đời xấu ác nhưng do phát nguyện từ trước nên vẫn thuyết giảng giáo pháp ba thừa.
“Kiếp ấy tên là Đại bảo Trang Nghiêm. Vì sao tên là Đại Bảo Trang Nghiêm? Vì cõi Phật ấy xem các vị Bồ Tát là đại bảo, nghĩa là báu vật lớn lao. Các vị Bồ Tát ấy số nhiều vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, vượt ngoài giới hạn của mọi sự tính toán hay thí dụ so sánh, chỉ trí tuệ Phật mới rõ biết được số lượng ấy. Khi [các Bồ Tát] muốn bước đi liền [tự nhiên] có hoa báu nâng dưới bàn chân. Các vị Bồ Tát ấy không phải mới phát tâm, mà đều đã từ lâu vun trồng cội gốc công đức, tu hạnh thanh tịnh ở nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức đức Phật, thường được chư Phật ngợi khen tán thán, thường tu tập trí tuệ Phật, có đầy đủ các pháp thần thông lớn lao, khéo rõ biết cửa vào của hết thảy các pháp, chân thật không hư dối, tâm thường nhớ nghĩ chí nguyện kiên cố. Các vị Bồ Tát như vậy đông đảo đầy khắp cõi Phật ấy.
“Xá-lợi-phất! Thọ lượng của đức Phật Hoa Quang là mười hai tiểu kiếp, không tính thời gian còn là Vương tử, chưa thành Phật. Người dân trong cõi Phật ấy có tuổi thọ tám tiểu kiếp.
“Sau khi trải qua mười hai tiểu kiếp, đức Như Lai Hoa Quang thụ ký cho Bồ Tát Kiên Mãn sẽ thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài bảo các vị tỳ-kheo: “Bồ Tát Kiên Mãn đây sẽ thành Phật tiếp theo [sau ta], hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ... Cõi Phật ấy cũng giống như cõi này.”
“Xá-lợi-phất! Sau khi đức Phật Hoa Quang diệt độ rồi, Chánh pháp tiếp tục lưu truyền được ba mươi hai tiểu kiếp, thời Tượng pháp cũng lưu truyền ba mươi hai tiểu kiếp.”
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
Xá-lợi-phất tương lai,
Thành Đại trí Thế Tôn,
Hiệu là Phật Hoa Quang,
Sẽ độ vô số chúng.
Cúng dường vô số Phật,
Trọn đủ hạnh Bồ Tát,
Các công đức, thập lực...
Rồi chứng quả Vô thượng.
Trải qua vô số kiếp,
Thời Đại Bảo Trang Nghiêm.
Cõi nước tên Ly Cấu,
Thanh tịnh không uế nhiễm,
Mặt đất bằng lưu ly,
Dây vàng ròng ven đường,
Cây bảy báu đủ màu,
Hoa trái thường sum suê.
Các Bồ Tát cõi ấy,
Giữ chí nguyện kiên cố,
Và trọn đủ tất cả,
Thần thông, ba-la-mật,
Ở nơi vô số Phật,
Khéo học đạo Bồ Tát.
Phật Hoa Quang giáo hóa,
Những Bồ Tát như thế.
Phật từng là vương tử,
Bỏ ngai vàng, vinh hoa,
Trong lần tái sinh cuối,
Xuất gia, thành Phật đạo.
Phật Hoa Quang ở đời,
Được mười hai tiểu kiếp.
Nhân dân cõi Phật ấy,
Tuổi thọ tám tiểu kiếp.
Sau khi Phật diệt độ,
Chánh pháp vẫn lưu truyền,
Ba mươi hai tiểu kiếp,
Rộng độ khắp chúng sanh.
Chánh pháp diệt, Tượng pháp
Truyền ba hai tiểu kiếp.
Xá-lợi Phật rộng truyền,
Trời, người đều cúng dường.
Nói về Phật Hoa Quang,
Sự việc là như vậy.
Bậc Thánh Lưỡng Túc Tôn,
Cao tột chẳng ai bằng.
Chính ông thành Phật ấy,
Nên hãy tự mừng vui.
Khi ấy, bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, chư thiên, loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già..., đại chúng như vậy thấy ngài Xá-lợi-phất ở trước đức Phật được thụ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì trong tâm đều hết sức vui mừng, vô cùng phấn chấn, mỗi người đều cởi những tấm áo quý đang khoác trên người ra dâng lên cúng dường Phật. Các vị Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương v.v... cùng vô số chư thiên cũng đều dùng những tấm y tuyệt đẹp của cõi trời, những hoa mạn-đà-la, hoa đại mạn-đà-la ở cõi trời... tung rải lên cúng dường Phật. Những tấm y báu cõi trời khi rơi xuống liền dừng lại trên không trung rồi tự xoay chuyển giữa trời, có trăm ngàn loại âm nhạc của chư thiên đồng thời trỗi lên ở giữa không trung, từ trên mưa xuống các loại hoa trời, rồi [chư thiên] cất tiếng nói rằng: “Đức Phật xưa đã chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên ở thành Ba-la-nại, hôm nay lại chuyển bánh xe pháp Vô thượng lớn lao bậc nhất.”
Lúc bấy giờ chư thiên muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
Xưa ở Ba-la-nại,
Phật từng chuyển pháp luân,
Dạy tứ đế, các pháp,
Sinh, diệt của năm uẩn.
[2]Nay lại chuyển pháp luân,
Vô thượng, tối nhiệm mầu.
Pháp này thật sâu xa,
Ít người có thể tin.
Chúng con từ xưa nay,
Nghe Phật dạy rất nhiều,
Chưa từng nghe pháp này,
Rất nhiệm mầu, sâu xa.
Nay Phật thuyết pháp này,
Chúng con đều vui theo.
Đại trí Xá-lợi-phất,
Nay được Phật thụ ký.
Chúng con cũng như vậy,
Nhất định sẽ thành Phật.
So với khắp thế gian,
Là tôn quý, cao nhất.
Phật đạo không nghĩ bàn,
Phương tiện tùy nghi nói.
Con được bao phước nghiệp,
Dù đời này, đời trước,
Cùng công đức gặp Phật,
Đều hồi hướng Phật đạo.
Lúc ấy ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: “Thế Tôn! Nay con không còn nghi ngờ hối tiếc, vì tự thân mình ở trước Phật đã được Phật thụ ký sẽ thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong số một ngàn hai trăm vị đạt được tâm tự tại
[3] ở đây, thuở xưa khi còn ở bậc hữu học, Phật thường dạy các vị rằng: ‘Giáo pháp của ta có thể giúp xa lìa sinh, già, bệnh, chết, rốt ráo được Niết-bàn.’ Các vị hữu học và vô học ở đây, mỗi vị cũng đều đã lìa xa kiến chấp
[4] về tự ngã cũng như những kiến chấp về có hoặc không..., đều tự cho rằng mình đã đạt được Niết-bàn, nay ở trước đức Thế Tôn được nghe những điều chưa từng nghe, thảy đều rơi vào sự nghi hoặc.
“Lành thay, bạch Thế Tôn! Nguyện Phật vì bốn chúng thuyết dạy rõ nhân duyên, khiến cho được xa lìa sự nghi ngờ hối tiếc.”
Lúc bấy giờ đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Chẳng phải trước đây ta đã từng nói rằng ‘Các đức Phật Thế Tôn dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện để thuyết pháp, đều là vì [dẫn dắt đến] quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác’ đó sao? Cho nên, hết thảy những điều thuyết dạy đó đều là vì giáo hóa hàng Bồ Tát.
“Nhưng này Xá-lợi-phất, nay ta lại sẽ dùng thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa ấy. Những ai có trí tuệ, nhờ thí dụ này sẽ hiểu được.
“Xá-lợi-phất! Ví như ở một đất nước, đô thành hay thôn xóm kia, có vị đại trưởng giả tuổi cao sức yếu, giàu có vô cùng, sở hữu rất nhiều ruộng vườn, nhà cửa, tôi tớ. Căn nhà của ông hết sức rộng lớn nhưng chỉ có duy nhất một cửa ra vào. Trong nhà có rất nhiều người, một trăm, hai trăm, thậm chí đến năm trăm người cùng ở bên trong. Căn nhà ấy, cả nhà chính và các tầng gác đều mục nát, tường vách nghiêng đổ, cột trụ hư mục, xà nhà với mái nhà đều sắp sụp đổ, rồi bỗng nhiên bốn phía đều có lửa dữ cùng lúc bốc lên, thiêu đốt cả căn nhà. Ông trưởng giả ấy có những người con, hoặc mười người, hoặc hai mươi người, thậm chí đến ba mươi người, đều đang ở trong căn nhà ấy.
“Ông trưởng giả thấy lửa dữ bốc lên quanh bốn phía nhà thì hết sức kinh hãi, liền nghĩ rằng: ‘Nay ta tuy có thể xuyên qua cửa đang cháy mà thoát ra ngoài an ổn, nhưng các con ta đều còn đang ở trong nhà, vui chơi đùa giỡn không hay không biết gì, không chút sợ hãi, lửa cháy thiêu thân, đau đớn kinh người, tâm không chán sợ, không có ý muốn thoát ra.’
“Xá-lợi-phất! Ông trưởng giả ấy lại nghĩ rằng: ‘Thân ta mạnh, tay ta khỏe, có thể dùng vạt áo rộng [bọc lấy các con], hoặc đặt chúng trên ghế, trên bàn lớn rồi đưa ra khỏi nhà.’ Nhưng rồi ông lại nghĩ: ‘Nhà này chỉ có một cửa, lại nhỏ hẹp, các con ta thơ dại chưa đủ nhận thức, đắm vui trong chỗ chơi đùa, [nếu làm vậy] e rằng chúng vùng vẫy rơi xuống, ắt phải bị lửa thiêu.’
“Nay ta nên vì chúng nói ra những việc đáng kinh sợ, rằng căn nhà này đã bốc cháy, phải nhanh chóng thoát ra, đừng để cho bị lửa thiêu đốt.’ Nghĩ như vậy rồi liền y theo đó bảo với các con: ‘Hãy mau mau ra khỏi nhà này.’
“Tuy người cha ấy thương xót các con, dùng lời khéo léo dẫn dụ, nhưng các con ông đang vui chơi đùa giỡn, không chịu nghe theo, không chút kinh sợ, không hề có ý muốn thoát ra khỏi nhà, lại cũng không biết lửa là gì, nhà cửa là gì, sao gọi là cháy mất... chỉ cùng nhau vui đùa, chạy tới chạy lui chỗ này chỗ kia rồi giương mắt nhìn cha mà thôi.
“Bấy giờ, ông trưởng giả liền suy nghĩ rằng: ‘Căn nhà này đang bị lửa dữ thiêu đốt, nếu ta và các con không kịp thời thoát ra bên ngoài ắt sẽ bị thiêu cháy. Nay ta phải dùng phương tiện để làm sao cho các con ta thoát khỏi tai nạn này.’
“Người cha biết ý các con trước đây đều ưa thích những món đồ chơi quý lạ, ắt sẽ rất muốn có, liền bảo chúng rằng: ‘Có những món đồ chơi các con rất thích, hiếm có khó được, nay nếu các con không mau nhận lấy thì sau này sẽ phải hối tiếc. Đó là đủ các loại xe dê, xe nai, xe trâu, hiện nay đều đang ở bên ngoài cửa, có thể dùng để vui chơi. Các con từ trong căn nhà đang cháy này nên nhanh chóng chạy ra bên ngoài, cứ tùy theo ý thích mà lấy, cha sẽ cho các con tất cả.’
“Bấy giờ, những đứa con nghe cha nói đến các món đồ chơi quý báu hợp với ý thích, tất cả đều hết sức nhanh chóng, thúc đẩy chen lấn, tranh nhau cùng chạy nhanh ra khỏi căn nhà đang cháy.”
“Khi ấy, ông trưởng giả thấy các con đã bình an ra khỏi, đều đến ngồi nơi khoảng đất trống giữa ngã tư đường, không còn gì chướng ngại nên hết sức yên lòng, vui mừng phấn chấn. Lúc ấy, những người con đều thưa với cha rằng: ‘Trước đây cha đã hứa cho đầy đủ các món đồ chơi đẹp, như xe dê, xe nai, xe trâu, giờ xin cha hãy cho.’
“Xá-lợi-phất! Khi ấy ông trưởng giả liền cho tất cả các con mỗi người một cỗ xe lớn như nhau. Xe ấy cao rộng, trang hoàng bằng các vật báu, có lan can bao quanh, bốn phía treo chuông nhỏ, bên trên lại có lọng che, cũng dùng các loại châu báu quý lạ để trang trí, có dây báu quấn quanh lọng với những vòng hoa rủ xuống, [trên xe] trải nhiều lớp thảm, có gối đỏ [tựa đầu]. Xe được kéo bằng trâu trắng lớn có màu da thuần khiết, hình thể mập mạp xinh đẹp, gân cốt bắp thịt nở nang mạnh mẽ, bước đi ngay ngắn, lướt nhanh như gió, lại có nhiều người đi theo hầu hạ, bảo vệ.
“Vì sao vậy? Ông trưởng giả này giàu có vô cùng, có đủ mọi kho tàng mà tất cả đều chất chứa đầy tràn, nên ông nghĩ rằng: ‘Ta có tiền bạc của cải nhiều không kể xiết, không nên cho con ta những cỗ xe xấu nhỏ. Nay những đứa trẻ này đều là con ta, được ta thương yêu như nhau không hề thiên lệch. Ta có vô số những cỗ xe lớn bằng bảy báu như thế này, nên dùng tâm bình đẳng mà chia đều cho tất cả các con, không nên khác biệt nhau. Vì sao vậy? Nếu ta đem những cỗ xe như thế này mà tặng cho dân khắp trong một nước còn không thiếu, huống hồ chỉ cho các con ta?’ Khi ấy những người con của ông trưởng giả, mỗi người đều đi trên một cỗ xe lớn, được việc chưa từng có, hơn cả sự mong đợi.
“Xá-lợi-phất! Ý ông nghĩ sao, vị trưởng giả ấy cho các con những cỗ xe lớn quý báu như nhau [thay vì xe dê, xe nai, xe trâu như đã hứa], vậy có mắc lỗi nói dối hay chăng?”
Ngài Xá-lợi-phất thưa: “Không phải vậy, bạch Thế Tôn! Vị trưởng giả ấy [trước đây nói như vậy] chỉ là vì muốn cho các con thoát khỏi nạn lửa cháy, bảo toàn mạng sống, chẳng phải là nói dối. Vì sao vậy? Nếu giữ được mạng sống thì xem như đã được món đồ chơi quý báu rồi, huống chi lại là dùng phương tiện trong nhà đang cháy kia để cứu thoát [các con] ra. Bạch Thế Tôn! Ví như vị trưởng giả kia thậm chí không cho [các con] chiếc xe nào dù là nhỏ nhất thì cũng không phải là nói dối. Vì sao vậy? Vì trước tiên ông trưởng giả ấy đã có ý nghĩ rằng: ‘Ta dùng phương tiện này để khiến cho các con được thoát ra [khỏi căn nhà đang cháy].’ Vì lý do ấy, ông không mắc lỗi nói dối. Huống chi ông trưởng giả tự biết mình giàu có vô cùng, muốn làm lợi ích cho các con nên bình đẳng ban cho [mỗi người một] cỗ xe lớn.”
Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Lành thay, lành thay! Đúng như ông nói. Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai cũng giống như vậy, là đấng cha lành của hết thảy [chúng sanh trong] thế gian, đối với tất cả những sự sợ hãi, phiền não, suy yếu, tai họa, lo âu hay sự tối tăm che lấp của vô minh, ngài đều đã vĩnh viễn dứt sạch hoàn toàn, thành tựu vô số những sự thấy biết cùng [các phẩm tính như] lực, vô sở úy, có sức thần thông lớn lao cùng sức trí tuệ, đầy đủ các phương tiện trí tuệ ba-la-mật, đại từ đại bi, thường làm những việc hiền thiện lợi ích cho hết thảy chúng sanh, không hề mỏi mệt. Đức Như Lai sinh vào trong ba cõi này như căn nhà mục nát đang bốc cháy, vì cứu độ chúng sanh thoát khỏi ngọn lửa dữ của sinh, già, bệnh, chết, buồn đau, khổ não, ngu si, tối tăm hôn ám và ba món độc: tham lam, sân hận, si mê, nên ngài giáo hóa khiến cho đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Đức Như Lai nhìn thấy các chúng sanh bị thiêu đốt bởi sinh, già, bệnh, chết, buồn đau, khổ não, lại cũng vì năm món dục và tiền tài, lợi lộc mà phải chịu đủ mọi thứ khổ đau, lại vì sự tham lam bám chấp tìm cầu mà hiện tại phải chịu mọi sự khổ não, đời sau còn phải khổ vì đọa vào các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu như được sinh lên cõi trời hoặc cõi người, lại cũng phải chịu những nỗi khổ như nghèo cùng khốn khó, phải xa lìa người mình thương yêu, phải gặp gỡ người mình oán ghét... đủ mọi nỗi khổ như vậy. Chúng sinh chìm đắm trong những nỗi khổ ấy, vui mừng đùa giỡn, không hay không biết, chẳng khiếp chẳng sợ, cũng không sinh tâm chán bỏ, không cầu được giải thoát, ở trong ba cõi như căn nhà đang bốc cháy mà mãi chạy loanh quanh đó đây, dù phải gặp những nỗi khổ lớn lao nhưng không cho đó là đáng sợ.
“Này Xá-lợi-phất! Phật nhìn thấy như vậy, liền suy nghĩ rằng: ‘Ta là đấng cha lành của chúng sanh, phải giúp trừ cho hết khổ nạn, mang đến cho chúng sanh niềm vui từ trí tuệ Phật vô lượng vô biên, khiến họ được vui thích.’
“Xá-lợi-phất! Rồi Như Lai lại nghĩ: ‘Nếu ta chỉ dùng sức thần thông và sức trí tuệ, không dùng phương tiện, vì chúng sanh mà ngợi khen xưng tán tri kiến, lực, vô sở úy… của Như Lai, thì chúng sanh không thể nào nhờ đó để được cứu độ. Vì sao vậy? Vì chúng sanh chưa thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, buồn lo, khổ não... đang bị thiêu đốt trong ba cõi như căn nhà đang cháy, dựa vào đâu để có thể hiểu được trí tuệ Phật?’
“Xá-lợi-phất! Cũng như ông trưởng giả kia tuy có sức mạnh nhưng không dùng đến, chỉ ân cần dùng phương tiện dẫn dụ để cứu thoát các con ra khỏi nạn nhà cháy, sau đó mới cho mỗi người một cỗ xe lớn quý báu. Đức Như Lai cũng vậy, tuy có lực, vô sở úy... nhưng không dùng đến, chỉ dùng phương tiện trí tuệ, trong căn nhà lửa ba cõi này mà cứu vớt chúng sanh, vì chúng sanh thuyết dạy ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Phật thừa mà nói rằng: “Các người chớ nên vui thú trong ba cõi như căn nhà đang cháy, chớ tham muốn những hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm thô trược thấp hèn. Nếu tham muốn bám chấp thì sinh ra ái luyến, ắt sẽ bị thiêu cháy. Các người phải nhanh chóng thoát ra khỏi ba cõi, sẽ đạt được ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Phật thừa. Ta nay vì các người mà bảo đảm cho việc này, nhất định không hề hư dối. Các người hãy chuyên cần tinh tấn tu tập.’
“Đức Như Lai dùng phương tiện dẫn dụ khuyên bảo khuyến khích chúng sanh nên lại nói rằng: ‘Các người nên biết, giáo pháp ba thừa này được các bậc thánh ngợi khen xưng tán, tự do tự tại không trói buộc, không có chỗ nương dựa mong cầu. Nương theo [giáo pháp] ba thừa này, dùng các pháp vô lậu như căn, lực, giác, đạo, thiền định, giải thoát, tam-muội v.v... để tự vui thích, liền được vô lượng an ổn, khoái lạc.’
“Xá-lợi-phất! Nếu có những chúng sanh nào trong tâm có tánh trí, theo Phật Thế Tôn nghe pháp rồi tin nhận, lưu tâm chuyên cần tinh tấn, muốn nhanh chóng thoát ra ngoài ba cõi, tự mình cầu đạt Niết-bàn, đó gọi là hàng Thanh văn thừa, cũng giống như những đứa con [của ông trưởng giả] vì muốn được xe dê mà [nhanh chóng] ra khỏi căn nhà đang cháy.
“Nếu có những chúng sanh nào theo Phật Thế Tôn nghe pháp rồi tin nhận, lưu tâm chuyên cần tinh tấn, cầu đạt trí tuệ tự nhiên, vui thích sống cô độc tịch tịnh, rõ biết sâu xa nhân duyên của các pháp, đó gọi là hàng Duyên giác thừa, cũng giống như những đứa con [của ông trưởng giả] vì muốn được xe nai mà [nhanh chóng] ra khỏi căn nhà đang cháy.
“Nếu có những chúng sanh nào theo Phật Thế Tôn nghe pháp rồi tin nhận, chuyên cần tinh tấn tu tập, cầu trí tuệ biết tất cả, trí tuệ tự nhiên, trí tuệ không do thầy dạy, cùng những phẩm tính của Như Lai như tri kiến, lực, vô sở úy, thường thương xót nhớ nghĩ, làm an vui vô lượng chúng sanh, làm lợi ích khắp hàng trời người, độ thoát hết thảy [chúng sanh], đó gọi là hàng Đại thừa. Bồ Tát cầu Đại thừa như vậy nên gọi là Đại [Bồ Tát], cũng giống như những đứa con [của ông trưởng giả] vì muốn được xe trâu mà [nhanh chóng] ra khỏi căn nhà đang cháy.
“Xá-lợi-phất! Cũng như ông trưởng giả kia nhìn thấy các con đã an toàn ra khỏi căn nhà đang cháy, đến được chỗ không còn lo sợ, tự nghĩ mình giàu có tài vật nhiều không kể xiết, liền cho tất cả các con cùng một loại xe lớn [quý báu] như nhau. Đức Như Lai cũng vậy, là đấng cha lành của hết thảy chúng sanh, ngài nhìn thấy vô số muôn ức chúng sanh nhờ các pháp môn Phật dạy mà thoát ra khỏi khổ não trong ba cõi, vượt qua đường hiểm nguy đáng sợ, đạt được niềm vui Niết-bàn.
“Khi ấy đức Như Lai liền nghĩ rằng: ‘Ta có kho tàng Chánh pháp của chư Phật gồm vô lượng vô biên trí tuệ, lực, vô sở úy… Những chúng sanh này đều là con ta, sẽ bình đẳng trao cho Đại thừa, không để chỉ riêng một người được diệt độ, đối với tất cả đều dùng sự diệt độ của Như Lai mà khiến cho được diệt độ.’
“[Cho nên, với] tất cả những chúng sanh đã thoát ra ngoài ba cõi, [đức Như Lai] đều trao cho đầy đủ sự an vui từ thiền định, giải thoát... của chư Phật, tất cả đều cùng một tướng thể, một chủng loại được các bậc thánh ngợi khen xưng tán, thường làm khởi sinh niềm vui nhiệm mầu thanh tịnh bậc nhất.
“Này Xá-lợi-phất! Như ông trưởng giả kia, ban đầu dùng ba loại xe để dẫn dụ các con [ra khỏi căn nhà đang cháy], sau đó lại chỉ cho cùng một loại xe lớn quý báu trang nghiêm, thoải mái bậc nhất, nhưng ông trưởng giả ấy không hề có lỗi nói dối. Đức Như Lai cũng vậy, không hề hư dối, tuy là ban đầu thuyết dạy ba thừa để dẫn dắt chúng sanh nhưng sau lại chỉ dùng Đại thừa để độ thoát hết thảy. Vì sao vậy? Vì đức Như Lai có kho tàng chứa vô lượng các pháp trí tuệ, lực, vô sở úy… có thể ban pháp Đại thừa cho hết thảy chúng sanh, [nhưng có những chúng sanh không nhận được] chỉ vì không phải tất cả chúng sanh đều có khả năng thọ nhận.
“Xá-lợi-phất! Do nhân duyên như vậy, nên biết rằng chư Phật dùng sức phương tiện mà từ một Phật thừa phân biệt thuyết dạy thành ba thừa.”
[Khi ấy,] đức Phật muốn lặp lại những ý nghĩa trên nên đọc kệ rằng:
Ví như ông trưởng giả,
Có một căn nhà lớn.
Nhà cũ kỹ đã lâu,
Lại thêm rất xấu tệ.
Sảnh đường cao sắp đổ,
Cột trụ mục rệu rã,
Xà, rường đều nghiêng lệch,
Nền móng lún sụp cả.
Tường vách nứt nghiêng đổ,
Vôi vữa tróc rơi xuống.
Mái lợp rớt ngổn ngang.
Các xà nhà lệch khớp,
Đầy chướng ngại quanh co,
Ô uế ngập bốn bề.
Hiện có năm trăm người,
Đang sống trong nhà ấy.
Cú,
[5] diều hâu, kên kên,
Quạ, khách, cưu,
[6] bồ câu…
Rắn hổ mang, bọ cạp,
Rết độc, sâu do diên,
[7]Tắc kè, trùng nhiều chân...
[8]Vượn, chồn cáo, chuột nhắt,
Với các loại trùng độc,
Cùng dọc ngang ruổi chạy.
Nước tiểu, phân hôi thối,
Nhơ nhớp chảy lan tràn.
Giòi, bọ hung lúc nhúc,
Trên những ô uế đó.
Lũ cáo, sói, chồn hoang,
Liếm láp rồi giẫm đạp,
Cắn xé những xác chết,
Làm vung vãi xương thịt...
Do vậy bầy chó hoang,
Cùng xúm lại tranh nhau.
Chúng đói, gầy, sợ sệt,
Khắp chốn tìm thức ăn,
Cấu xé giành giật nhau,
Gầm rú, sủa, tru tréo.
Căn nhà ấy biến dạng,
Đáng sợ đến như thế.
Nên khắp nơi đều có,
Lũ yêu ma quỷ quái,
Quỷ dạ-xoa ác độc,
Ăn nuốt xương thịt người.
Đủ các loài trùng độc,
Lũ chim, thú hung ác,
Ấp trứng hoặc sinh con,
Tự che giấu, bảo vệ,
Bầy dạ-xoa đua nhau,
Giành giật để ăn nuốt.
Ăn đã no nê rồi,
Tâm hung ác càng mạnh,
Chúng đánh nhau gào thét,
Nghe đáng sợ vô cùng.
Loài quỷ cưu-bàn-trà,
[9]Ngồi xổm trên gò đất,
Hoặc có lúc lơ lửng,
Cách đất một, hai thước,
Bay qua rồi bay lại,
Tha hồ đùa bỡn nhau.
Nắm chặt hai chân chó,
Đánh cho kêu thất thanh,
Rồi đá bồi vào cổ,
Chó sợ, quỷ tự vui.
Lại có nhóm quỷ khác,
Thân thể rất cao lớn,
Đen đúa, gầy, trần truồng,
Thường ở trong nhà này,
Phát tiếng lớn, hung hãn,
Kêu la mong được ăn.
Lại có những con quỷ,
Cổ nhỏ như kim khâu.
Còn có những con quỷ,
Đầu giống như đầu trâu,
Hoặc ăn nuốt thịt người,
Hoặc ăn cả thịt chó.
Đầu tóc như cỏ rối,
Hung hiểm, ác, nguy hại,
Vì đói khát bức bách,
Kêu thét chạy khắp nơi.
Bọn dạ-xoa, ngạ quỷ,
Loài chim, thú hung dữ,
Khắp bốn phía, đói khát,
Rình rập ngoài song cửa.
Những hiểm nạn như thế,
Thật đáng sợ vô cùng.
Nhà cũ, mục nát ấy,
Thuộc sở hữu một người.
Người vừa mới ra ngoài,
Chỉ trong một chốc lát,
Thì từ phía sau nhà,
Bỗng nhiên lửa cháy lên.
Rồi đồng loạt bốn phía,
Lửa bốc cao hừng hực.
Rồi xà ngang cột dọc,
Nổ lớn, xé tung ra,
Gãy đổ cùng rơi rụng,
Tường vách nghiêng đổ xuống.
Các quỷ thần trong nhà,
Đều lớn tiếng kêu la,
Lũ kên kên, diều hâu...
Với quỷ cưu-bàn-trà...
Đều kinh hoàng, hốt hoảng,
Không thể tự thoát ra.
Những thú dữ, trùng độc...
Chui trốn vào hang hốc...
Lũ quỷ tỳ-xá-xà,
[10]Cũng đang trong nhà ấy,
Vì phúc đức mỏng manh,
Bị sức lửa bức bách,
Quay sang giết hại nhau,
Rồi uống máu, ăn thịt.
Lúc ấy loài chồn hoang,
Hết thảy đều chết trước.
Những thú lớn hung dữ,
Liền tranh nhau ăn thịt,
Mùi hôi thối, khét nghẹt...
Bao phủ khắp bốn bề.
Ông trưởng giả chủ nhà,
Còn đang đứng ngoài cửa,
Nghe có người nói rằng:
“Những đứa con của ông,
Lúc trước cùng đi chơi,
Vào cả trong nhà này.
Chúng nhỏ dại, không biết,
Ham chơi đùa trong ấy.”
Ông trưởng giả nghe rồi,
Hốt hoảng vào nhà cháy.
Tìm cách cứu các con,
Khỏi nạn lửa thiêu chết.
Nói cho các con biết,
Những nguy hiểm, tai nạn,
Nào quỷ dữ, trùng độc...
Ngọn lửa đang lan khắp...
Bao nỗi khổ tuần tự,
Tiếp nối nhau không dứt.
Rắn hổ mang, bọ cạp...
Cùng lũ quỷ dạ-xoa,
Với quỷ cưu-bàn-trà,
Chồn, cáo và chó hoang,
Kên kên, cú, diều hâu,
Cùng những loài rết độc,
Chúng đang cơn đói khát,
Thật rất đáng kinh sợ.
Nơi đây đầy khổ nạn,
Lại thêm lửa bốc cao.
Các con chưa hiểu biết,
Nên tuy nghe cha dạy,
Vẫn tiếp tục ham chơi,
Đùa giỡn mãi không thôi.
Bấy giờ ông trưởng giả,
Liền tự suy nghĩ rằng:
“Các con ta thế này,
Khiến ta thêm buồn khổ.
Nay trong căn nhà này,
Chẳng có gì đáng vui.
Vậy mà các con ta,
Mãi đắm say vui đùa,
Không nghe lời ta dạy,
Nên sắp bị lửa thiêu.”
Ông liền suy nghĩ kỹ,
Bày ra các phương tiện,
Rồi bảo các con rằng:
“Cha có đủ mọi loại,
Đồ chơi rất quý báu,
Như xe đẹp và quý,
Gồm xe dê, xe nai,
Và cả xe trâu lớn.
Nay sẵn có ngoài cửa,
Các con hãy mau ra.
Cha đã vì các con,
Làm ra những xe này.
Các con tùy sở thích,
Cứ tha hồ vui chơi.”
Các con nghe cha nói,
Về những loại xe ấy.
Liền tức thời đua nhau,
Nhanh chóng chạy ra ngoài.
Đến được chỗ đất trống,
Lìa xa mọi nạn khổ.
Trưởng giả thấy các con,
Ra khỏi căn nhà cháy,
An ổn ngã tư đường.
Liền ngồi tòa sư tử,
Tự nói lời vui mừng:
“Ta nay mừng lắm thay!
Những đứa con của ta,
Sinh dưỡng rất khó khăn,
Vì tuổi nhỏ dại khờ,
Nên vào nhà nguy hiểm,
Có rất nhiều trùng độc,
Cùng yêu quái đáng sợ.
Lửa dữ cháy phừng phừng,
Bốn bề cùng nổi dậy.
Nhưng những đứa con này,
Vẫn mê mải ham chơi.
Ta đã cứu chúng ra,
Thoát khỏi được tai nạn.
Nên bảo cùng mọi người,
Ta nay rất mừng vui.”
Lúc bấy giờ các con,
Thấy cha đã yên ngồi,
Liền kéo nhau đến đó.
Thưa cùng cha thế này:
“Xin ban cho chúng con,
Ba loại xe quý đẹp,
Như trước đây đã hứa:
‘Nếu các con ra ngoài,
Cha sẽ cho ba xe,
Tùy ý các con muốn.’
Nay đã đúng lúc rồi,
Xin cha thương ban cho.”
Ông trưởng giả rất giàu,
Có nhiều kho tàng lớn,
Vàng bạc cùng lưu ly,
Xa cừ và mã não.
Nên dùng các vật báu,
Làm thành cỗ xe lớn.
Trang hoàng thật xinh đẹp.
Quanh xe có lan can,
Bốn phía treo chuông nhỏ.
Dây bằng vàng quấn quanh,
Kết ngọc trai thành lưới,
Giăng phủ bên trên xe.
Dùng hoa vàng, chuỗi ngọc,
Buông rủ khắp bốn bên.
Dùng tơ lụa đủ màu,
Bao bọc vòng quanh xe,
Dùng lụa, bông mềm mại,
Để trải làm nệm xe.
Dùng vải mịn tốt nhất,
Giá trị đến nghìn muôn,
Trắng đẹp, sạch, thuần khiết,
Bao phủ trên mặt nệm.
Lại dùng trâu trắng lớn,
Mập mạp và khỏe mạnh,
Hình dáng rất xinh đẹp,
Để kéo xe quý ấy.
Có nhiều người đi theo,
Để hầu hạ, bảo vệ.
Dùng xe tốt đẹp ấy,
Ban đều cho các con.
Những người con khi ấy,
Rất vui mừng phấn chấn,
Ngồi trên cỗ xe quý,
Dạo chơi khắp bốn phương,
Cùng chơi đùa vui thích,
Tự do không ngăn ngại.
Phật bảo Xá-lợi-phất:
Ta cũng giống như vậy.
Tôn quý giữa chư thánh.
Cha lành khắp thế gian,
Nên hết thảy chúng sanh,
Đều là con Như Lai.
Mãi đắm vui thế gian,
Không có tâm trí tuệ.
Ba cõi không an ổn,
Như căn nhà đang cháy,
Ngập tràn các nỗi khổ,
Thật đáng sợ vô cùng.
Thường chịu khổ sinh, già,
Bệnh, chết và âu lo...
Những thứ lửa như vậy,
Thiêu đốt mãi không dừng.
Như Lai đã lìa xa,
Nhà cháy là ba cõi,
Sống thanh nhàn, tịch lặng,
Trong rừng vắng an ổn.
Nay khắp ba cõi này,
Đều thuộc về Như Lai,
Nên chúng sanh trong đó,
Đều là con Như Lai.
Mà nay ba cõi ấy,
Đẫy dẫy các khổ nạn,
Chỉ riêng đức Như Lai,
Có khả năng cứu giúp.
Nhưng dù đã dạy bảo,
Chúng sinh không tin nhận.
Vì đối với các dục,
Quá đắm nhiễm, tham chấp.
Nên Phật dùng phương tiện,
Vì họ nói ba thừa.
Để giúp cho chúng sanh,
Biết khổ trong ba cõi.
Mở bày và giảng giải,
Con đường xuất thế gian.
Những chúng sanh được nghe,
Nếu có tâm quyết định,
Liền đầy đủ ba minh,
Cùng với sáu thần thông.
Hoặc đạt quả Duyên giác,
Hoặc Bồ Tát bất thối.
Nghe đây, Xá-lợi-phất!
Ta chỉ vì chúng sanh,
Mà dùng thí dụ này,
Để thuyết một Phật thừa.
Các ông nếu có thể,
Tin nhận những lời này,
Thì tất cả đều sẽ,
Được thành tựu Phật đạo.
Phật thừa này vi diệu,
Vốn thanh tịnh bậc nhất,
Đối với khắp thế gian,
Không có gì hơn được.
Chư Phật đều hoan hỷ.
Và hết thảy chúng sanh,
Nên ngợi khen xưng tán,
Cùng cúng dường lễ bái.
Gồm vô số muôn ngàn,
Các pháp lực, giải thoát,
Thiền định và trí tuệ,
Cùng những pháp Phật khác.
Đạt được Phật thừa này,
Sẽ giúp cho các ông,
Ngày đêm vô số kiếp,
Thường được vui rong chơi.
Với các vị Bồ Tát,
Cùng đại chúng Thanh văn,
Nương theo thừa báu này,
Liền thẳng đến Đạo trường.
Vì nhân duyên như vậy,
Nên tìm khắp mười phương,
Không có thừa nào khác,
Trừ phương tiện của Phật.
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Nay tất cả các ông,
Đều là con Như Lai,
Phật là đấng cha lành.
Các ông qua nhiều kiếp,
Bị khổ não thiêu đốt,
Đều được ta cứu giúp,
Đưa ra ngoài ba cõi.
Trước đây tuy Phật nói:
“Các ông được diệt độ”
Nhưng chỉ dứt sinh tử,
Thật chưa được diệt độ.
Nay việc cần phải làm,
Chỉ cầu trí tuệ Phật.
Nếu như có Bồ Tát
Ở giữa chúng hội này,
Có thể chuyên tâm nghe,
Pháp thật của chư Phật.
Là chư Phật Thế Tôn,
Tuy dùng nhiều phương tiện,
Chúng sinh được giáo hóa,
Thảy đều là Bồ Tát.
Người trí tuệ hạn hẹp,
Lại đắm sâu ái dục,
Phật vì những người ấy,
Trước chỉ bày Khổ đế.
Chúng sinh ấy vui mừng,
Được điều chưa từng có,
Thấy Phật nói Khổ đế,
Đúng sự thật không khác.
Nếu có những chúng sanh,
Không biết nguồn gốc khổ,
Bám chấp nhân tạo khổ,
Không một chút tạm dừng.
Phật vì những người ấy,
Thuyết dạy đạo phương tiện,
Rằng nguyên nhân các khổ,
Đều ở nơi tham dục.
Nếu tham dục dứt trừ,
Không còn chỗ sinh khởi,
Thì các khổ dứt sạch,
Đó gọi là Diệt đế.
Vì muốn đạt Diệt đế,
Nên tu hành theo đạo,
Lìa các khổ trói buộc,
Gọi là được giải thoát.
Người ấy nhờ nơi đâu,
Mà đạt được giải thoát?
Chỉ xa lìa hư dối,
Mà gọi là giải thoát.
Thật ra vẫn chưa được,
Giải thoát hết tất cả.
Nên Phật nói người ấy,
Chưa thật được diệt độ.
Người ấy chưa đạt được,
Đạo Vô thượng Chánh giác,
Nên ý Phật không muốn,
Cho đó là diệt độ.
Phật là đấng Pháp vương,
Tự tại với các pháp,
Làm an ổn chúng sanh,
Nên xuất hiện ở đời.
Này ông Xá-lợi-phất!
Pháp ấn này của ta,
Thuyết dạy chỉ vì muốn,
Làm lợi ích thế gian.
Các ông đi khắp nơi,
Chớ sai lệch nói ra.
Nếu có người nghe được,
Mừng vui, cung kính nhận,
Nên biết rằng người ấy,
Đã được trí bất thối.
Nếu có người tin nhận,
Kinh điển, giáo pháp này,
Đó là người đã từng,
Gặp Phật trong quá khứ,
Từng cung kính cúng dường,
Cũng từng nghe pháp này.
Nếu như ai có thể,
Tin lời ông nói ra,
Đó là người thấy Phật,
Cũng thấy được chính ông,
Cùng chư tỳ-kheo tăng,
Và chư vị Bồ Tát.
Thuyết kinh Pháp Hoa này,
Vì trí tuệ thâm sâu.
Người trí cạn nghe qua,
Nghi ngờ không hiểu được.
Hết thảy hàng Thanh văn,
Cùng với Phật Bích-chi,
Đối với kinh điển này,
Không đủ sức theo kịp.
Đến như Xá-lợi-phất,
Mà đối với kinh này,
Phải nhờ tin mới nhận,
Huống gì Thanh văn khác?
Hết thảy Thanh văn khác,
Đều do tin lời Phật,
Mà đón nhận kinh này,
Không phải tự hiểu được.
Lại nữa, Xá-lợi-phất!
Gặp người kiêu mạn, lười,
Bám chấp nơi tự ngã,
Đừng thuyết giảng kinh này.
Kẻ phàm phu trí cạn,
Đắm sâu trong năm dục,
Nghe kinh không thể hiểu,
Cũng đừng thuyết kinh này.
Nếu có người không tin,
Chê, hủy báng kinh này,
Đó là dứt hết sạch,
Giống Phật của người đời.
Ai cau mày nhăn mặt,
Ôm lòng hoài nghi kinh,
Đều phải chịu tội báo,
Nên ông hãy lắng nghe.
Khi Phật còn tại thế,
Hoặc Phật đã diệt độ,
Nếu có người phỉ báng,
Những kinh điển thế này,
Thấy người khác tụng đọc,
Sao chép hoặc thọ trì,
Liền khinh bỉ, ganh ghét,
Rồi ôm lòng oán hận.
Tội báo của người ấy,
Nay ông hãy lắng nghe.
Người ấy sau khi chết,
Sinh vào ngục Vô gián,
[11]Trải qua trọn một kiếp,
Lại sinh vào kiếp nữa.
Cứ vậy mà tiếp nối,
Cho đến vô số kiếp.
Ra khỏi địa ngục rồi,
Sẽ đọa làm súc sinh.
Hoặc chó hoặc chồn hoang,
Với hình thể gầy còm,
Đen đủi, đầy ghẻ lở,
Bị con người đánh đuổi.
Lại còn bị nhiều người,
Căm ghét và khinh khi,
Thường khổ vì đói khát,
Nên xương thịt khô gầy.
Sống chịu nhiều độc hại,
Chết vùi trong ngói đá.
Vì dứt mất giống Phật,
Chịu tội báo như vậy.
Hoặc làm thân lạc đà,
Hoặc sinh trong giống lừa,
Thân mang, kéo nặng nề,
Lại còn bị đánh đập,
Mong ăn cỏ uống nước,
Không biết gì khác hơn.
Vì hủy báng kinh này,
Chịu tội báo như vậy.
Nếu sinh làm chồn hoang,
Lang thang vào xóm làng,
Thân hình đầy ghẻ chốc,
Lại thiếu mất một mắt,
Còn bị lũ trẻ con,
Theo đánh đập, ném đá.
Chịu đủ mọi đau đớn,
Cho đến phải chết đi.
Và sau khi đã chết,
Liền sinh làm mãng xà,
Thân hình to lớn, dài
Đến năm trăm do-tuần,
Ngu si, điếc, không chân,
Chỉ trườn đi nhờ bụng,
Bị những loài trùng nhỏ,
Rúc rỉa thân ăn thịt,
Nên ngày đêm chịu khổ,
Không một lúc được dừng.
Vì hủy báng kinh này,
Chịu tội báo như vậy.
Nếu như được làm người,
Thì các căn ngu độn,
Lùn, xấu xí, què quặt,
Mù, điếc lại gù lưng,
Khi nói ra điều gì,
Người khác không tin nhận.
Mở miệng bốc mùi hôi,
Bị ma quỷ khống chế,
Sống nghèo khốn, hèn hạ,
Bị người khác sai khiến.
Nhiều bệnh tật, gầy ốm,
Lại không nơi nương tựa.
Dù gần gũi cậy nhờ,
Người không chút lưu tâm.
Nếu học hỏi được gì,
Rồi cũng nhanh quên mất.
Nếu học theo nghề thuốc,
Dùng đúng phương trị bệnh,
Bệnh người vẫn tăng thêm,
Thậm chí đến phải chết.
Nếu tự mình có bệnh,
Không ai cứu chữa được.
Dù dùng phương thuốc hay,
Bệnh vẫn càng thêm nặng.
Như người khác phản nghịch,
Cướp bóc, trộm của người,
Đủ các tội như thế,
Vô cớ chịu liên lụy.
Người chịu tội như vậy,
Vĩnh viễn không gặp Phật,
Bậc đứng đầu chư thánh,
Thường thuyết pháp giáo hóa.
Người chịu tội như vậy,
Thường sinh các nan xứ.
[12]Điên cuồng, điếc, loạn tâm,
Vĩnh viễn không nghe pháp.
Trong vô số kiếp sống,
Nhiều như cát sông Hằng,
Sinh ra đều câm điếc,
Không đủ các giác quan.
Thường xuyên vào địa ngục,
Như người đi dạo vườn.
Cõi ngạ quỷ, súc sinh,
Là nhà ở của họ.
Lạc đà, lừa, chó, lợn,
Là chốn họ sinh vào.
Vì hủy báng kinh này,
Chịu tội báo như vậy.
Nếu như được làm người,
Phải tự mang vào thân,
Những nạn mù, điếc, câm,
Cùng nghèo khốn, suy kiệt.
Bệnh phù thũng, khô khát,
Bệnh ghẻ lở, ung thư,
Đủ các bệnh như vậy,
Bám theo như áo quần.
Thân thể thường hôi hám,
Đầy cáu bẩn, dơ nhớp.
Chấp chặt vào tự ngã,
Sân hận càng tăng thêm,
Tâm tham dâm cực mạnh,
Đến không chừa cầm thú.
Vì hủy báng kinh này,
Chịu tội báo như vậy.
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Dù nói đến trọn kiếp,
Cũng chưa hết tội lỗi,
Của người hủy báng kinh.
Vì nhân duyên như thế,
Nên ta dạy ông rằng:
Gặp những người ngu si,
Đừng thuyết giảng kinh này.”
Như gặp người nhanh nhạy,
Có trí tuệ sáng suốt,
Lại nghe nhiều, nhớ lâu,
Phát tâm cầu Phật đạo.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Như có người từng gặp,
Ngàn muôn ức vị Phật,
Gieo trồng các căn lành,
Lòng sâu vững, kiên cố.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Như có người tinh tấn,
Thường tu tập tâm từ,
Không tiếc cả thân mạng,
Nên vì họ thuyết kinh.
Ai một lòng cung kính,
Không có ý gì khác,
Lìa xa người phàm tục,
Sống một mình núi vắng.
[13]Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Lại này, Xá-lợi-phất!
Nếu gặp được những người,
Từ bỏ bạn xấu ác,
Thường gần gũi bạn lành.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Nếu gặp những Phật tử,
Giữ giới thật thuần khiết,
Như minh châu trong sáng,
Thường cầu kinh Đại thừa.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Nếu người không sân hận,
Tánh ngay thẳng, nhu hòa,
Thường thương xót muôn loài,
Và cung kính chư Phật.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Lại có những Phật tử,
Khi ở giữa đại chúng,
Dùng tâm ý thanh tịnh,
Với đủ mọi nhân duyên,
Cùng thí dụ, ngôn từ,
Thuyết pháp không ngăn ngại.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Nếu có những tỳ-kheo,
Muốn được Nhất thiết trí,
Khắp bốn phương cầu pháp,
Chắp tay cung kính nhận.
Chỉ ưa thích thọ trì,
Những kinh điển Đại thừa,
Thậm chí không thọ nhận,
Một bài kệ kinh khác.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Như có người chí tâm,
Cầu được xá-lợi Phật,
Cầu kinh này cũng vậy,
Cầu được, cung kính nhận,
Người ấy tâm không cầu
Bất cứ kinh nào khác,
Lại cũng chưa từng nghĩ
Đến kinh sách ngoại đạo.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.”
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Dù kể đến trọn kiếp,
Cũng chưa hết tướng trạng,
Những người cầu Phật đạo.
Những người ta kể trên,
Ắt có thể tin hiểu.
Ông nên vì họ thuyết,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”
____________________________
CHÚ THÍCH[1] Các giải thoát: chỉ bát giải thoát (H. 八解脫, S. aṣṭau vimokṣāḥ), cũng gọi là 8 sự buông xả (bát bội xả - 八背捨), là tám phép thiền định giải thoát, bao gồm: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát (內有色想觀諸色解脫): Ở trong sắc giới, quán nội sắc và ngoại sắc, nhằm trừ bỏ tâm ham thích sắc thể; 2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát (內無色想觀外色解脫): Không quán nội sắc, quán ngoại sắc, nhận ngoại sắc là ô nhiễm; 3. Tịnh thân tác chứng cụ túc tác giải thoát (淨身作證具足作解脱): Quán tưởng về thanh tịnh nhưng không chấp giữ; 4. Không vô biên xứ giải thoát (空無邊處解脫): Vượt qua sắc thể, quán tưởng rằng hư không là vô biên; 5. Thức vô biên xứ giải thoát (識無邊處解脫): Đạt đến ý niệm thức là vô biên; 6. Vô sở hữu xứ giải thoát (無所有無所有處解脫): Đạt địa vị trong tâm không còn có vật gì; 7. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát (非想非非想處解脫): Đạt đến mức định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; 8. Diệt tận định giải thoát (滅盡定解脫): Đạt mức định Diệt thọ tưởng xứ.
[2] Năm uẩn, tức ngũ uẩn (H. 五蘊, S. pañca-skandha), là 5 yếu tố hợp thành thân tâm của mọi chúng sanh, gồm: sắc uẩn (色蘊), thọ uẩn (受蘊), tưởng uẩn (想蘊), hành uẩn (行蘊) và thức uẩn (識蘊). Sắc uẩn là yếu tố vật chất tạo thành thân của chúng sanh; thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn là các yếu tố tạo thành tâm của chúng sanh.
[3] Nguyên tác dùng “tâm tự tại giả - 心自在者”, nghĩa là các vị này đều đã đạt quả vị Vô học, tức thánh quả A-la-hán. Ở đây nói 1.200 vị, còn ở phần mở đầu kinh nói là 12.000 vị A-la-hán, nghĩa là đã nhầm. Tham khảo kinh Chánh Pháp Hoa và bản dịch từ Phạn ngữ của H. Kern (The Lotus Sutra - Sacred Books of the East, Vol XXI, 1884) thì ở hai vị trí này đều nói là “twelve hundred”, tức là 1.200.
[4] Kiến chấp, chỉ sự bám chấp vào các quan điểm, định kiến sai lầm, thường gọi chung là tà kiến (H. 邪見, S. mithyā-dṛṣṭi).
[5] Nguyên tác đề cập đến hai loại chim cú là cú mèo (鴟 - si) và cú vọ (梟 - kiêu).
[6] Chim cưu (鳩), tức là chim tu hú.
[7] Loài sâu có nhiều chân, hình dạng được mô tả là giống con rết.
[8] Nguyên tác là bá túc (百足), dịch sát nghĩa là “trăm chân”, nhưng thật ra chỉ chung những loại côn trùng rất nhiều chân, không phải chính xác là trăm chân.
[9] Cưu-bàn-trà (H. 鳩槃茶, S. kumbhāṇda), trong kinh Viên giác gọi là Đại lực quỷ vương, cai quản nhiều quỷ khác.
[10] Quỷ tỳ-xá-xà (毘舍闍), cũng đọc là tỳ-xá-già (毗舍遮), phiên âm từ Phạn ngữ piśāca, thuộc loài ngạ quỷ.
[11] Tức địa ngục A-tỳ (H. 阿鼻地獄, S. Avīci).
[12] Tức bát nan xứ (八難處), chỉ những điều kiện rất khó hoặc không thể được gặp Phật pháp. Các bản dịch trước đây nhầm lẫn khi cho rằng ở đây là “thường sinh chỗ hoạn nạn”, bởi vì đó không phải là quả báo của người hủy báng Chánh pháp. Do hủy báng Chánh pháp nên quả báo ở đây là không được gặp Phật, nghe Pháp.
[13] Nguyên tác kinh văn là “山澤 - sơn dịch”, hiểu sát nghĩa là núi và đầm nước. Tuy nhiên, xét theo ý kinh trong cả câu này chỉ nói việc sống nơi vắng vẻ không người. Bản Anh dịch từ Sanskrit của H. Kern dịch là “to live in mountain caverns” (sống trong các hang núi), không có nghĩa đầm nước ở đây.