Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 118 »»

Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 118


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.76 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.96 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Đại Bửu Tích

Kinh này có 120 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 107 | 108 | 109 | 110 | 111 | 112 | 113 | 114 | 115 | 116 | 117 | 118 | 119 | 120 |
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát : “Thế nào là Bồ Tát đủ căn hạnh thanh tịnh?
Bồ Tát chẳng thọ các pháp mà tu đạo nghĩa đó là tín căn vậy. Bồ Tát nguyện vượt qua bỉ ngạn chẳng cầu mong người đó là tinh tiến căn vậy. Bồ Tát vì tất cả chúng sanh mà chẳng rời bỏ đạo tâm đó là niệm căn vậy. Bồ Tát nắm giữ đại bi muốn cứu tế nguy ách đó là định căn vậy. Bồ Tát hay phụng thọ tất cả các pháp mà tu tịch diệt đó là huệ căn vậy.
Lại nữa, nầy Bửu Kế ! Nếu Bồ Tát tin tất cả Phật pháp thuận tùng Phật đạo đó là tín căn vậy.Bồ Tát phụng trì pháp của chư Phật chưa hề lười mỏi đó lả tinh tiến căn vậy. Bồ Tát nhớ tất cả pháp của chư Phật lòng ghi thánh nghĩa chưa hề quên sót đó là niệm căn vậy. Bồ Tát tu Phật định không hề lười bỏ đó là định căn vậy. Bồ Tát hay giải trừ nghi kiết cho tất cả chúng sanh mà không mong cầu đó là huệ căn vậy.
Lại nữa, Bồ Tát hâm mộ Phật đạo chẳng do dự đó là tín căn vậy. Bồ Tát chí tánh điều nhu thuận tu tinh tiến không hề lùi sụt đó là tinh tiến căn vậy. Bồ Tát khuyến trợ cội công đức làm cho tăng trưởng không tổn giảm là niệm căn vậy.Bồ Tát bình đẳng phóng quang minh soi khắp chúng sanh cứu thoát rối loạn đó là định căn vậy. Bồ Tát phân biệt căn tánh của tất cả mọi người để vì họ mà thuyết pháp đó là huệ căn vậy.
Lại nữa, Bồ Tàt tin pháp siêng tu bỏ các giải đãi, ý không mong cầu không quên mất gìn giữ định ý khiến chẳng mê lầm phụng hành trí huệ khai hóa ngu si đó là Bồ Tát ngũ căn vậy.
Lại nữa, Bồ Tát hành tín căn thì trừ bỏ pháp tà, hành tinh tiến thì buông bỏ ngô ngã, tâm ý chuyên nhất trừ hết tham thân, hay hành chánh định phá vỡ lưới sáu mươi hai kiến chấp, trí huệ phá trừ tất cả chấp trước ái ân, đó là Bồ Tát tu ngũ căn hạnh thanh tịnh”.
Ðức Phật bảo Bửu kế Bồ Tát : “Thế nào là Bồ Tát hành ngũ lực hạnh thanh tịnh ?
Nếu Bồ Tát ở nơi ngũ căn đây phụng hành chẳng bỏ, hàng phục tứ ma, chẳng theo Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, chỉ theo Ðại thừa chưa hề thối lui, tiêu trừ các cấu uế ái dục trần lao, trí nguyện kiên cố, tâm được tự tại dũng mãnh , thân thể khương ninh mạnh mẽ có oai thế , các căn đạm bạc,lòng tin chẳng hư, đây gọi là tín lực.
Ðiều chẳng nên làm thì chẳng làm, chế ngự tâm mình khiến luôn quân điều, đây là tinh tiến lực.
Ðiều nên tu tập thì đều thật hành ý niệm có thế lực mạnh, đây là ý lực.
Ðạo nghiệp được kiến tạo chưa hề quên mất để độ tất cả chúng sanh, đây là định lực.
Chẳng bị năm trần sắc thanh hương vị xúc chi phối, vượt khỏi tất cả kiết phược chướng ngại, ý chí an trụ chẳng dao động, đây là huệ lực.
Lại nữa, tín lực là chẳng theo lời người khác mà có chỗ thọ nhận tinh tiến lực là chỗ nên nắm giữ thì chẳng mất đạo ý, định lực là thuyết pháp bình đẳng chẳng thiên lệch chẳng theo phe, huệ lực là giải quyết các sự hồ nghi giải tán lưới kiết phược của chúng sanh.
Lại nữa, tín lực là đầy đủ thế mạnh thành tín, tinh tiến lực là vững mạnh giải thoát độ người chưa được độ, ý lực là đầy đủ giải huệ tri kiến, định lực là đầy đủ sức chí nguyện cứu cánh, huệ lực là đầy đủ nguyên bổn tất cả công hạnh.
Lại nữa, tín lực là hay chế ngự nạn xan tham cấu uế, tinh tiến lực là hay buông bỏ tất cả sở hữu, ý lực là hiển bày cội công đức khuyến trợ đạo tâm, định lực là tâm bình đẳng tuân hành xả bỏ mong cầu , huệ lực là chỗ đáng tu hành chưa hề mong quả báo.
Lại nữa, tín lực là giải trừ tất cả khối hủy giới, tinh tiến lực là ân cần tu cấm giới chưa hề sai trái, ý lực là đầy đủ đạo tâm chẳng để thiếu sót, định lực là liền được đến bực nhơn hòa, huệ lực là chỗ tu hành đều dứt sanh tử .
Lại nữa, tín lực là rời lìa gốc tránh tụng sân giận, tinh tiến lực là chánh niệm tu hành tuân tu nhẫn nhục, ý lực là đầy đủ đạo hạnh chẳng hề hủy hoại chánh pháp, định lực là trước tiên chế phục tâm ý chẳng để phóng dật ủng hộ tất cả mọi loài chúng sanh, huệ lực là chẳng chấp ngô ngã cũng không nhơn tưởng.
Lại nữa, tín lực là trừ bỏ giải đãi uế ác trần cấu, tinh tiến lực là siêu độ được tất cả nhơn duyên chẳng bị ác sự làm mê lầm, ý lực là tu hành đạo hạnh làm cho đầy đủ, định lực là thân thể khinh an hay hàng phục các ma, huệ lực là ở nơi chỗ làm không có làm không chẳng làm.
Lại nữa, tín lực là tiêu hóa các hạnh tà cấu, tinh tiến lực là hiệp hội chúng sanh để khai hóa họ ý lục là thường nhứt ý chí để khuyến trợ chúng sanh, định lực là thường hành tịch tĩnh chưa hề rối loạn, huệ lực là hiểu rõ các pháp hành của mọi người.
Lại nữa, tín lực là bỏ các kiến chấp hiểu biết các cấu uế, tinh tìến lực là thường siêng tu hành cầu hiểu biết rộng, ý lực là nghiêm tịnh suy tư ý niệm chỗ làm đều đúng, định lực là tâm không chỗ sanh khởi để đến cứu cánh, huệ lực là chuyên học chuyên hành để được thành tựu.
Lại nữa, tín lực là thường được chí thành đủ thất thánh tài, tinh tiến lực là phân biệt hiểu rõ thành thất giác chi, ý lực là tâm thường chỉnh tề chưa hề rối loạn, định lực là vượt qua chỗ ở của bảy thức, huệ lực là qua khỏi bát tà không có chấp trước.
Lại nữa, tín lực là tâm thường thanh tịnh không ai phá hoại được, tinh tiến lực là phụng hành thanh tịnh không lui sụt, không tịnh không chẳng tịnh, không đúng không chẳng đúng , ý lực là ý thanh tịnh hội họp các pháp đạo phẩm không có ý không có niệm, định lực là tâm tinh tiến tu tịch tĩnh thường chánh thọ, huệ lực là hay thanh tịnh không bị các kiến chấp lám mê hoặc phụng hành các công đức.
Ðây là Bồ Tát ngũ lực hạnh thanh tịnh vậy”.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát : “Thế nào là Bồ Tát thất giác phẩm thanh tịnh ?
Bồ Tát niệm giác phẩm là được tự tại chẳng mất đạo huệ, trạch pháp giác phẩm là quan sát đạo hạnh đúng thời không có chấp trước, tinh tiến giác phẩm là siêng tu hành không chướng ngại, hỉ giác phẩm là thân ý hưu tức được đến cứu cánh, khinh an giác phẩm là rời tâm không có sở trụ, định giác phẩm là rời lìa thiền vị mà được thấu đáo, xả giác phẩm lả công nghiệp gây tạo đều được thành tựu .
Lại nữa, niệm giác phần là tâm cầu đạo không sở đắc không sở thất, trạch pháp giác phẩm là hộ pháp ngày thêm mới, tinh tiến giác phẩm là khai hóa chúng sanh không hề mỏi chán, hỉ giác phẩm là vui pháp lạc siêng cần suy luận, khinh an giác phẩm là hóa độ nhơn dân dứt trứ trần lao kiến lập thánh đạo, định giác phẩm an trụ đẳng trì tâm chẳng tạp loạn, xả giác phẩm là hay xét làm hạnh thánh hiền gầy dựng mọi người.
Lại nữa, không lo chẳng nghĩ như sư tử hơn hẳn Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa là niệm giác phầm, tất cả các pháp đều thanh tịnh hiểu rõ nơi đây là trạch pháp giác phầm, hạnh nghiệp thanh tịnh gìn thân khầu ý không hề sai phạm là tinh tiến giác phẩm, thanh tịnh vô trước rời lìa nguy hại là hỉ giác phẩm, nghiêm trì công hạnh việc làm đều xong là khinh an giác phẩm, chưa hề thuận theo thế tục đối cảnh bình đẳng là định giác phẩm, chưa hề an trụ nơi nhị pháp rời lìa đoạn thường hai kiến chấp cứu tế gìn giup chúng sanh là xả giác phẩm.
Nầy Bửu Kế ! Sở dĩ gọi là giàc phẩm vì biết rõ các pháp không gì chẳng thấu suốt, phân biệt đúng đắn hiểu rành chỗ đến, biết đúng oai nghi lễ tiết khai hóa chúng sanh, tùy họ ở chỗ nào thân mình siêng tu rộng thì hành đạo nghĩa trừ bỏ kiết phược kiến chấp. Giác phẩm nầy là công hạnh của thánh hiền chẳng phải chỗ tu tập của ngu phu. Nói là thánh hạnh chẳng phải chỗ làm của ma, chẳng phải chỗ làm của kẻ cống cao tự đại, chẳng phải hàng ngoại đạo dị học đến được. Thánh hạnh là chẳng hành nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thánh hạnh là không dính mắc các tướng nhơn duyên. Thánh hạnh là không lựa chọn xứ sở phương diện có quên có mất. Thánh hạnh là công hạnh không có tâm ý thức niệm tưởng ngôn ngữ. Thánh hạnh là rời lìa kiến văn trí thức. Thánh hạnh là không có tạo tác ý niệm tư tưởng Niết bàn.
Lại nữa, nơi tất cả pháp đều không có sở hành là hiền thánh hạnh.Tu theo kinh điển không có tất cả đúng chẳng đúng, niệm chẳng niệm, cũng không có ý tưởng khác là hiền thánh hạnh. Nơi tất cả pháp trọn không có sở trụ chẳng mộ tôn xứ sở là hiền thánh hạnh. Nơi tất cả pháp trọn chẳng lầm loạn thuận hành chánh nghĩa đều riêng được thành tựu là hiền thánh hạnh. Nơi tất cả pháp chưa hề tránh tụng hòa đồng cùng ở là hiền thánh hạnh. Phụng hành các pháp không có pháp tưởng chẳng mất đạo ý là hiền thánh hạnh.
Ðây là Bồ Tát tu bảy giác phẩm hạnh thanh tịnh của hiền thánh vậy”.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát: “Thế nào là Bồ Tát tu tám chánh đạo thanh tịnh ?
Một là chánh kiến. Sao gọi là chánh kiến ?
Bồ Tát nếu hay phụng hành tất cả pháp, nơi ngã chẳng phải ngã chẳng an trụ không quán. Tại sao ? Vì xét thân ngô ngã bình đẳng không có sai biệt. Cũng chẳng an trụ quán thân nhơn không. Tại sao? Vì thân nhơn và không cũng là bình đẳng. Cũng chẳng an trụ quán thân thọ mạng cùng với không sai khác nhau. Tại sao ? Vì nhơn thọ mạng với không vẫn bình đẳng. Cũng chẳng thấy những sanh tử rời lìa nghĩa thỉ chung không vô. Tại sao ? Vì các sanh tử thỉ chung họa hoạn cùng sở kiến không vô đều bình đẳng vậy. Chẳng an trụ quán không đoan diệt thường kiến có ngô có ngã. Tại sao? Vì đoạn diệt với thường kiến đều bình đẳng vậy. Cũng chẳng chấp lấy thân và sở quán không cũng chẳng an trụ nơi đó. Tại sao ? Vì thân ngô ngã và không đều bình đẳng vậy. Cũng chẳng an trụ nơi công hạnh thấy Phật Pháp Tăng quán sát không. Tại sao ?Vì thấy Phật Pháp Tăng và sở quán không đều bình đẳng vậy.
Bồ Tát có thử kiến bỉ kiến quán sát đến tịch diệt bình đẳng, đây là chánh kiến thấy Phật Pháp Tăng. Còn tà kiến kia chẳng rời lìa điên đảo vậy.
Nếu ở nơi các chỗ thấy mà không có tưởng niệm thượng hạ trung gian thì là chánh kiến. Tại sao ? Vì nơi sở kiến đều quán sát bình đẳng vậy.
Nếu thấy pháp phàm phu cho là ti tiện, còn pháp mình tu học cho là tôn cao, quan niệm như vậy cho là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu cho là ô uế, thấy pháp Bồ Tát là thanh tịnh, quan niệm như vậy là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu là hữu lậu, thấy pháp vô học là vô lậu, quan niệm như vậy là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu có cầu ăn mặc, thấy pháp Duyên Giác không mong cúng dường, quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy ý Tiểu thừa có hi vọng, ý Bồ Tát không hy vọng, quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu là phóng dật, thấy pháp Bồ Tát là vô dục , quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu là sự hữu vi, thấy chánh pháp Phật là đạo vô vi, quan niệm như đây là tà kiến.
Nầy Bửu Kế ! Nếu Bồ Tát hay quan niệm pháp phàm phu cho đến tất cả pháp đều bồn lai thanh tịnh, các học pháp cũng bổn tịnh, quán các pháp đều tự nhiên mới là chánh kiến vậy.
Pháp phàm phu là không, pháp được học cũng là không, rõ pháp sở học là không mới là chánh kiến.
Pháp phàm phu bình đẳng với nhơn duyên, hiểu rõ như đây thì pháp Duyên Giác, nhơn duyên cũng bình đẳng, đây mới là chánh kiến.
Pháp phàm phu vốn là tịch tĩnh, pháp Bồ Tát cũng là tịch tĩnh, đây mới là chánh kiến.
Pháp phàm phu không chỗ thành tựu, pháp chư Phật cũng không cứu cánh, đây mới là chánh kiến.
Người chánh kiến thì tâm chẳng nhập vào hai pháp, chẳng thấy hai pháp, nhơn cũng không có hai, chẳng thấy ngô ngã, đây là chánh kiến.
Không có bao nhiêu thứ thấy, chẳng lấy bao nhiêu thứ làm có thấy sai khác là thấy bình đẳng, thì chẳng tưởng niệm tất cả các pháp có thượng trung hạ, nơi tất cả pháp mà không có tưởng niệm mới là chánh kiến.
Người chánh kiến không có bao nhiêu sự thấy cũng không sở kiến, không có sở kiến mới là chánh kiến.
Chỗ quan sát được ấy không có hình sắc, do thấy các pháp không có hình sắc mới là chánh kiến.
Bồ Tát nầy quán sát tất cả các pháp như thế ấy mới gọi là người ban tuyên pháp luật vậy”.
Ðức Phật nói lời trên đây xong, trong pháp hội có năm trăm Tỳ Kheo được lậu tận ý giải.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát : “ Hai là chánh niệm. Sao gọi là chánh niệm ?
Gọi rằng chánh niệm là trừ bỏ các niệm cùng chẳng niệm đồng hiệp hội tịch tĩnh mà quán tỏ trí đức đến pháp tịch diệt, hiểu rõ sở quán thấy rành các pháp, gì là pháp gì là phi pháp, biết các pháp đều riêng sai khác chẳng thân cận nhau. Do hiểu rõ như vậy nên bình đằng còn chẳng niệm huống là niệm sai biệt ư ! Nơi tất cả niệm không có niệm không có chẳng niệm, không còn tư lự không đúng không chẳng đúng, đây gọi là chánh niệm.
Ba là chánh ngữ. Sao gọi là chánh ngữ ?
Bồ Tát lúc nói chẳng tự thấy thân mình, chẳng thấy người khác, chẳng thấy kia đây, chẳng phạm thân mình cũng chẳng hại nơi người, đây là chánh ngữ.
Lại nữa, Bồ Tát lúc nói, bình đẳng hiểu các pháp, biết tất cả các pháp đến nơi diệt tận, biết tất cả pháp về nơi pháp hiền thánh và giải thoát, đây là chánh ngữ.
Lại nữa, chánh ngữ là phụng hành từ tâm bi mẫn tất cả, thân và thù không có khác, chánh ngữ ấy cũng là không vô tướng vô nguyện đều vô tác vô sanh vô khởi, bình đẳng diễn nói các pháp vô thượng khổ không chẳng phải thân tất cả các pháp không có ngã nhơn thọ mạng. Bình đẳng diễn nói các pháp theo ý duyên khởi, trồng giống nào thì được quả ấy. Bồ Tát bình đẳng chỉ dạy chúng sanh tuyên giảng kinh pháp khiến nó hành Phật đạo. Ðược chánh ngữ thanh tịnh thì được tất cả chư Phật mười phương ủng hộ. Ðây là chánh ngữ.
Bốn là chánh nghiệp. Thế nào là chánh nghiệp ?
Bồ Tát tiêu hóa tất cả nghiệp đã gây tạo chưa hề làm lại cơ bổn nghiệp hoặc. Công nghiệp được tu là diệt trừ khổ não. Việc làm thường ngày đều thấy hư giả. Chẳng hưng tạo tà nghiệp, rời lìa trần lao, không có uế trược. Bồ Tát hiểu rõ chánh nghiệp và các pháp, nơi các cội công đức không có tạo tác để tu đức hạnh thì gọi là vô tác là không hư. Ðây gọi là Bồ Tát hành vô thượng làm chánh nghiệp vậy.
Năm là chánh mạng. Thế nào là chánh mạng ?
Bồ Tát chẳng thấy có ngã chẳng thấy có nhơn, đây là chánh mạng. Người có chánh mạng thì chẳng tích tụ tất cả trần lao. Bồ Tát chánh mạng thì hay thanh tịnh tu tập chí nguyện chúng sanh, chí nguyện đã thanh tịnh thì chẳng tự chấp thân chấp nhơn cũng không có thọ mạng, mình người bình đẳng, tất cả pháp cũng bình đẳng, thật hành pháp nghĩa thanh tịnh. Ðây là chánh mạng.
Sáu là chánh phương tiện. Thế nào là chánh phương tiên ?
Bồ Tát chẳng làm sự phi pháp, lòng chẳng bỏ công đức. Phương tiện được làm đúng như lời đã nói, chẳng thấy các pháp đồng cùng dị, không có tác không có chẳng tác. Ðúng như pháp tánh mà thật hành, pháp của chư Phật cũng như vậy, đều là tịch tĩnh, nhơn đó làm phương tiện. Các pháp đều bình đẳng không có sai biệt, chỗ làm cũng bình đẳng. Vì các chúng sanh mà trừ tà phương tiện, khuyến trợ họ đến nơi trí huệ. Ðây là chánh phương tiện vậy.
Bảy là chánh ý. Thế nào là chánh ý ?
Bồ Tát nhớ Phật đạo, nhớ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm, trí huệ, từ bi,hỉ hộ. Ân cần gìn ý chẳng cho có uế ác trần lao, chẳng theo ma nghiệp.
Bồ Tát ý niệm chỗ nào đều chẳng sa vào tà kiến chế ngự ỳ niệm của mình như người gác cửa biết rành lúc nên mở nên đóng, trừ bỏ tất cả ý niệm xấu ác, không hề có tư tưởng, chẳng cho có tà niệm, đây là chánh ý.
Bồ Tát đã ở nơi chánh ý nầy thì chẳng ở trong đạo tánh tịch diệt mà lấy quả chứng. Ðây là Bồ Tát chánh ý hạnh thanh tịnh.
Tám là chánh định. Thế nào là chánh định ?
Bồ Tát tùy thuận hiền thánh hạnh, biết khổ đế đoạn dứt tập đế chủng, chứng tận đế chủng, phụng đạo đế chủng, đây là chánh định.
Bồ Tát chánh định, tự thân bình đẳng các pháp cũng đều bình đẳng, tự thân thanh tịnh các pháp cũng đều thanh tịnh, tự thân không hư càc pháp cũng đều không, chánh ý chánh thọ, được như đây thì nhập vào bình đẳng chẳng sa vào diệt tận. Trong khoảng phát tâm chỗ sở hành đều bình đẳng đầy đủ trí huệ và tất cả thánh phước, tỏ rành các pháp. Ðây là Bồ Tát chánh định hạnh thanh tịnh ».
Lúc đức Phật nói chánh định giác phẩm, một ngàn sáu trăm chư Thiên và Nhơn từng ưa thích Tiểu thừa đã được ngộ nhập pháp nầy nên đều phát tâm vô thượng chánh chơn.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát : « Nầy thiện nam tử ! Bồ Tát thủ hộ giác ý nuôi nấng tâm mình chẳng để sanh khởi,trừ dâm nộ si, bỏ đấm trước nơi sắc, thọ, tưởng, hành và thức không dính mắc ba chỗ, độc hộ trong tam giới, qua ba cửa giải thoát, đến ba đạt trí, thấy quá khứ vị lai hiện tại không chướng ngại. Khai độ chúng sanh trừ sạch cấu uế, như mặt nhựt sáng không chỗ nào chẳng được soi tỏ, thiện quyền phương tiện trí huệ tùy thời nghi mà thị hiện đi khắp ba đời khai hóa tất cả chúng sanh làm cho họ phát đạo tâm, như hoa sen trong nước. Ðây là Bồ Tát hộ trì giác đạo ý hạnh thanh tịnh ».
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát : « Thế nào là Bồ Tát thành tựu thần thông làm hạnh thanh tịnh ?
Bồ Tát lại do năm sự thấy suốt đầy đủ chứng được quang minh gọi là thiên nhãn : soi khắp mười phương chỗ rất kính tối không đâu chẳng thấy rõ, thấy tất cả Phật khai hóa độ thoát nhiều loài, xa thấy chúng sanh sau trước hướng đến trang nghiêm ý chí. Thấy hết mười phương có tất cả hình sắc tượng mạo chủng loại tốt xấu, dài ngắn, lớn nhỏ, thiên nhãn ấy không hề bị chướng ngại, ý niệm tịch diệt vô vi hơn cả hàng Bát Bộ Thiên Long, Thanh Văn, Duyên Giác và cũng thấy suốt bổn mạt của họ. Ðây là thiên nhãn thanh tịnh của Bồ Tát.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Lại do năm sự Bồ Tát thành tựu nghe biết suốt hết tất cả gọi là thiên nhĩ. Nghe biết âm thanh của tất cả loài người, nghe suốt âm thanh của tất cả phi nhơn, cũng nghe tất cả âm thanh đau khổ của địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, cũng nghe âm thanh thuyết pháp của tất cả Phật mười phương, tất cả ngôn ngữ âm từ sai khác chẳng đồng, vạn ức thứ âm thanh khắp tất cả mười phương đều nghe rõ được hết. Ðây lả thiên nhĩ thanh tịnh của Bồ Tát.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát biết các tâm niệm có năm sự : đều biết rõ được gốc ngọn của nghiệp nhơn các loài trời, người, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục, tâm niệm thiện ác của họ, đến đời sau hoặc thấy họ thọ thân, biết tâm niệm họ hướng về đâu suốt quá khứ vị lai hiện tại quyết định chỗ đến về nơi tà nghiệp, tâm niệm của tất cả chúng sanh và nghiệp hành thiện ác đều biết rõ, xét tâm ý của chúng sanh hoặc có tham dâm, sân hận, ngu si tùy theo bổn hạnh của họ mà thuyết pháp. Ðây là hạnh thanh tịnh biết các tâm niệm của Bồ Tát.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Thế nào là Bồ Tát biết đời quá khứ có năm sự : Biết rõ đời trước ai có thọ những dâm nộ si thì đều tự nhiên, thọ mà chẳng chú ý suy nghĩ gây ra sự việc ấy, lại biết rõ thân mình từ vô số đời chuyên suy gẫm về bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm, trí huệ, từ bi, hỉ xả, do nơi định ý ấy mà được thân nầy, cũng là từ nơi mình gây nên, những ai chấp ngô ngã tâm niệm nhơn duyên quán sát các tướng, tướng nhơn duyên ấy cũng tự mình làm mà tự nhiên thọ, nhớ biết như vậy rồi tùy theo thân hình quyến thuộc thế lực danh xưng hào quý hay bần tiện khổ vui cũng tự mình tạo, đều tự nhiên làm mà thọ lấy họa hoạn ấy. Ðây là thần thông thanh tịnh biết rõ thân tâm đời quá khứ của Bồ Tát.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Cũng có năm sự Bồ Tát đầy đủ thần túc : Thị hiện mọi sắc thân thần thông tự tại, thị hiện mọi thanh âm thần thông tự tại, thấu suốt tâm ý và hành nghiệp của các loài thần thông tự tại, thần túc cùng khắp làm cho tất cả chúng sanh vui sướng, thần túc đều riêng biệt người gần gũi được thấy, thần túc đến khắp mọi nơi, ngồi một chỗ mà thấy vô số quốc độ mười phương, đi khắp cảnh giới của tất cả Phật, tùy theo tập tục của tất cả chúng sanh mà hiện thân hình khắp mười phương thuyết pháp cho họ làm cho họ được thông hiểu phát tâm Bồ đề. Ðây là thần túc thanh tịnh của Bồ Tát.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát huệ nhãn có đủ thiên nhãn thanh tịnh không hề chấp trước, cũng đủ thiên nhĩ trước sau thanh tịnh không hề chướng ngại, liền biết rõ tất cả tâm niệm của mọi loài chúng sanh, biết rõ cả đời quá khứ hiện tại vị lai, an trụ hạnh vô vi vô tác hết hẳn nghiệp hữu lậu sanh tử bèn đủ thần túc thanh tịnh thần thông tự tại, đây là cửa thánh huệ lậu tận. Ở đây Bồ Tát dùng năm thần thông ấy mà tự vui thích, tâm Bồ Tát chẳng an trụ nơi huệ lậu tận.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Ví như đường sá cách xa cư ấp trăm ngàn do tuần có quốc thành lớn. Con đường ấy gian hiểm nhiều nạn khó kể hết, nào có dốc cao hố sâu quanh co chật hẹp, nào là giặc cướp, sư tử, cọp sói, chúng ác thú trở lại ăn giết nhau. Nếu ra khỏi con đường dữ ấy thì đến được quốc thành. Người vào thành thì thoát khỏi các họa nạn an ổn vô lượng. Bấy giờ có một người nghe quốc thành kia, người nầy liền bỏ đứa con trai yêu quí lại mà đi, hết sức siêng năng chịu đựng các sự gian nguy khổ nạn ngày đêm chẳng biếng trễ, được gặp bóng mát, thân đủ sáu nghề, tay cầm năm món binh khí vượt khỏi đường hiểm đến bên cửa thành, đứng trên ngạch cửa rồi lần bước lên đến từng cửa thứ hai mở cửa thành ra rồi đứng lại đó, thoạt nhớ đến đứa con trai yêu quí chưa được đến quốc thành, vì ân tình cha con nên người nầy chẳng vào thành, mà vội trở lại cư ấp mang đứa con trai cùng đến quốc thành an lạc ấy.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Cũng vậy, Bồ Tát mặc giáp vô cực, dùng chí ý tinh tiến vững chắc thuần thành hiển phát đại đạo trừ sạch tâm nghiệp , công hạnh thuần thục lành tốt, hết các lậu khởi đại bi, vì chúng sanh mà thuyết pháp khai hóa cho họ. Bồ Tát nầy có trí huệ dứt trừ các lậu hết hẳn sanh tử thành tựu cứu cánh, vì lòng từ bi muốn cứu vớt chúng sanh nên lại vào sanh tử hiện thân ở hạng phàm phu.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Quốc thành ấy dụ cho thánh huệ vô thượng hết hẳn các lậu. Con đường hiểm nạn xa trăm ngàn do tuần là nói trải qua vô lượng sanh tử họa nạn độ thoát chúng sanh chẳng lấy làm khổ. Trộm cướp cọp sói là nói các ma tà kiến những nạn phi pháp. Ăn giết lẫn nhau là nói họa hoạn, thân ngữ ấm suy hư trong tam giới. Gặp được bóng mát là nói công hạnh bình đẳng. Sáu nghề và năm món binh khí là nói sáu Ba la mật và năm thần thông. Người nầy đến thành đứng trên ngạch cửa, từ cửa ngoài lần bước đến cửa trong rồi đứng lại mà chẳng tiến vào, là nói Bồ Tát từ hữu vi đến vô vi các lậu đã hết, tâm sáng suốt chẳng bỏ bổn nguyện muốn độ chúng sanh mười phương như nhớ đến đứa con trai duy nhứt vậy. Chẳng vảo thành mà trở lại cư ấp, là nói Bồ Tát thương xót tất cả chúng sanh trong lòng nhớ mến họ như người cha nhớ con một. Bồ Tát đã diệt trừ họa nạn các lậu sanh tử siêu việt an trụ nơi pháp đảnh,, dầu đã ra khỏi sanh tử mà chẳng dứt hết các lậu, liền trở lại ở tại lục đạo để khai hóa chúng sanh. Ðây là hạnh đại bi thiện quyền phương tiện của Bồ Tát vậy ».
Bấy giờ Bửu Kế Bồ Tát bạch rằng : « Ðấng Thiên Trung Thiên chưa từng có ! Bồ Tát đại sĩ lòng chứa đại bi muốn độ chúng sanh chẳng thích giải thoát xem như tay mình trở lại sanh tử mà chẳng chán ghét.
Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát tuân tu pháp gì mà chẳng chán ghét sanh tử ? ».
Ðức Phật dạy : « Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát có hai mươi sự chẳng chán ghét sanh tử.
Những gì là hai mươi sự ?
Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát phụng hành đức bồn đến được đại từ vô thượng, chấp trì để nhiếp nguy nạn lớn. Hoài bảo đại bi nhiếp kẻ mê ác, khai hóa chúng sanh cứu độ tất cả. Thường dùng tinh tiến nhiếp kẻ khiếp liệt. Dùng tánh hòa nhẫn nhiếp người hận thù. Dùng quyền phương tiện nhiếp kẻ chẳng biết tiết độ. Phải dùng trí huệ nhiếp kẻ ngu tối. Dùng nhứt tâm nhiếp người phóng dật. Hay dùng thần thông nhiếp kẻ chẳng thông. Hay dùng thánh minh nhiếp những ám tắt. Hay dùng tùy thời nhiếp những vô nghĩa. Dùng ý chuyên tư duy nhiếp kẻ phiền não. Tuân phụng tâm đạo nhiếp kẻ chẳng học. Mà thi hành tứ ân nhiếp kẻ không được cứu giúp. Dùng bố thí nhiếp bần cùng. Cung kính giới luật nhiếp các vô lễ. Dùng học rộng nhiếp ít trí. Dùng tổng trì nhiếp hay quên. Dùng biện tài nhiếp ngu độn. Dùng thượng đức nhiếp vô phước. Bồ Tát do hai mươi sự nầy mà thành đại trí huệ chẳng chán ghét sanh tử vậy ».
Bửu Kế Bồ Tát lại bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là Bồ Tát nên ở nơi sanh tử vì vô số người mà làm lợi ích ? ».
Ðức Phật dạy : « Nầy Tộc Tánh Tử ! Nếu như Bồ Tát dùng đức để trang nghiêm thì nên ở sanh tử, dùng phước nhuần thấm kẻ nghèo thiếu nguy ách. Học rộng trang nghiêm thì nên ở sanh tử, dùng biện tài đem nhiều lợi ích hay gìn ý chí chẳng vội quên. Ðến được tổng trì thì nên ở sanh tử làm cho tất cả mọi người đều có văn huệ. Ðến được bàn tay báu thì nên ở sanh tử đem sự bố thí tốt để tự trang nghiêm, của cải chẳng hao bớt làm nhiều lợi ích. Lại chẳng phóng dật thì nên ở sanh tử, giảng pháp chẳng chán mỏi đem lại nhiều lợi ích cho tất cả mọi người . Lại bình đẳng họp các tướng hảo thì nên ở sanh tử, tu huệ trang nghiêm cho các chúng sanh. Ngôn hành tương ưng thì nên ở sanh tử, việc làm đều đúng thời chẳng mất tiết độ có nhiều lợi ích cho các chúng sanh. Bố thí tất cả sở hữu lòng không hối tiếc bỏn xẻn thì nên ở sanh tử, tùy theo thời mà khai hóa đều được đúng chỗ, thí pháp Ba la mật nhiều sự lợi ích cho các chúng sanh. Phụng giới thanh tịnh thì nên ở sanh tử, trang nghiêm trì giới đem nhiều lợi ích lại cho chúng sanh. Nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm, trí huệ thì nên ở sanh tử, sáu Ba la mật đem nhiều lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Thuở xa xưa vô ương số kiếp, có đức Phật hiệu Phổ Hoại Thế Như Lai Ứng Cúng Chi Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới ấy tên Thiên Quán, kiếp tên Hân Dự.Tại sao kiếp ấy tên Hân Dự ? Trong kiếp ấy có sáu vạn đức Phật xuất thế, bấy giờ Trời Tịnh Cư dùng vô số âm thanh ban tuyên công đức của Phật, trong kiếp ấy có sáu vạn Phật,chư Thiên và người đời đều ca tụng. Nghe tiếng ca tụng ấy không ai là chẳng vui mừng sanh lòng lành. do cớ ấy mà gọi là Hân Dự.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Thế giới ấy an ổn khoái lạc công đức cao vọi, chư Thiên và nhơn dân ngắm xem chẳng nhàm nên gọi là Thiên Quán. Cõi ấy vi diệu rất mực trang nghiêm, nhiều thứ hương thơm làm đất, hơi hương bay khắp mưởi phương vô lượng vô số quốc độ. Ðất thơm tự nhiên mọc lên vô lượng hoa sen chói sáng. Ánh sáng hoa sen thường chiếu sáng thế giới Thiên Quán ấy. Nhơn dân lớn nhỏ đều có thần túc đều có túc đức, hương thơm làm lâu đài giảng đường tinh xá, hiên lớn, cửa nẻo, giường ghế nệm mền đều vi diệu mịn láng.Thế giới của đức Phật Phổ Hoại Thế ấy không phân chia nước ấp quận huyện thôn lạc. Nhơn dân ấy đều dùng thần thông đi đứng nơi hư không. Nhơn dân ngồi nơi lâu đài giảng đường ấy chuyên ròng niệm đạo, đọc tụng giảng luận. Cõi ấy không có người nữ, không có bào thai, mọi người đều hóa sanh. Không nghe nói đến người nữ, cũng không có tên tam đồ ác thú, cũng không có các sự phiền não tai họa khổ nhọc. Mọi người dùng thiền định hoan hỉ làm ẩm thực, dốc lòng tin pháp vi diệu chí cầu Ðại thừa, không có Thanh Văn, Duyên Giác hay thừa nào khác. Nhơn dân cõi ấy đội mão, y phục nhan sắc như chư Thiên. Giả sử có người xuất thế học đạo thì đều rời bỏ trần lao ái dục không hề có lo khổ.
Ðức Phổ Hoại Thế Như Lai ấy cũng chẳng truyền bảo chư Bồ Tát phải mặc pháp phục. Tại sao ? Vì người cõi ấy chẳng sanh lòng uế trược. Hình thể của đức Như Lai ấy như Phạm Thiên. Chư Bồ Tát cõi ấy đều đủ oai nghi lễ tiết, ngồi đứng an tường, giảng thuyết kinh pháp.
Giả sử ở quốc độ của chư Phật mười phương có hàng Bồ Tát thần thông quảng đại bi suốt các thế giới đến cõi Thiên Quán khể thủ quy mạng nghe đức Phổ Hoại Thế Như Lai giảng thuyết kinh điển, thấy cõi ấy công đức siêu việt cao vọi vô lượng không đâu sánh kịp, đều cất tiếng khen ngợi chưa từng có rồi mới bỏ đi.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Nếu lúc đức Phổ Hoại Thế Như Lai vì chư Bồ Tát mà ban tuyên đạo hóa thì Ngài thăng lên hư không cách đất sáu mươi sáu trượng ngồi trên tòa sư tử vi diệu thanh tịnh trang nghiêm mà luận giáo pháp vô thượng, chỉ nêu phần chủ yếu mà chẳng phân biệt rộng, còn ta ở đây thì ân cần nói nhiều. Tại sao ? Vì chư Chánh Sĩ ấy đều nhập thánh huệ, do một chương một câu liền có thể ngộ nhập trăm ngàn diệu nghĩa nên đức Như Lai ấy tuyên gọn kinh giáo mà chẳng nói nhiều.
Ðức Phật ấy nói về bốn hạnh thanh tịnh : Ba la mật thanh tịnh, đạo phẩm pháp thanh tịnh, thần thông hạnh thanh tịnh và hóa độ chúng sanh thanh tịnh.
Nầy Bửu Kế ! Thuở ấy nơi quốc độ Thiên Quán có Bồ Tát hiệu Trân Bửu bạch hỏi đức Phổ Hoại Thế Như Lai : Thế nào là Bồ Tát nên ở tại sanh tử làm nhiều lợi ích cho các chúng sanh ? Ðức Phật bèn vì Bồ Tát mà rộng phân biệt nói nghĩa hai câu nầy : Nơi đại trí huệ đạo không gì bằng, sở hành của Bồ Tát hằng ở sanh tử chứng được trí huệ làm nhiều lợi ích.
Ðức Phổ Hoại Thế vừa nói xong lời ấy liền có sáu vạn Bồ Tát được nhu thuận nhẫn.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Lúc ấy Trân Bửu Bồ Tát lại hỏi : Thế nào là Bồ Tát nghiêm tịnh đạo tràng ngồi nơi Bồ đề thọ ? Phổ Hoại Thế Như Lai bảo : Dùng không phóng dật nghiêm tịnh đạo tràng ngồi nơi Bồ đề thọ. Hỏi : Thế nào gọi là không phóng dật ? Ðáp : Phụng hành kinh điển. Hỏi : Sao gọi là phụng hành kinh điển ? Ðáp : Ngôn hành tương ưng là không phóng dật. Lại không phóng dật chẳng tự buông lung mà tu vô lượng công đức lớn, chẳng hiệp với ngũ ấm vì vuợt khỏi ngũ ấm, bố thí vô lượng vì của cải vô tận, trì giới vô lượng vì hàng chưa học, nhẫn nhục vô lượng vì kham chịu các sự khổ nhọc, tinh tiến vô lượng vì công nghiệp của Chánh Sĩ, thiền định vô lượng vì không lui sụt, trí huệ vô lượng vì không chướng ngại, từ tâm vô lượng vì khai hóa chúng sanh không hạn cuộc, bi tâm vô lượng vì thương xót chúng sanh cứu giúp thiếu ngặt, hành vi vô lượng vì dùng pháp khuyên vui chúng sanh, hành xả vô lượng vì cứu tế dìu dắt quần sanh, sanh tử vô lượng vì nuôi lớn tất cả pháp Phật đạo, hóa độ vô lượng vì an ổn người và mình, chánh pháp vô lượng vì thuận lợi tùy thời kiên trì tinh tiến, đức huệ vô lượng vì nắm quyền phương tiện đồng đúng thời tiết, phụng sự vô lượng Phật vì đầy đủ trí huệ, cầu vô lượng văn huệ vì trí lớn siêu việt, tâm nhập vô lượng vì nhìn thấy chí hướng tánh hạnh của chúng sanh, tiết độ vô lượng vì chí gìn nhàn tĩnh tri túc, nhàn cư vô lượng vì điều thuận tâm, tịch mặc vô lượng vì chỗ quan sát rộng khắp mau lẹ đầy đủ các thông huệ vậy. Nầy Trân Bửu ! Ðây là những pháp mả không phóng dật phải tuân theo. Bồ Tát tu hành không phóng dật đây thì nghiêm tịnh đạo tràng ngồi Bồ đề thọ.
Ðức Phổ Hoại Thế Như Lai lại bảo Trân Bửu Bồ Tát : Nầy Tộc Tánh Tử ! không phóng dật ấy là căn bổn lập nên các phẩm đạo pháp, là nguồn của thánh huệ chứng pháp kiên yếu. Dùng không phóng dật tích lũy đức bổn. Hay chưa phóng dật thì chưa hề quên sót pháp được nghe từ xa xưa, có thể nhớ lấy khắp tất cả kinh điển, tiêu hóa tất cả trần lao ấm cái, với đạo nghĩa không bị chướng ngại . Người không phóng dật có thể đốt hết tối ngu si, có thể giữ gìn tất cả kinh pháp, diệt trừ các tướng chấp, ức chế các căn. Người không phóng dật rời bỏ đường tà, phụng hành các điều thiện, thế lực siêu việt, có đủ mười trí lực, như hư không không gì sánh bằng. Người không phóng dật được vô sở úy thành tựu đủ tất cả Phật pháp về đến nguyên đảnh. Người không phóng dật thì có thể chứng được trí huệ Phật.
Lúc đức Phổ Hoại Thế Như Lai ấy nói xong về không phóng dật, có vạn hai ngàn Bồ Tát chứng được Vô sanh pháp nhẫn ».
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát : « Nầy Tộc Tánh Tử ! Ý của ông nghĩ sao ? Trân Bửu Bồ Tát thuở xa xưa ấy nay không phải ngưởi nào khác mà chính là thân ông là Bửu Kế Bồ Tát vậy.
Nếu Bồ Tát không phóng dật thì có thể nghiêm tịnh đạo tràng ngồi Bồ đề thọ chứng nhập Phật đạo Vô thượng.
Lại nầy Bửu Kế ! Thế nào là Bồ Tát khai hóa chúng sanh ?
Nếu người Bồ Tát hạnh thanh tịnh thấy chúng sanh tâm hành thiện ác thì có thể khai hóa vô lượng vô hạn bất khả tư nghị các loài chúng sanh khiến họ phụng hành pháp vô thượng. Bồ Tát nầy chí tánh điều nhu xét rõ tận tường tự tại khai hóa : bao nhiêu chúng sanh căn cơ chẳng đồng sở kiến đều sai khác. Do đây nên Bồ Tát tùy thời nghi thị hiện để dạy bảo họ. Hoặc có kẻ hay kiên trì cấm giới mới khai hóa được. hoặc có kẻ từ nơi phá giới do đó mà thọ lãnh giáo pháp. Hoặc có kẻ dùng y phục vật dụng giao tiếp qua lại làm duyên mà chịu đạo hóa. Hoặc dùng mềm dịu, hoặc dùng cứng thô, hoặc dùng tâm độc, hoặc khủng bố, hoặc dùng sự khổ não, hoặc dùng sự an ổn mà họ chịu khai hóa. Hoặc có những kẻ ở nơi ngôn ngữ, nơi sự đắc thắng, từ nhơn sanh, từ chí tánh, nơi sự bức não, nơi thuận ý, hoặc từ nơi sở hữu, nơi vô sở hữu, từ sự hưng thạnh, từ nơi sở thọ, nơi vô sở thọ, hoặc từ nơi của cải sự nghiệp sanh nhai, hoặc từ nơi yên tĩnh không đổi lấy, hoặc từ nơi ham mộ cầu dung nhan đẹp, hoặc từ nhan sắc xấu, hoặc từ sắc, thanh, hương, vị, xúc mà được khai hóa, hoặc có kẻ từ nơi giận mắng mùi hôi vị đắng nhám cứng xấu xa mà được khai giải, hoặc từ nơi sự cùng ở chung mà thọ hóa, hoặc từ nơi qua lại thường thường gặp nhau, hoặc nghe Phật, Pháp, Tăng, hoặc từ sự vui mừng, hoặc từ sự lo buồn, hoặc từ vô ngã, hoặc từ tịch âm, hoặc từ âm thanh thí, giới, nhẫn, tiến, nhứt tâm, trí huệ mà chịu khai hóa, hoặc từ sự khổ não của thế gian hữu vi, hoặc nghe trên trời trong người hưởng sự an ổn mà chịu khai hóa, hoặc nghe giáo pháp Thanh Văn thừa, hoặc nghe giáo pháp Duyên Giác thừa, hoặc nghe giáo pháp Ðại thừa mà chịu khai hóa, hoặc có kẻ từ nơi sự thường vui mừng, hoặc từ sự lo khổ, hoặc từ sự buồn rầu chẳng được mừng vui, hoặc từ tài lợi, hoặc từ hớn hở, hoặc từ nơi sự chẳng được yêu kính, hoặc do được lợi, hoặc do suy hao, hoặc từ nơi bổn ân mà được khai hóa, hoặc có kẻ từ nơi nội nghiệp, hoặc từ ngoại nghiệp, hoặc từ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thể tay chơn mà chịu khai hóa, hoặc do vui chơi ca kịch, hoặc do hoa hương mà chịu khai hóa, hoặc từ thân mình luôn bị khổ não hoạn nạn, hoặc từ nơi thường được an vui mà chịu khai hóa, hoặc có kẻ từ nơi tâm mình được phương tiện tịch tĩnh, hoặc từ nơi biến hóa làm tượng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, tượng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà chịu khai hóa, hoặc hiện hình tượng dung mạo Phật mà khai hóa chúng sanh, hoặc hiện tượng mạo Ðế Thích, Phạm Thiên, Chuyển Luân Vương mà khai hóa họ’’.
Ðức Phật bảo Ngài Bửu kế Bồ Tát :“ Nầy Tộc Tánh Tử ! Giả sử Bồ Tát chẳng thị hiện bao nhiêu sự biến hóa như vậy, chẳng quan sát tánh hạnh và tâm niệm của chúng sanh thì không thể hóa độ họ được.
Bồ Tát phải hiểu rõ biết rõ tánh hạnh tâm niệm của chúng sanh rồi theo đúng bịnh mà cho thuốc thì chỗ hóa độ mới rộng lớn được.
Nếu Bồ Tát thật hành Ba la mật thì có thể phụng thọ pháp phẩm Phật đạo, cũng hay sáng tỏ trí huệ thần thông, sau đó yên lặng khai hóa chúng sanh.
Bồ Tát có bốn pháp khai hóa chúng sanh :
Một là chẳng chán nhàm hoạn nạn khó nhọc mà chung thỉ dìu dắt, chỉ dạy người chưa bằng mình.
Hai là chẳng ham an ổn riêng mình mà nguyện an tất cả.
Ba là thường theo đúng thời nghi mà tuyên dạy đạo giáo.
Bốn là biết rõ tâm tánh sở hành của các loài.
Còn có bốn pháp :
Một là nói năng nhu hòa lời lẽ đáng kính.
Hai là phụng giới thanh tịnh như mặt nhựt sáng.
Ba là nhan sắc thường vui vẻ chưa hề hớn giận.
Bốn là thường có từ tâm.
Còn có bốn pháp :
Một là lòng chẳng hề nghĩ đến sự làm tổn hại người.
Hai là sẵn lòng đại bi.
Ba là nhiều thương xót chúng sanh.
Bốn là thường điều phục tâm mình.
Còn có bốn pháp :
Một là tánh hạnh thanh tịnh.
Hai là không dua siểm.
Ba là tinh tiến kiên cường.
Bốn là nhẫn sự khổ lạc thiện ác.
Trên đây là bốn pháp của Bồ Tát khai hóa chúng sanh. Quan sát như vậy mới có thể kham cứu tế tất cả.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Quá khứ xa xưa vô ương số kiếp, có Phật hiệu Ly Cấu Quang Như Lai Ứng Cúng Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên Tịch Nhiên, kiếp tên Ái Kính. Thế giới Tịch Nhiên ấy giàu vui an ổn khoái lạc vô lượng, trời người đông đúc. Chúng Thanh Văn có chín mươi sáu ức, Bồ Tát có tám vạn bốn ngàn. Phật Ly Cấu Quang thọ ba mươi ba vạn sáu ngàn năm. Bấy giờ có phạm chí làm đại Quốc Vương, Thái Tử tên Nghiệp Thủ xinh đẹp đoan trang nhìn không chán mắt. Thái Tử ấy vừa mười sáu tuổi say vì nhan mạo, mê nơi quyền quí, tự cao tự đại hoang loạn không chịu đến chỗ Phật Ly Cấu Quang để cung kính đảnh lễ.
Phật Ly Cấu Quang nghĩ rằng : Thái Tử Nghiệp Thủ tại sao bỗng nhiên quên mất tâm Bồ đề Vô thượng cội gốc công đức, chẳng biết bổn nguyện mà đi chấp ngô ngã hoang mê dung sắc giàu có quyền quý, lại tự cao đại chẳng chịu đến chỗ Phật để kính lễ. Nếu có ai ân cần vì gã mà tuyên nói bổn hạnh, gã tất biết đời trước và sẽ thường đến chỗ Phật lễ lạy thọ giáo.
Bấy giờ Phật Ly Cấu Quang hội tám vạn bốn ngàn Bồ Tát bảo bỏ thăm coi ai có khả năng đến chỗ TháiTử Nghiệp Thủ trong tám vạn bốn ngàn năm giáo hóa thuyết pháp chẳng mỏi nhàm chẳng sợ tất cả khổ não bức bách, dầu có đến đó thuyết dạy cũng chẳng được tiếp đãi mời ngồi chuyện vãn, chỉ có mắng nhiếc hủy nhục chê bai thôi. Lúc ấy dầu có bỏ thăm mà trong hàng tám vạn bốn ngàn Bồ Tát không một ai chịu nhận sứ mạng. Sau đó trong pháp hội có Bồ Tát hiệu là Cực Diệu Tinh Tiến đứng dậy trịch y vai hữu quỳ gối chắp tay bạch Phật Ly Cấu Quang rằng : Tôi có thể kham trong tám vạn bốn ngàn năm thường qua chỗ Thái Tử Nghiệp Thủ, tôi cam bỏ tất cả an ổn mà nhận các sự khổ nhọc, dầu bị những ách nạn cũng chẳng sờn lòng.
Lúc Cực Diệu Tinh Tiến Bồ Tát bạch vừa xong thì cả Ðại Thiên thế giới chấn động sáu lần, trăm ngàn chư Thiên ở hư không cất tiếng khen rằng : Lành thay lành thay ! Bồ Tát Cực Diệu Tinh Tiến hay mặc giáp hoằng thệ.
Bấy giờ Bồ Tát Cực Diệu Tinh Tiến đến đứng trước cửa ngõ cung của Thái Tử Nghiệp Thủ. Thái Tử vừa thấy liền cả tiếng mắng nhiếc hủy nhục, giận dữ hủy báng, hốt đất ném đó, ngói đá liệng đó, dao gậy chém đánh đó. Bồ Tát bị mắng nhục đánh đập như vậy mà chẳng giận chẳng hờn cũng chẳng hối hận lui về, càng thêm bền lòng chắc ý, trí lực càng tăng sanh lòng đại bi thương xót Thái Tử. Như vậy quá một ngàn năm mới vào được cửa thứ nhứt, trải qua biết bao khổ nhục hoạn nạn mà chẳng sợ chẳng nhàm. Quá một vạn năm lại vào đến sân thứ nhứt trong vương cung, hai vạn năm vào đến sân thứ hai, quá tám vạn bốn ngàn năm mới vào được sân thứ bảy đứng đó bảy ngày bảy đêm. Thái Tử Nghiệp Thủ thấy vậy bèn gạn hỏi Tỳ Kheo sao đến đây muốn cầu sự gì ? Bồ Tát đáp : Tôi cố ý đến đây để ca ngợi danh đức của Thái Tử.
Nghe vậy, Thái Tử thầm nghĩ : Lạ lùng chưa từng có, nay Tỳ Kheo nầy giới đức khó lường không ai theo kịp, bị biết bao hủy nhục mà chưa hề hờn giận.
Thấy Thái Tử vui vẻ, Cực Diệu Tinh Tiến Bồ Tát liền nói kệ rằng :
Thái Tử ! Nay tôi không cầu gì
Chẳng cần uống ăn và y phục
Phải nên hiển bày lòng vô úy
Tôi mang pháp đến nên tới đây
Ðấng Thế Tôn hiệu Ly Cấu Quang
Ðại Thánh ra đời nhiều lợi ích
Giảng nói kinh pháp trừ khổ hoạn
Nếu có người nghe được cam lồ
Chư Phật ra đời thật khó gặp
Vô số ngàn kiếp khó gặp được
Ðiều phục mọi người khiến thọ pháp
Phật là đuốc sáng của thế gian
Người vì dục lạc mà phóng dật
Tham của ham sắc tự vui chơi
Mê hoang quyền quý và ngôi vua
Chẳng chịu đến gặp đấng Pháp Vương
Của cải vô thường mạng khó gìn
Phật dạy đời sống như sương mai
Thái Tử xét mình cũng như vậy
Sao nghe có Phật lại phóng dật ?
Ngài cũng đã từng phát đạo tâm
Mời thỉnh chúng sanh muốn độ họ
Ðời nay sao bị dục lạc sai ?
Phóng dật đâu độ được chúng sanh
Ngài nên phát tâm thương mọi loài
Ðể khỏi hối hận chuốc sầu não
Nay tôi muốn về chỗ đức Phật
Hàng phục tâm ý diệt trần dục.
Thái Tử Nghiệp Thủ nghe lời kệ ấy liền tự trách và cung kính lễ chưn Bồ Tát Cực Diệu Tinh Tiến mà thưa rằng :
Khể thủ đại bi Cực Tinh Tiến
Nay tôi sám hối tội nhục Ngài
Tôi sẽ rời bỏ tất cả việc
Chẳng mộ quyền quý chẳng tham ngôi
Tôi sẽ qua đến chỗ an trụ
Vứt bỏ nhơ nhớp tìm lợi ích.
Thái Tử liền cùng một ức tám vạn người đều cầm hoa hương đến chỗ Phật cúng dường đảnh lễ rồi lui qua một bên.
Bấy giờ Thái Tử Nghiệp Thủ bạch Phật rằng :
Cực Diệu Tinh Tiến là thầy tôi
Lòng chẳng chán nhàm vui vẻ khuyên
Ân đức dường ấy không gì hơn
Cúng dường thế nầy chẳng đủ đền
Hối lỗi quy y đấng Cứu Thế
Nay tôi chí thành về sám hối
Nguyện Phật nạp thọ lòng thú tội
Nay tôi phát tâm cầu Phật đạo
Vì tất cả loài khởi lòng thương
Chẳng còn tạo tà và phóng dật
Nay tôi lập đức thành Phật đạo.
Thái Tử Nghiệp Thủ bỏ ngôi cùng một ức tám vạn bốn ngàn người ở nơi chỗ Phật Ly Cấu Quang làm Sa Môn phát tâm cầu Phật đạo.
Phật Ly Cấu Quang biết chí nguyện ấy nên giảng nói Phật đạo tối thượng. Nhiều người nghe pháp thanh tịnh được nhu thuận nhẫn, hàng Bồ Tát an trụ Vô sanh pháp nhẫn » .
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát : « Cực Diệu Tinh Tiến thuở ấy nay là thân ta, là Thích Ca Mâu Ni Phật đây. Còn Thái Tử Nghiệp Thủ ấy nay là Di Lặc Bồ Tát vậy.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Thuở quá khứ, Bồ Tát khai hóa chúng sanh chẳng hề mỏi chán, oai đức cao vọi vô lượng dường ấy, sở học ngày thêm sâu tinh tiến vô song. Vì thế nên Bồ Tát muốn độ chúng sanh thì phải nhớ tu học công đức của Cực Diệu Tinh Tiến Bồ Tát quá khứ ấy.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát có bốn hạnh mà được tự tại, do bốn hạnh nầy mà nhiếp lấy Phật đạo pháp :
Một là siêu việt các ma không ai chẳng quy phục.
Hai là niệm tịnh Phật độ khiến tu tịnh pháp.
Ba là nghiêm thân khẩu ý thuận với căn bổn của bực khai sĩ.
Bốn là nhóm họp tất cả các Phật đạo phẩm.
Còn có bốn sự là Bồ Tát hạnh :
Một là trí huệ hiểu rõ chí tánh được nhập.
Hai là thấy khắp căn nguyên sở quy của chúng sanh.
Ba là phân biệt sở do của các loài rồi cho thuốc đúng bịnh.
Bốn là biết rõ tất cả đường tắt được đi khiến được tịch mịch chẳng có lòng hờn giận.
Ðây là những bốn hạnh sở hành của Bồ Tát đuợc tự tại đạo nghiệp ».
Bấy giờ Bửu Kế Bồ Tát lấy viên Minh Nguyệt châu trong búi tóc Ngài, châu ấy do từ trăm ngàn công đức cần khổ tu tập trong vô số kiếp cảm thành, giá trị bằng cả Ðại Thiên thế giới đem dâng lên đức Phật mà tuyên rằng : « Nay tôi đem báu trên đỉnh đầu cống hiến đức Như Lai. Do công đức nầy sẽ gây nên tướng đỉnh đầu không ai thấy được, mãi đến thành đỉnh thánh huệ bất khả tư nghì của chư Phật ».
Liền đó đức Phật mỉm cười, có ánh sáng năm màu từ miệng Phật chiếu ra soi thấu vô ương số quốc độ chư Phật rồi trở về nhiễu quanh Phật ba vòng bỗng ẩn mất vào trên đỉnh Phật.
Lúc bấy giờ trong pháp hội có Bồ Tát tên là Kiện Biện đứng dậy trịch y vai hữu quỳ gối chắp tay tán thán đức Phật và bạch hỏi rằng :
Ðấng Tối Tôn Vô Thượng
Ðấng siêu việt thế gian
Vô cấu do ly uế
Tam giới khen Phật đức
Lòng từ không gì sánh
Cao vọi hơn Tu Di
Cớ chi nay Phật cười ?
Nguyện thương gì tôi nói
Chơn đế giới nghiêm tịnh
Ðấng thanh tịnh khả kính
Khiến lòng tôi an ổn
Khéo tu sớm tịch tĩnh
Thiên Nhơn Sư ở đây
Chí Phật rất kiên diệu
Vì cảm ứng những gì
Xót thương mà nay cười
Thế mạnh khắp mười phương
Quang minh phước soi sáng
Phá tối sư tử mạnh
Vào chúng vô sở úy
Ba cõi không ai bằng
Có ai hơn được Phật
Pháp Vương xin thương nói
Cớ chi mà vui cười ?
Ly cấu tánh thường an
Nhan sắc thường hòa vui
Danh đức khắp hư không
Vang lừng không hạn cuộc
Tiêu trừ những tối tăm
Quang minh chiếu khắp chỗ
An trụ chỉ vì hiểu
Cớ chi Phật vui cười
Tu đức lòng thanh tịnh
Chí như núi vàng báu
Thường dạy bảo hậu học
Người đời đều cúng dường
Phật là ruộng tốt nhứt
Thánh siêu thế độ đời
Thích Sư Tử thuyết pháp
Diễn pháp như hư không
Trên trời cùng trong người
Không có ai bằng Phật
Tâm bình đẳng rất vững
Tàm quý lành đầy thạnh
Trăm ngàn đức cao vọi
Tướng hảo như hoa nở
Tối Thắng Năng Nhơn cười
Xin được giải thích rõ
Phật huệ không chướng ngại
Trải rộng suốt ba đời
Nơi bao nhiêu tâm ý
Lòng Phật vô sở trước
Ðồng thời đều hiểu rõ
Giáo hóa đúng căn cơ
Ðấng Sư Tử mỉm cười
Nghĩa ấy là nghĩa gì ?
Chư Thiên dừng trên không
Trong tâm nhiều vui đẹp
Nhơn dân tại đất liền
Vòng tay quy y Phật
Năng Nhơn Tối Thắng nói
Pháp vị cam lồ lạ
Chư Thiên Thần người nghe
Dứt sạch tối trần lao.
Ðức Phật bảo Kiện Biện Bồ Tát : « Ông có thấy Bửu Kế đây chăng ? Ông ấy đem bửu châu trong búi tóc dâng lên Như Lai chí cầu đạo chánh chơn vô thượng, đó là cúng dường Phật trí ».
Kiện Biện Bồ Tát bạch Phật : « Vâng tôi đã thấy, bạch đức Thế Tôn ! ».
Ðức Phật bảo Kiện Biện Bồ Tát : « Nầy Tộc Tánh Tử ! Bửu Kế đây từ hằng sa số kiếp cúng dường hằng hà sa số Phật, ông ấy thường tu phạm hạnh khai hóa vô số loài chúng sanh lập nên tam thừa. Ðương lai quá mười a tăng kỳ kiếp sẽ làm Phật hiệu Bửu Thành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên Ly Cấu Quang, kiếp tên Vô Cấu. Thế giới Ly Cấu Quang ấy bằng bảy báu hiệp thành thường phát ra ánh sáng chiếu khắp vô lượng Phật độ mười phương, ánh sáng ấy màu tử kim. Nếu chúng sanh nào gặp được ánh sáng ấy thì tất cả trần lao tất nhờ đó mà tiêu diệt. Thế giới ấy giàu vui, đều là bậc Bồ Tát vô sở trước, không có tướng dị học khác phát khởi, đồng tu đạo bửu, do cớ nầy mà đức Phật hiệu là Bửu Thành. Chư Bồ Tát ấy đều được thần thông, đều có biện tài. Chư Thiên, nhơn dân đều thuần thục tuân hành theo đấng Ðẳng Chánh Giác, không có danh từ vô trí bất cập. nước ấy cũng không có vua chúa, chỉ do Phật làm Pháp Vương Vô Thượng. Chư Thiên và nhơn dân đều tự nhiên hóa sanh, không có người nữ, không có danh từ ái dục. Nhơn dân cõi ấy đều trồng cội công đức không có người vô phước, đầy đủ các căn, đều dùng các tướng hảo trang nghiêm thân thể. Chúng Bồ Tát của đức Như Lai thuở ấy đông không thể kể đếm. Ðức Phật Bửu Thành thọ mười bốn kiếp. Ngài không hề đàm luận gì khác, lời Phật chỉ tuyên bày trí huệ Bồ Tát, các Ba la mật, biện tài, đại bi, thuần một giáo phẩm, chư Bồ Tát đã được dạy bảo, các căn sáng suốt có thể do một câu mà khắp vào tất cả đạo pháp của chư Phật. Bửu Thành Như Lai vì chư Bồ Tát ấy mà nói ngôn giáo tổng trì, từ tâm như đất.
Sao gọi là ngôn giáo tổng trì ? Ðó là do một tuyệt cú mà vào khắp các chương.
Sao gọi là một tuyệt cú ? Ðó là câu diệu thánh, pháp đạo phẩm chẳng thể cùng tận.
Sao gọi là câu vô tận ? Ðó là ở nơi Phật đạo thì chẳng thể cùng tận.
Sao gọi là vô tận ? Phàm luận nơi vô thì gọi là vô tận cú. Ðã nhập nơi vô rồi thì vào khắp văn tự, đây là nhứt cú mà tất cả văn tự chẳng thể cùng tận được.
Lại còn có nhị tự, trước chưa bao giờ nghe cũng chưa bao giờ làm, mà tuyên lời nói phát xuất từ nơi nhứt tự. Nhứt tự ấy chẳng đồng thế lực với nhị tự vậy. Ðây là dùng nhứt tự mà tuyên lời dạy.
Nếu tuyên bố lời dạy nầy thì không có niệm không chẳng niệm, không có ứng không chẳng ứng .
Câu nầy không có niệm cũng không chẳng niệm. Do câu vô niệm mà hoàn thành sự khai hóa.
Vì nhập tổng trì giáo nên Phật Bửu Thành vì chư Bồ Tát ấy tuyên nói ngôn cú tổng trì. Do một câu ấy mà các học nhơn kia được vào khắp tất cả ý của Phật.
Hoặc một kiếp hay quá một kiếp, ta khen ngợi công đức của Ly Cấu Quang thế giới cũng không cùng tận được. Trí huệ giảng thuyết kinh đạo của Bửu Thành Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, cao vọi siêu tuyệt vô thượng.
Lúc ấy Bửu Kế Bồ Tát nghe đức Phật thọ ký vui mừng hớn hở nói kệ khen Phật :
Biết khắp thấy được hết
Viên mãn Ba la mật
Như Lai đều vượt khỏi
Tất cả mọi sai lầm
Trí huệ chưa từng có
Biết hết đời trước tôi
Số cúng dường chư Phật
Phật đều nói đủ cả
Quá khứ vị lai nầy
Gốc ngọn là như vậy
Phật còn biết mạt thế
Cùng tất cả mọi người
Tôi được Phật thọ ký
Chẳng còn có nghi ngờ
Khai hóa độ thế gian
Căn tánh bổn và mạt
Giả sử tất cả nơi
Nhựt nguyệt đều sa xuống
Lời từ miệng Phật tuyên
Trọn không cải biến được
Phật nói lời chí thành
Chơn thật không hư luống
Thọ ký đời vị lai
Thành Phật Nhơn Trung Tôn
Như chí tôi đã nguyện
Nghiêm tịnh Phật quốc độ
Lời Phật cũng như vậy
Biết rõ tâm niệm tôi
Nghe lời Phật dạy rồi
Vui vẻ không nghi ngờ
Hạnh được tu đệ nhứt
Vì muốn độ chúng sanh
Như hạnh tôi đã tu
Sẽ còn tăng vô lượng
Nghiêm trị nơi bổn tế
Thân tôi phụng tịnh hạnh
Tu hành được làm Phật
Chẳng do giải đãi gây
Gắng sức không khiếp nhược
Do từ tinh tiến nên
Phật nhận tôi cúng dường
Chứng đạo tâm của tôi
Chưa hề bỏ tinh tiến
Ðến thành Phật đại bi
Do vì các chúng sanh
Bổn mạt là như vậy
Tôi sẽ khai hóa cả
Thành Phật độ dị học
Lúc Bửu Kế Bồ Tát nói kệ, có bảy vạn hai ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ đề nguyện sẽ sanh nơi thế giới Ly Cấu Quang đồng thời phát thanh nói lời nầy : Lúc đức Bửu Thành Như Lai thành Phật khiến chúng tôi đều sanh tại Phật độ ấy.
Ðức Phật đều thọ ký sẽ được sanh tại cõi ấy.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ngài A Nan thọ kinh điển nầy trì tụng đọc thuyết rộng truyền ý nghĩa nầy cho mọi ngưòi, ân cần hộ trợ kinh điển nầy cốt yếu sao cho trên trời trong người đều quy y mà cúng dường. Tại sao vậy ? Vì ai nghe kinh nầy thì Phật sẽ thọ ký. Người không tin là do phước đức kém mỏng, người thọ trì kinh nầy thì phước đức phi phàm. Người tạm nghe kinh nầy thì đời đời được gặp Phật, huống là nghe rồi thọ trì phụng hành giảng thuyết công đức vô hạn vô lượng.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn đem thất bửu đầy Ðại Thiên thế giới theo thời mà bố thí trọn trăm ngàn năm, người nghe kinh nầy mà vui mừng tín thọ thì công đức hơn trên.
Ngài A Nan bạch Phật : “Bạch đức Thế Tôn ! Kinh nầy tên gì và phụng trì thế nào ?”.
Ðức Phật dạy : “Kinh nầy tên là kinh Bồ Tát Tịnh Hạnh Bửu Kế Sở Vấn. Phải phụng trì như vậy.
Ðức Phật nói kinh nầy rồi, Bửu Kế Bồ Tát và thập phương chư Bồ Tát dự hội, hiền giả A Nan, Thiên, Long, Quỷ, Thần, Kiền Thát Bà, A Tu La, Nhơn, Phi Nhơn nghe lời Phật dạy đều vui mừng tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI BỬU KÊ BỒ TÁT
THỨ BỐN MƯƠI BẢY
HẾT

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 120 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Gõ cửa thiền


Nghệ thuật chết


Vào thiền


Kinh Đại Bát Niết bàn Tập 1

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.71.154 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập