Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 107 »»

Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 107


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.43 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.55 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Đại Bửu Tích

Kinh này có 120 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 96 | 97 | 98 | 99 | 100 | 101 | 102 | 103 | 104 | 105 | 106 | 107 | 108 | 109 | 110 | 111 | 112 | 113 | 114 | 115 | 116 | 117 | 118 |
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Tôn giả A Nan bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Ví như núi Tu Di, nếu các vật tạp sắc đến bên núi thì đồng một kim sắc. Nếu có chúng sanh đến bên Bồ Tát, hoặc tâm dục tâm sân hoặc tịnh tâm, tất cả đều đồng một tâm Nhứt thiết trí. Từ nay với chư Bồ Tát, tôi sanh lòng tôn trọng xem như núi Tu Di vậy.
Bạch Ðức Thế Tôn! Ví như thuốc Dược Vương tên là Tất Kiến. Người sanh tâm người tịnh tâm nếu uống thuốc ấy đều được lành cả, thuốc ấy hay trừ tất cả độc. Cũng vậy, người sân tâm người tịnh tâm đến chỗ Bồ Tát đều có thể trừ sạch tất cả bịnh tham sân si".
Ðức Thế Tôn khen rằng: "Lành thay, lành thay, nầy A Nan! Ðúng như lời ông nói".
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Thật chưa từng có, Ðại Bồ Tát tối tôn đệ nhứt, chư Ðại Bồ Tát tu thiền định, tu thiền định xong trở vào Dục giới giáo hóa chúng sanh. Dầu Bồ Tát hành không vô tướng vô tác dùng đó để giáo hóa chúng sanh khiến họ thành Thanh Văn Duyên Giác, mà do đại từ bi nên tự mình trọn chẳng rời Nhứt thiết trí tâm. Bạch Ðức Thế Tôn! Ðại Bồ Tát hành phương tiện bất khả tư nghị, dầu thọ sắc thanh hương vị xúc mà không ái trước trong ấy. Nay tôi dùng lạc thuyết biện tài nói chút phần công đức của Bồ Tát.
Bạch Ðức Thế Tôn! Ví như chầm hoang đói rộng lớn có tường cao đến Vô Sắc giới, chỉ có một cửa ngõ, trong chầm ấy có đông chúng sanh. Cách chầm chẳng xa có một thành lớn giàu có vui sướng tịnh diệu trang nghiêm, nếu có ai vào trong thành ấy thì không già bịnh chết. Con đường từ chầm hoang vào thành ngay chỉ rộng một xích. Chúng nhơn trong chầm có một người trí thông thái bỗng khởi tâm đại từ bi muốn lợi ích an lạc tất cả chúng sanh, liền to tiếng xướng rằng: Mọi người nên biết cách đây không xa có một thành lớn giàu vui an ổn, nếu ai vào trong thành ấy thì không già bịnh chết và cũng hay nói pháp lìa già bịnh chết. Mọi người nên cùng đi đến thành ấy, tôi sẽ là người dẫn đường.
Trong chầm hoang ấy, có những chúng sanh hạ liệt sanh lòng hi vọng, muốn được tìm hiểu, họ nói rằng nếu có thể khiến tôi ở trong chầm nầy tôi sẽ thọ giáo, còn muốn khiến tôi ra khỏi chầm nầy thời tôi chẳng nhận.
Có những chúng sanh hạng thượng nói: Tôi sẽ cùng Ngài đến thành ấy. Có những chúng sanh bạc phước nghe lời xướng trên chẳng tin chẳng theo người trí.
Bạch Ðức Thế Tôn! Bấy giờ người trí ra khỏi tường chầm trông bốn phía thấy chỉ có một con đường thẳng rộng một xích quá nhỏ hẹp hai bên là hố lớn sâu trăm ngàn thước. Người trí dùng ván be hai bên đường, người đi phải bò mà tiến chẳng ngó hai bên kể oán tặc khủng bố phía sau, người bò đi cũng chẳng ngoái nhìn lại, dũng nhuệ chẳng sợ lần lần qua được đường hẹp thấy thành lớn. Ðã thấy thành rồi không còn bố úy liền đi vào thành. Sau khi vào thành không già bịnh chết cũng làm lợi ích lớn cho vô lượng chúng sanh vì họ mà nói pháp lìa già bịnh chết.
Bạch Ðức Thế Tôn! Chầm lớn hoang đói ấy là sanh tử vậy. Tường cao lớn đến Vô Sắc giới ấy là vô minh hữu ái vậy. Nhiều chúng sanh ở trong chầm ấy là tất cả phàm phu sanh tử vậy. Ðường thẳng hẹp dẫn đến thành chỉ rộng một xích ấy là nhứt chi đạo vậy. Người trí trong chầm ấy là Ðại Bồ Tát vậy. Chúng sanh hạ liệt hy vọng dục giải ở yên bất đông ấy là Thanh Văn Duyên Giác vậy. Những chúng sanh hạng thượng nói sẽ cùng đi đến đại thành ấy là chư Bồ Tát khác vậy. Những chúng sanh bạc phước chẳng tin ấy là tất cả ngoại đạo tà kiến và các đệ tử họ vậy. Ra khỏi chầm hoang ấy là siêng tu Nhứt thiết trí tâm vậy. Ðường chật hẹp một xích ấy là môn pháp tánh vậy. Hai bên đường có hố lớn sâu trăm ngàn thước ấy là nhị thừa Thanh Văn và Duyên Giác thừa vậy. Lấy ván be hai bên đường hẹp ấy là trí huệ phương tiện vậy. Bò mà đi tới ấy là Bồ Tát dùng tứ nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sanh vậy. Phía sau có oán tặc theo khủng bố ấy là ma và ma dân chúng sanh khởi sáu mươi hai kiến chấp và kẻ khinh báng Bồ Tát vậy. Chẳng ngoái ngó lại phía sau ấy là Nhẫn nhục Ba La Mật chuyên tâm trọn vẹn vậy. Chẳng nhìn hai bên ấy là chẳng khen nhị thừa vậy. Thành lớn ấy là Nhứt thiết trí tâm vậy. Lần lần qua khỏi thấy thành lớn lòng không bố úy ấy là Bố Tát thấy Phật và chỗ sở hành của Phật nhứt tâm kính ngưỡng trí huệ oai đức của Phật, khéo học Bát Nhã Ba la mật phương tiện lần lần tùy nghi gần gũi tất cả chúng sanh không có nghi nan vậy. Vào trong thành rồi không già bịnh chết ấy là Bồ Tát lợi ích vô lượng chúng sanh lìa già bịnh chết vậy. Người thuyết pháp ấy là Ðức Như Lai Ứng Cúng Ðẳng Chánh Giác vậy.
Bạch Ðức Thế Tôn! Nay tôi kính lễ tất cả Bồ Tát".
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp nói lời nầy rồi, có mười ngàn Trời Người phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề.
Ðức Thế Tôn khen rằng: "Lành thay, lành thay, nầy Ma Ha Ca Diếp! Ông hay khuyến phát chư Ðại Bồ Tát, ông hay thành tựu vô lượng công đức.
Nếu là việc làm hay tự hại và hại người thì Ðại Bồ Tát trọn chẳng làm. Hoặc lời nói có thể tự tại hại tha đại Bồ Tát cũng trọn chẳng nói".
Bấy giờ Ðức Tăng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu là việc làm hay lời nói có thể tự hại hại tha tất cả Bồ Tát đều trọn chẳng làm, thì tại sao xưa kia, thời Ðức Phật Ca Diếp, Ðức Thế Tôn còn làm Bồ Tát đạo thừa một đời làm phạm chí tên Thọ Ðề nói rằng: Ðạo Bồ Ðề rất là khó được, đâu có kẻ trọc mà làm nên việc ấy, tôi chẳng muốn thấy.
Bạch Ðức Thế Tôn! Thuở xưa Thọ Ðề phạm chí nói như vậy là có nghĩa gì?".
Ðức Phật dạy: Nầy Ðức Tăng! Ðối với Như Lai và Bồ Tát ông chớ nên nghi ngờ. Vì Phật và Bồ Tát thành tựu phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Phật và Bồ Tát an trụ các thứ phương tiện giáo hóa chúng sanh.
- Nầy Ðức Tăng! Ông nên lắng nghe khéo suy nghĩ, có kính tên Phương Tiện Ba La Mật, ta sẽ nói cho ông. Bồ Tát từ thuở Phật Nhiên Ðăng đến nay lần lần học phương tiện, nay cũng sẽ vì ông mà khai thị phân biêt phần ít.
- Nầy Ðức Tăng! Lúc Ðại Bồ Tát thấy Phật Nhiên Ðăng liền được vô sanh pháp nhẫn từ đó đến nay không có sai lầm chơi cười mất chánh niệm, cũng không có tâm bất tịnh, trí huệ chẳng tổn giảm.
- Nầy Ðức Tăng! Ðại Bồ Tát như bổn nguyện của mình được vô sanh nhẫn rồi sau bảy ngày thì có thể được thành Vô Thượng Bồ Ðề, nếu muồn trăm kiếp cũng có thể được thành. Vì chúng sanh mà đại Bồ Tát thọ tất cả thân, tùy ở chỗ nào, do dùng trí lực nên tùy theo chỗ mong cầu đều được trọn sở nguyện rồi sau mới thành Vô Thượng Bồ Ðề.
- Nầy Ðức Tăng! Ðại Bồ Tát dùng sức phương tiện trong vô lượng kiếp ở các thế giới cũng không ưu sầu vì chẳng chán lìa vậy. Ðây gọi là Bồ Tát hành phương tiện.
Lại nữa, nầy Ðức Tăng! Bao nhiêu thiền định nếu người Thanh Văn nhập thân tâm bất động bèn tự cho là đã nhập Niết Bàn, còn Bồ Tát nhập thì thân tâm tinh tiến không có giải đãi dùng tứ nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sanh do đại bi nên dùng lục Ba La Mật giáo hóa chúng sanh. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
Lại nữa, nầy Ðức Tăng! Như bổn nguyện mình, Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung hay được Vô Thượng Bồ Ðề để chuyển đại pháp luân chẳng phải là không được. Nhưng Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung suy nghĩ rằng: Người Diêm Phù Ðề không thể lên Thiên cung để nghe lãnh giáo pháp, còn chư Thiên Ðâu Suất có thể xuống Diêm Phù Ðề nghe pháp. Do đây Ðại Bồ Tát bỏ rời Ðâu Suất Thiên cung mà ở Diêm Phù Ðề thành Phật. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
Lại nữa, nầy Ðức Tăng! Như bổn nguyện của mình, Ðại Bồ Tát từ Ðâu Suất hạ Diêm Phù Ðề chẳng vào thai mẹ cũng có thể thành Phật. Nhưng nếu không vào thai mẹ sẽ có các chúng sanh nghĩ rằng: Bồ Tát nầy từ đâu đến, là Trời, là Rồng,là Quỉ Thần, là Càn Thát Bà hay biến hóa ra? Nếu họ nghi ngờ thì họ chẳng thể nghe lãnh giáo pháp chẳng thể tu hành để dứt phiền não. Thế nên đại Bồ Tát chẳng phải chẳng vào thai mẹ mà thành Phật. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Chớ quan niệm Bồ Tát thiệt ở thai mẹ, vì Ðại Bồ Tát thiệt chẳng ở thai mẹ. Tại sao? Vì Ðại Bồ Tát nhập vô cấu định, chẳng xuất định ấy mà rời Ðâu Suất Thiên xuống Diêm Phù Ðề nhẫn đến ngồi cội Bồ Ðề. Chư Thiên Ðâu Suất cho rằng Bồ Tát đã mạng chung chẳng còn trở lại đây. Nhưng lúc ấy Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên Thiệt tự bất động mà hiện vào thai thọ ngũ dục hoặc xuất gia và khổ hạnh. Tất cả chúng sanh cho đó là thiệt, nhưng với Bồ Tát đều là sự biến hóa cả. Bồ Tát biến hóa vào thai thọ ngũ dục hiện tự vui thú xuất gia khổ hạnh, tất cả đều là
Bồ Tát biến hóa làm ra. Tại sao, vì Bồ Tát bấy giờ sở hành thanh tịnh chẳng còn nhập thai, vì từ lâu đã chán lìa. Ðây gọi là đại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà hiện thân tợ bạch tượng sáu ngà vào thân mẹ?
- Nầy Ðức Tăng! Trong tam thiên Ðại Thiên thế giới nầy, Bồ Tát tối tôn nhứt vì Ngài đã thành tựu pháp bạch tịnh nên hiện tợ bạch tượng vương vào thai mẹ, không có Thiên, Long, Quỉ Thần nào làm như vậy mà nhập thai mẹ. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát ở thai mẹ đủ mười tháng rồi sao mới xuất thai? Vì có các chúng sanh hoặc cho rằng chẳng đủ mười tháng thì thân đồng tử chẳng đầy đủ. Vì thế nên Bồ Tát hiện ở trong thai đủ mười tháng, từ lúc mới vào đến mãn mười tháng, thời gian giữa ấy thường có chư Thiên đến bên mẹ lễ kính đi nhiễu, bấy giờ chư Thiên thấy Bồ Tát ở lầu cao bảy báu trang nghiêm hơn cả cung trời. Thấy cảnh tốt ấy, có hai vạn bốn ngàn Thiên Tử phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát từ hông hữu của mẹ mà nhập thai? Hoặc có chúng sanh nghi rằng Bồ Tát do tinh huyết cha mẹ mà sanh. Vì dứt sự nghi ấy và hiện hóa sanh nên từ hông bên hữu mà vào. Ðã từ hông mẹ vào rồi không có vết vào, và Ma Gia Phu Nhơn thân tâm khoái lạc từ trước chưa từng có. Ðây gọi là Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát khi sanh ra ở tại vườn vắng vẻ chớ chẳng sanh tại trong nhà và trong thành? Từ trước đến giờ Bồ Tát thường ưa thích chỗ vắng vẻ và tán thán chỗ vắng vẻ, tán than chỗ núi rừng nhàn tĩnh và hành pháp tịch diệt. Nếu Bồ Tát sanh tại trong nhà thì chư Thiên, Long, Quỉ Thần, Càn Thát Bà chẳng mang hoa hương kỹ nhạc đến cúng dường. Nhơn dân thành Ca Tỳ La Vệ hoang mê phóng dật tự cao chẳng có thể cúng dường Bồ Tát. Vì thế nên Bồ Tát sanh tại chỗ vắng vẻ mà chẳng ở nhà và trong thành. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà mẹ Bồ Tát ngước vịn cành cây vô ưu mà sanh Bồ Tát? Hoặc có chúng sanh nghi lúc sanh Bồ Tát, Ma Gia Phu Nhơn cũng đau đớn khổ não. như các nữ nhơn khác, nên thị hiện thọ khoái lạc lúc sanh Bồ Tát, vì thế mà Ma Gia Phu Nhơn ngước vịn cành cây vô ưu mà sanh Bồ Tát. Ðây gọi là đại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! do duyên cớ gì mà lúc sanh, Bồ Tát từ hông bên hữu của mẹ chánh niệm xuất hiện mà chẳng từ thân phần khác? Trong tam thiên đại Thiên thế giới, Bồ Tát tối tôn tối thắng, chẳng nhơn nữ căn trụ, chẳng nhơn nữ căn xuất. Ðây là nhứt sanh bổ xứ BồTát thị hiện như vậy, chẳng phải các người phạm hạnh khác. Vì thế mà Bồ Tát từ hông bên hữu xuất hiện. Ðây gọi là đại Bồ Tát hành phương tiện .
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát lúc sơ sanh được Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn dùng bửu y hứng lấy mà chẳng phải Thiên Nhơn khác? Thích Ðề Hoàn Nhơn xưa phát nguyện nầy: Bồ Tát lúc sơ sanh tôi sẽ dung bửu y hứng lấy. Do Bồ Tát thiện căn vi diệu nên tăng lợi ích chư Thiên Tín kính cúng dường. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì lúc vừa sanh ra Bồ Tát đi bảy bước mà chẳng sáu chẳng tám? Quyết định Bồ Tát có đại thần lực cần tinh tiến đại trượng phu tướng, muốn thị hiện cho chúng sanh mà người khác chẳng thị hiện được như vậy. Nếu do bảy bước lợi ích chúng sanh thì Bồ Tát đi sáu bước, nếu do tám bước lợi ích chúng sanh thì Bồ Tát đi bảy bước. Vì thế nên không ai đỡ dắt Bồ Tát tự đi bảy bước chẳng phải sáu chẳng phải tám. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì Bồ Tát đi bảy bước rồi xướng lời như vầy: ở trong thế giới ta tối tôn tối thắng lìa già bịnh chết. Lúc bấy giờ trong chúng hàng Ðế Thích, Phạm Vương và chư Thiên Tử có lòng kiêu mạn tự cho mình là cao quí nhứt trong thế giói, rồi họ cao ngạo không lòng cung kính.Bồ Tát nghĩ rằng các Thiên Tử nầy có tâm kiêu mạn, do kiêu mạn họ sẽ mãi mãi thọ khổ đọa ba ác đạo. Vì thế nên Bồ Tát phát lời nói trên: Trong thế giới ta tối tôn tối thắng lìa già bịnh chết. Lúc Bồ Tát xướng như vậy âm thanh vang khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới. Hoặc có chư Thiên Bồ Tát chưa tập họp nghe tiếng cõi xướng ấy đều vân tập đến. Lúc ấy chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc chắp tay cung kính hướng Bồ Tát mà hành lễ, đều bảo nhau rằng:
Chưa từng có. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên có gì mà Bồ Tát đi bảy bước rồi cười lớn? Bồ Tát chẳng do ham muốn mà cười, chẳng do khinh mạn mà cười. Bấy giờ Bồ Tát suy nghĩ rằng: Các chúng sanh nầy trước kia có tham sân si và các phiền não nay cũng có như vậy. Trước kia ta đã khuyên họ phát tâm Bồ Ðề, nay ta đã thành mà các chúng sanh ấy biếng lười nên vẫn ở trong sanh tử khổ não chưa dứt được phiền não. Các chúng sanh nầy xưa cùng ta đồng thời phát tâm Bồ Ðề, nay ta đã thành Vô thượng bồ đề mà các chúng sanh nầy vì biếng lười nên còn ở trong sanh tử khổ não.Các chúng hạ liệt nầy vì lợi dưỡng mà chẳng siêng tu tinh tiến cầu Nhứt thiết trí. Các chúng sanh nầy nay còn cung kính lễ bái cúng dường ta. Thuở ấy ta sanh tâm đại bi nay ta đã mãn sở nguyện. Do duyên cớ nầy mà Bồ Tát cười lớn. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phưong tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà lúc sơ sanh thân thể Bồ Tát sạch sẽ không cấu uế, mà Ðế Thích và Phạm Vương còn tắm rửa Bồ Tát? Vì muốn cho Ðế Thích, Phạm Vương dâng cúng dường và cũng do thế pháp anh nhi sơ sanh phải tắm rửa nên dầu thân sạch sẽ không dơ mà Bồ Tát khiến Thích, Phạm tắm rửa. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành pương tiện .
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà lúc ở chỗ không nhàn, Bồ Tát chẳng liền đến đạo tràng mà trở lại vào cung? Vì bồ Tát muốn các căn đầy đủ nên hiện ở cung điện tự vui ngũ dục rồi sau đó bỏ thiên hạ mà đi xuất gia. Lại muốn khuyến hóa người rời bỏ ngũ dục cạo râu tóc mặc pháp phục xuất gia nên thị hiện trở về cung điện mà chẳng ở chỗ không nhàn liền đến đạo tràng. Ðây gọi là đại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát vừa sanh được bảy ngày, Ma gia Phu Nhơn mạng chung? Ðây là thọ mạng của Phu Nhơn hết chẳng phải lỗi nơi Bồ Tát. Trước kia lúc ở cung Trời Ðâu Suất, Bồ Tát dùng thiên nhãn thấy Ma Gia Phu Nhơn mạng căn mãn mười tháng rồi còn lại bảy ngày, Bồ Tát dùng phương tiện biết Phu Nhơn thọ mạng sắp hết mà đến thọ sanh, chẳng phải lỗi do Bồ Tát. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát học các kỹ nghệ sách luận bắn cung cỡi ngựa hành quân mưu lược? Vì học thế pháp vậy. Trong tam thiên Ðại Thiên thế giới không một sự việc gì mà Bồ Tát chẳng biết. Hoặc kệ hoặc từ biện ứng biện, hoặc chú thuật, hoặc hí tiếu, hoặc ca vũ đánh nhạc, hoặc công xảo, lúc sanh ra Bồ Tát đã biết giỏi tất cả. Ðây gọi là đại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát nạp vương phi thể nữ quyến thuộc? Bồ Tát chẳng vì lý do ái dục. Tại sao? Vì Bồ Tát là ly dục trượng phu. Lúc ấy nếu chẳng thị hiện có vợ con, hoặc có chúng sanh sẽ bảo Bồ Tát chẳng phải nam tử trượng phu, nếu nghi như vậy thì chúng sanh sẽ mắc vô lượng tội. Vì muốn dứt sự nghi ấy nên cưới Thích chủng nữ thị hiện có La Hầu La. Chớ cho rằng La Hầu La là cha mẹ hòa hiệp sanh ra. Chính La Hầu La từ thiên cung mạng chung xuống nhập thai chẳng phải do cha mẹ hòa hiệp. Lại do vì La Hầu La có bổn nguyện làm con trai của nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát. Còn nàng Cù Di thì thuở Phật Nhiên Ðăng lúc trao bảy cành hoa sen cho phạm chí có nguyện rằng: Từ đây về sau, nhẫn đến nhứt sanh bổ xứ, phạm chí nầy sẽ luôn là chồng tôi, tôi là vợ của y. Phạm Chí nhận bảy cành hoa sen ấy rồi nói rằng: Dầu tôi chẳng nhận mà nay sở nguyện của thiện nữ nhơn nầy. Nguyện như vậy rồi chẳng lìa thiện căn bảy hoa sen, vì thế nên Bồ Tát nạp nàng Cù Di làm vợ. Lại nhứt sanh Bồ Tát thành tựu thị hiện ở trên cung điện thể nữ . Lúc ấy Bồ Tát thành tựu diệu sắc chư Thiên cúng dường, thành tựu xuất gia. Thích chủng nữ đều thấy các sư đầy đủ như vậy tâm nàng chuyên nhứt lập nguyện phát Bồ Ðề tâm nguyện tôi có đủ các sự vi diệu như vậy. Vì khiến Cù Di phát tâm nguyện ấy mà Bồ Tát nạp nàng làm vợ. Lại còn có đại tâm chúng sanh cư gia thọ ngũ dục lạc. Vì khiến họ xả ngũ dục xuất gia nên Bồ Tát thị hiện ở cung điện giàu sang thọ ngũ dục lạc rồi bỏ quyến thuộc đi xuất gia. Chúng sanh ấy thấy vậy nghĩ rằng: Bồ Tát thọ ngũ dục tối diệu vô thượng mà còn có thể bỏ được đi xuất gia. Lại nữa, vợ con quyến thuộc ấy vốn đều là lúc Bồ Tát hành đạo dùng thiện pháp hóa độ họ, mà họ cũng từng phát nguyện thường làm quyến thuộc của Bồ Tát nhẫn đến nhứt sanh bổ xứ. Vì muốn tăng ích pháp bạch tịnh cho các người ấy nên Bồ Tát thị hiện cùng họ làm quyến thuộc. Lại nữa vì muốn giáo hóa bốn vạn hai ngàn thế nữ cho họ phát tâm Bồ Ðề và cũng làm cho nhiều kẻ khác chẳng đọa ác đạo mà Bồ Tát thị hiện ở cung điện với quyến thuộc. Lại nữa, tất cả nữ nhơn đều bị lửa dục thiêu đốt, nếu họ thấy Bồ Tát liền lìa dâm dục. Lại nữa, Bồ Tát biến hóa nhiều thân nhan mạo như nhau. Các nữ nhơn kia cùng vui với Hóa Bồ Tát mà đều tưởng là thiệt Bồ Tát. Lúc ấy Bồ Tát thường tại thiền định tu an lạc hạnh. Như Hóa Bồ Tát thọ ngũ dục không có tưởng dục, cũng vậy, thiệt Bồ Tát từ thuở Nhiên Ðăng Phật đến nhứt sanh đã rời lìa dâm dục. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện. Xa Nặc và Kiền Trắc bổn nguyện cũng như vậy.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát ngồi dưới cội cây Diêm Phù Ðề tư duy? Ðó là vì muốn hóa độ bảy ức chư Thiên. Lại cũng muốn cha mẹ biết Bồ Tát tất định cạo bỏ râu tóc pháp phục xuất gia. Lại cũng muốn thị hiện tăng ích trí huệ, bóng cây Diêm Phù Ðề theo che mát là vì muốn cho thiện căn chúng sanh tăng ích . Do những cớ ấy mà Bồ Tát ngồi thiền tư duy dưới cây Diêm Phù Ðề! Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát chẳng thích ngũ dục xuất thành du quán? Vì Bồ Tát muốn thị hiện thấy người già bịnh chết vậy. Vì khiến quyến thuộc biết Bồ Tát do sợ già bịnh chết mà xuất gia học đạo, chẳng phải vì cống cao tổn giảm quyến thuộc mà xuất gia, chính vì muốn lợi ích quyến thuộc mà Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát thấy lỗi họa tại gia nên xuất gia. Nhưng Bồ Tát vì hiển bày khổ già bịnh chết của tất cả chúng sanh nên thị hiện chẳng ưa ngũ dục xuất thành du quán. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà giữa đêm Bồ Tát vượt thành xuất gia? Vì muốn lợi ích thiện căn cho chúng sanh, Bồ Tát tùy ở chỗ nào đều tăng ích thiện căn cho chúng sanh. Cũng vì pháp bạch tịnh nên xả lìa ngũ dục chẳng bảo quyến thuộc mà đi xuất gia, rời lìa những hoan lạc mà chẳng lìa pháp bạch tịnh, vì các lẽ trên đây mà Bồ Tát nửa đêm vượt thành xuất gia. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát dùng giấc ngủ trùm che cung nhơn thể nữ rồi mới đi xuất gia? Vì muốn mọi người đổ lỗi xuất gia cho chư Thiên. Bồ Tát nghĩ rằng:
Sau khi ta đi xuất gia, trong hàng thân thuộc hoặc có ngưòi sanh lòng sân hận, họ sẽ gây tội đọa ác đạo nên muốn họ tưởng do chư Thiên khiến cung nhơn thể nữ ngủ say rồi mở cửa thành dẫn đường bay trên không mà đi, do đây đối với Bồ Tát họ càng sanh lòng kính tin. Vì thế mà Bồ Tát thị hiện dùng giấc ngủ che trùm cung nhơn thể nữ rồi đi xuất gia . Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát sai Xa Nặc dắt bạch mã mang bửu y anh lạc đưa về cung? Vì muốn quyến thuộc biết Bồ Tát chẳng tham tại gia danh y thượng phục và những châu ngọc anh lạc. Bồ Tát cũng muốn người khác học theo bỏ rời những sở hữu mà xuất gia trong Phật pháp trì hạnh tứ thánh chủng, duy chẳng được đi xuất gia nếu cha mẹ chẳng cho phép. Ðây gọi là đại Bồ Tát hành phương tiện.
- Nầy Ðức Tăng! Do duyên cớ gì mà Bồ Tát lấy dao tự cắt tóc? Trong tam thiên Ðại Thiên thế giới không có Thiên, Long, Quỉ Thần, Càn Thát Bà, Nhơn Phi Nhơn nào có thể đương cận oai đức của Bồ Tát huống là có thể kham cắt tóc của Bồ Tát. Lại muốn cho chúng sanh thâm tín rằng vì muốn xuất gia mà Bồ Tát tự cầm dao cắt tóc mình. Lại vì hộ niệm cho Tịnh Phạn Vưong: Vua Tịnh Phạn Vương sanh ác tâm tự thị oai quyền mà truyền rằng ai cạo tóc Thái Tử con trai ta sẽ bị tru lục. Lúc vua nghe tin Thái Tử tự cầm dao cắt tóc mình, ác tâm của vua liền dứt. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện .
- Nầy Ðức Tăng! Ông nên lắng nghe, do duyên cớ gì mà Bồ Tát khổ hạnh sáu năm? Ðây chẳng phải do túc nghiệp dư báo mà Bồ Tát thọ khổ ấy. Vì muốn cho các chúng sanh ở trong tất cả ác nghiệp báo hay sanh lòng lo sợ mà quy hướng Bồ Tát. Lại thuở Phật Ca Diếp, Bồ Tát có thốt lời như vậy: Tôi chẳng muốn thấy đạo nhơn đầu trọc ấy, đâu có người trọc mà có thể được Bồ Ðề, đạo Bồ Ðề thậm thâm khó được. Việc nầy cũng là phương tiện của Bồ Tát nên biết ý nghĩa của nó. Do duyên cớ gì mà Bồ Tát phát lời thô ác ấy?
- Nầy Ðức Tăng! Thuở Phật Ca Diếp xuất thế, Bà La Môn tử tên Thọ Ðề có năm thân hữu đều là con trai của đại Bà La Môn trước đã học đại thừa rồi vì lâu ngày thân cận ác tri thức mà mất tâm Bồ Ðề . Năm người nầy phụng sự ngoại đạo chẳng tin Phật pháp, hiểu ngoại đạo ngữ chẳng hiểu Phật ngữ, hiểu ngoại đạo pháp chẳng hiểu Phật pháp. Ngoại đạo sư, thầy của năm người nầy được năm người phụng sự, tự nói ta là Phật Thế Tôn là Nhứt thiết trí, ta cũng có đạo Bồ Ðề. Lúc ấy Bà La Môn Tử Thọ Ðề muốn dùng phương tiện dẫn dụ năm thân hữu trở lại thành bửu khí chuyển đổi tà tâm ngoại đạo của họ, nên đến nhà ngõa sư nói rằng: Nay tôi muốn thấy đạo nhơn đầu trọc, đâu có người trọc mà có thể được Bồ Ðề, đạo Bồ Ðề thậm thâm khó được. Ít lúc sau, thọ Ðề cùng năm thân hữu cùng ở chỗ vắng, ngõa sư đến hướng Thọ Ðề tán thán Phật Ca Diếp Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, và bảo Thọ Ðề cùng đến chỗ Phật. Thọ Ðề suy nghĩ rằng năm thân hữu nầy thiện căn chưa thục, nếu tôi khen Phật mà chê ngoại đạo sư thì họ sẽ nghi ngờ, vậy chưa nên đến chỗ Phật. Suy nhgĩ rồi Thọ Ðề vì tự hộ bổn nguyện, vì Bát Nhã Ba La Mật báo hành phương tiện nên nói với ngõa sư rằng: Tôi chẳng muốn thấy đạo nhơn đầu trọc ấy, đâu có người trọc mà có thể được Bồ Ðề, đạo Bồ Ðề thậm thâm khó được.
- Nầy Ðức Tăng! Thế nào là Bát Nhã Ba La Mật báo?
Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, không có niệm tưởng Bồ Ðề không có niệm tưởng Phật, bấy giờ chẳng thấy Phật chẳng thấy Bồ Ðề, cũng chẳng ở trong thấy Bồ Ðề cũng chẳng ở ngoài thấy Bồ Ðề, cũng chẳng ở trong ngoài thấy Bồ Ðề như vậy biết rằng Bồ Ðề không, không có pháp. Vì Thọ Ðề biết tất cả pháp không có vì hành phương tiện nên nói: Tôi chẳng muốn thấy đạo nhơn đầu trọc, đâu có người trọc mà có thể được Bồ Ðề, đạo Bồ Ðề thậm thâm khó được.
- Nầy Ðức Tăng! Lúc khác, Thọ Ðề cùng năm người đến bên sông, do thần lực của Phật để hóa độ năm người nên ngõa sư đến hướng Thọ Ðề nói: Ông nên cùng tôi đồng đến chỗ Phật cúng dường lễ bái tôn trọng tán thán, Phật xuất thế rất là khó gặp. Thọ Ðề chẳng chịu đi. Ngõa sư liền nắm tócThọ Ðề kéo đi theo mình thẳng đến chỗ Phật. Năm thân hữu thấy vậy nghĩ rằng: Theo quốc pháp nếu ai bị người nắm tóc kéo mà cáo quan thì người nắm tóc kéo bị tử tội. Nay Ðức Phật ấy có công đức gì mà khiến ngõa sư chẳng kể tử tội nắm tóc Thọ Ðề kéo đến chỗ Phật. Vì suy nghĩ như vậy, nên năm người khuynh tâm đi đến chỗ Phật, đã thấy Phật rồi bổn nguyện liền phát sanh lòng kính tin. Sanh lòng kính tin rồi liền ở trước Phật trách Thọ Ðề: Ðức Thế Tôn đây có oai đức như vậy, trước anh đã nghe sau chẳng có lòng kính tin. Năm người ấy thấy oai Ðức Phật lại nghe thuyết pháp nên trở lại phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Phật Ca Diếp vì họ mà nói Bồ Tát tạng bất thối chuyển luân đà la ni kim cương cú vô sanh pháp nhẫn. Năm người ấy nghe pháp liền được vô sanh pháp nhẫn.
- Nầy Ðức Tăng! Thuở ấy nếu Thọ Ðề tán thán Phật Ca Diếp mà chẳng tán thán ngoại đạo sư thì năm người thân hữu ấy sẽ chẳng chịu đến gặp Phật huống là sanh lòng kính tin.
- Nầy Ðức Tăng! Vì giáo hóa năm người ấy cho họ học Ðại thừa nên Thọ Ðề dùng Bát Nhã Ba La Mật quả báo thật hành phương tiện mà nói rằng: Tôi chẳng muốn thấy đạo nhơn đầu trọc, đâu có người trọc mà có thể được Bồ Ðề, đạo Bồ Ðề rất sâu khó được.
- Nầy Ðức Tăng! Bất thối Bồ Ðề đối với Phật không nghi, đối với Bồ Ðề không nghi, đối với Phật pháp không nghi. Ðây gọi là dại Bồ Tát hành phương tiện.
Lại nữa, Bồ Tát vì giáo hóa năm người và tự hiển thị nghiệp báo do nghiệp chướng nên hiện khổ hạnh sáu năm. Chẳng phải như những chúng sanh khác chẳng thấy chẳng biết dối với Sa Môn Bà La Môn trì giới nói lên lời ác ngôn như vậy. Hoặc biết chẳng biết, hoặc hiểu chẳng hiểu, những chúng sanh ấy mãi mãi thọ khổ chẳng được lợi ích, phải đọa ba ác đạo.Vì những chúng sanh ấy tự hiện tạo nghiệp cũng tự hiện thọ báo nên Ðức Như Lai thị hiện thọ báo ấy.
- Nầy Ðức Tăng! Dại Bồ Tát không có tất cả chướng ngại nghiệp báo. Do vì có chúng sanh chê bai các Sa Môn, Bà La Môn trì giới mà phải ưu não chẳng được giải thoát chẳng đắc đạo quả, muốn trừ lòng ưu não của họ nên Bồ Tát thị hiện thọ nghiệp báo như vậy. Chúng sanh thấy rồi họ sẽ nghĩ rằng: Bực nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát phỉ báng Phật Ca Diếp mà còn được giải thoát đắc quả, huống là ta chẳng biết mà nói ác ngôn, nay ta nên tự hối quá chẳng còn tạo ác nghiệp nữa.
- Nầy Ðức Tăng! Lại vì hàng phục ngoại đạo mà Bồ Tát khổ hạnh sáu năm chớ chẳng phải nghiệp báo chướng ngại. Tại sao? Vì ở thế gian có các Sa Môn, Bà La Môn mỗi ngày họ ăn một hột mè một hột gạo, họ tự cho được thanh tịnh giải thoát. Vì điều phục họ mà Bồ Tát thị hiện mỗi ngày ăn một hột mè một hột gạo. Nếu Bồ Tát ăn vật thực thô rit còn chẳng thể được thánh đạo huống là thanh tịnh giải thoát. Vì thế nên Bồ Tát nói tôi chẳng muốn thấy đạo nhơn đầu trọc, đâu có người trọc mà có thể được Bồ Ðề, đạo Bồ Ðề rất sâu khó được. Do duyên cớ nầy mà Bồ Tát hiện sáu năm khổ hạnh để điều phục năm mươi hai trăm ngàn thô hạnh chư Thiên và ngoại đạo thần tiên các thô hạnh Bồ Tát. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát hành phương tiện.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 120 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Phật pháp ứng dụng


An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự tham dục


Thắp ngọn đuốc hồng


Quy Sơn cảnh sách văn

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.131.94.5 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập