Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 22 »»

Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 22


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.45 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.53 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Đại Bửu Tích

Kinh này có 120 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 |
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Ðức Phật phán tiếp:" Nầy Vô Biên Huệ! Ta nhớ thuở xưa lúc ta tu Bồ Tát hạnh, ta mặc giáp trụ như vậy và ngồi Ðại thừa như vậy, vượt quá các tế, diệt được tối tăm, trừ được bố úy, ở nơi chỗ vô lượng trăm ngàn câu chi na do tha chư Phật, dùng sức đại tinh tiến nghe giáp trụ trang nghiêm và Ðại thừa trang nghiêm nầy của đại Bồ Tát, ta vui mừng hớn hở. Lúc ta quan sát pháp ấy, đối với đức Phật Thế Tôn ta cung kính tôn trọng, chẳng nghĩ tưởng rằng ta mặc giáp trụ như vậy, ta có giáp trụ như vậy, ta được pháp như vậy, ta có pháp như vậy, ta có các loại pháp như vậy. Lúc ấy ta không có quan niệm có ngã, ta rời xa thân kiến, rời xa ngã mạn, lòng không có cao hạ, không có phân biệt. Vì muốn nhiếp thọ tất cả chúng sanh, hộ trì pháp tạng của chư Phật Như Lai, thành thực vô lượng trăm ngàn câu chi na do tha chúng sanh, ta không hề có một tâm niệm mỏi nhọc. Lúc ấy ta chẳng bỏ giáp trụ, ngồi vô biên thừa. Trong nhiều đời ta có thể phá quân ma. Các quyến thuộc ma đều thối bại tiêu diệt. Các sứ giả ma kinh sợ bỏ chạy. Tất cả hàng ngoại đạo và những phái tương ưng với dị đạo đều bị ta hàng phục, đặt họ vào chỗ an ổ. Tất cả dị luận ta đều dẹp trừ. Tất cả ngoại đạo đều hàng phục ta. Những chúng sanh xu hướng đường tà, ta làm cho họ ở nơi thừa nầy trồng các cội lành. Ta vì các chúng sanh mà khai thị giáp trụ và giáp trụ trang nghiêm. Ta cũng vì các chúng sanh mà diễn thuyết các loại pháp Ðại thừa an lạc như vậy. An trụ trong thừa nầy thì được tất cả đồ dùng an vui, đó là đồ dùng an vui hữu vi: Chuyển Luân Vương, Ðế Thích và Phạm Vương. Cũng được đồ dùng an vui vô vi.
Lúc ta vì các chúng sanh nói pháp nầy, ta làm cho các chúng sanh vào trong pháp ấy phát sanh chủng tánh chư thánh, dựng tràng đại pháp, rống tiếng sư tử mà hướng đến Vô thượng Bồ đề.
Nầy vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát phải mặc đại giáp trụ như vậy rồi đúng như lý mà quan sát tuyển trạch.
Ðại Bồ Tát phải ở nơi pháp nào để hướng đến? Ðối với tất cả pháp, đại Bồ Tát có thể thấy biết rõ hết không có phân biệt. Tại sao vậy?Chư đại Bồ Tát an trụ chánh đạo vì biết đúng lý vậy. Chư đại Bồ Tát hướng đến chánh đạo, vì thấy đúng lý vậy. Thanh tịnh đúng lý thì chẳng phân biệt chẳng phải chẳng phân biệt, mà ở trong phân biệt và chẳng phân biệt thấy biết bình đẳng. Nếu còn thấy có pháp cầu được tìm được thì chẳng bình đẳng, thì chẳng an trụ trong sự thấy biết thanh tịnh đúng lý. Do vì không phân biệt không chẳng phân biệt nên ở trong phân biệt chẳng phân biệt kia được chẳng chấp thủ. Do vì chẳng chấp thủ nên rời xa phân biệt và chẳng phân biệt.
Ở trong đạo nầy không có thương xót, không có thi vi, không có tăng ích, cũng không thủ xả, đứng nơi đạo bình chánh, cũng chẳng phân biệt quá khứ hiện tại vị lai, có thể biết rõ khắp tập chủng của tất cả phân biệt, đối với tất cả pháp được an trụ bình đẳng, không có nghĩa điên đảo mới được gọi là an trụ ở đạo nầy vậy.
Nầy Vô Biên Huệ! Những gì là đạo và đạo thanh tịnh?
Ðó là tám chi thánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh niệm và chánh định.
Chánh kiến dứt trừ được thân kiến, vượt quá cảnh sở hành của tất cả kiến chấp và tất cả các kiến chấp, đối với tất cả chỗ đều được thanh tịnh, mà biết rõ được tất cả phân biệt, hoặc là thắng phân biệt hoặc là khắp phân biệt thì là không phân biệt không thắng phân biệt không khắp phân biệt, chẳng an trụ tà tư, dứt tà tư duy. Thấy được chánh mạng, thấy được tưởng chánh mạng, thấy được mạng thanh tịnh, an trụ mạng thanh tịnh, đúng như lý thấy đơực thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh và ý nghiệp thanh tịnh an trụ nơi chánh nghiê(p.
Chánh kiến ngữ nghiệp, đối với ngữ nghiệp đều có thể thấy biết, an trụ nơi chánh ngữ có thể đối trị thanh tịnh.
Chánh kiến tinh tiến, khéo nhiếp tinh kiến, an trụ chánh tinh tiến.
Chánh kiến ức niệm mà không có niệm cũng không có tác ý không chỗ chấp thủ, dùng niệm thanh tịnh an trụ nơi chánh niệm.
Chánh kiến tam muội, ở trong tam muội không chỗ y chỉ mà có thể thanh tịnh tri kiến tam muội an trụ ở chánh định.
Nầy Vô Biên Huệ! Lúc thấy như vậy, chư đại Bồ Tát được chánh kiến thanh tịnh đối với tất cả chỗ và an trụ nơi đạo thanh tịnh.
Ðạo thanh tịnh ấy là chỗ tu hành của thiện trượng phu, là chỗ mà trí giả tôn trọng, chúng Thánh hài lòng, chư Phật khen ngợi. Chẳng phải là chỗ đi của tất cả ma, ma dân, ma sứ, ma thiên. Cũng chẳng phải là chỗ đi cuả những hàng ngoại đạo, những người y chỉ tranh luận đang đi trong rừng rậm kiến chấp hướng đến phi đạo. Cũng chẳng phải chỗ đi của tất cả hàng ái trước Niết Bàn. Tại sao vậy?Vì người an trụ vô vi thì đối với Niết Bàn có chỗ phân biệt. Nếu phân biệt Niết Bàn thì phân biệt các hành pháp. Tại sao vậy? Vì ở trong Niết Bàn giới vượt quá tất cả động niệm phân biệt, còn không có vô vi huống là có hữu vi.
Ðạo nầy có thể sạch hết tất cả phân biệt, còn không có chút vô vi phân biệt há lại có tất cả hữu vi phân biệt. Nếu ở nơi Thánh đạo mà có phân biệt thì chẳng gọi là an trụ nơi Thánh đạo. Nếu dứt tất cả động niệm phân biệt thì gọi là an trụ Thánh đạo, là an trụ đạo vô úy, là an trụ đạo an ổn, là an trụ đạo an lạc.
Ðạo nầy có thể đến chỗ không gìa bịnh chết lo khổ. Ðạo nầy có thể đến chỗ không có tự tánh vượt quá các tánh. Ðạo nầy có thể đến chỗ rời xa tất cả tánh và phi tánh. Ðạo nầy có thể đến chỗ không hiện bày tướng sắc và tướng phi sắc. Ðạo nầy như hư không khắp tất cả chỗ có thể đến trong đại cung điện vô thượng. Ði như thế không còn lui trở lại thì được bao nhiêu là an ổn khoái lạc.
Ðại cung điện ấy chẵng hiện bày được, không có các sự tướng, không có chút hữuvi, không có chút vô vi, đã diệt hữu vi, đã bỏ vô vi, chẳng cho chúng sanh sự an trụ sự an lạc hữu vi, an lạc vô vi
Nầy Vô Biên Huệ! Những người ưa thích hữu vi Niết Bàn, họ còn chẳng cầu sự an lạc hữu vi huống là có thể cầu đại cung điện ấy.
Trong đại cung điện ấy không có thi thiết, mát mẻ tịch tịnh nên gọi là Niết Bàn. Vì diệt tham, sân, si, dứt các tập chủng, phá lưới ái kiến, cạn dòng vô minh, nhổ những tên độc, hết pháp bất thiện nên gọi là Niết Bàn. Vì rời xa tất cả kiêu mạn tật bịnh khổ sở bức não nên gọi là Niết Bàn. Vì chẳng phải chỗ sở hành của tâm ý thức và tâm sở nên gọi là Niết Bàn. Vì dứt hết các tranh luận, các kiết sử nhẫn đến pháp tưởng nên gọi là Niết Bàn. Vì tuyệt các ý ưa thích, và chỗ sở cầu của ý ưa thích cũng không có phân biệt và tường bị phân biệt nên cũng gọi là Niết Bàn.
Nầy Vô Biên Huệ! Ðó là thể tánh của Ðại Bát Niết Bàn.
Niết Bàn vô biên chẳng thể tuyên nói được. Nếu có chỗ hướng đến thì chẳng phải đạo nầy. Ðạo cũng là không có ngôn thuyết, chẳng thể tuyên nói được.
Nếu lúc dùng đạo nầy hướng đến đại Niết Bàn đại cung điện, chư đại Bồ Tát cũng làm cho vô lượng bá thiên chúng sanh an trụ nơi đạo nầy.
Nầ Vô Biên Huệ! Lúc ở trong đạo nầy mà hướng đến, chư đại Bồ Tát không có mệt mỏi, cũng không có lo buồn, tùy nguyện mà cầu, tùy nguyện mà trang nghiêm, tùy chỗ trang nghiêm đều trang nghiêm cả, tùy chúng sanh được nhiếp độ mà thuyết pháp cho họ, khiến các chúng sanh đều được hoan hỉ.
Tại sao vậy? Vì đạo nầy không gì bằng, hay đói trị sạch, chỗ là đã rốt ráo. Chư Phật Thế Tôn cùng hàng Thanh Văn và Duyên Giác đều ở nơi đạo nầy mà hướng đến, chẳng hề trái với đạo nầy. Chưa đến địa kia, chưa đúng như sở nguyện thì trọn chẳng rời lìa đạo nầy.
Ðịa kia là gì?Là đại Niết Bàn địa, là đại cung điện địa.
Ví như hư không chẳng có gì để ví dụ ngoại trừ đem hư không để ví dụ hư không. Rộng lớn trống rỗng vắng lặng gọi là hư không.
Niết Bàn cung điện cũng như vậy, là rộng lớn rỗng không vắng lặng không có chủ tể cũng không có ngã sở. Tất cả chúng sanh dầu vào trong ấy không ai có thể nhiếp lấy chừng bằng đầu lông. Là rộng lớn không tịch, là rộng lớn vô lượng gọi là đại Niết Bàn, gọi là đại cung điê(n.
Nầy Vô Biên Huệ! Ða§y là đạo thù thắng của chư đại Bồ Tát, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác có đưọc.
Lúc an trụ nơi đạo nầy, chư đại Bồ Tát hoặc làm Luân Vương không chút đoái tiếc, có oai đức lớn và thần thông biến hiện, biết rõ được thế gian và xuất thế gian.
Các Ngài hoặc làm Ðế Thích hay Ðại Phạm Thiên Vương không hề tham luyến, xa rời kiêu mạn, thìch thấy chư Phật, thích nghe chánh pháp, thành thục vô lượng trăm ngàn chư Thiên hướng đến Vô thượng Bồ Ðề".
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
" Ðạo Bồ Tát thù thắng
Trong đời không có trên
Chư Thánh và Nhị thừa
Ðều hướng đến đạo nầy
Tất cả chư Bồ Tát
Hướng đến đại Bồ Ðề
Vì được đạo trang nghiêm
Ðem đạo nầy khai thị
Nếu ở trong đạo nầy
Ðã đến hay đang đến
Họ đều dùng chánh kiến
An trụ ở đạo nầy
Tất cả chư Bồ Tát
Nếu dùng bình đẳng kiến
Ma đi trong đạo nầy
Thì an lạc hướng đến
Ðạo nầy rất thù thắng
Ðạo nầy là vô thường
Hay dạy bảo như thiệt
Trong ấy không chấp trước
Nếu trụ ở đạo nầy
Ði ở trong đạo nầy
Tất cả người có trí
Ý họ chẳng khuynh động
Chẳng nói nơi đạo nầy
Có chút ít khuynh động
Thường rời xa lay động
Ta nói nơi đạo nầy
Không động không thi vi
Cũng không có tăng ích
Nên đạo nầy vô thượng
Tất cả chư Bồ Tát
Khéo ở nơi đạo nầy
Ðạo nầy không có yêu
Lại cũng không có ghét
Ðạo chẳng phải quá khứ
Chẳng hiện tại vị lai
Chẳng phân biệt thời gian
Nên tu tập như vậy
Ðạo nầy không phiền não
Ðạo nầy không phân biệt
Chẳng trái với thiệt nghĩa
Nên an trụ như vậy
Trụ nơi đạo tối thắng
Không trụ là an trụ
Người an trụ đạo nầy
Hay được tánh thanh tịnh
Ta nói bát chi đạo
Chỗ đi của chư Thánh
Người an trụ đạo nầy
Bồ Ðề chẳng khó được
Chỗ Bồ Tát dựa nhờ
An trụ đạo như vậy
Hay được đạo thanh tịnh
Mỗi mỗi mà hướng đến
Ðạo nầy là tối thượng
Của thiện sĩ tu hành
Chỗ Như Lai khen ngợi
Trí nầy là vô thượng
Ma và chúng quân ma
Cùng quyến thuộc của ma
Ngoại đạo chúng sanh khác
Chẳng phải chỗ họ đi
Người phân biệt Niết Bàn
Chẳng ở thắng đạo nầy
Ngu bị phân biệt hại
Chẳng biết được Niết Bàn
Người vượt quá phân biệt
Không tưởng không phân biệt
Ở trong đại đạo nầy
Do đây mà hướng đến
Thắng đạo của chư Thánh
Người ngu đều rời xa
Nếu người hành pháp nầy
Ðạo nầy là vô thượng
Ðại đạo thối thắng nầy
Hay đến chỗ vô thượng
Trong ấy không ưu não
Không sợ không tai nạn
Ðạo đạo vô thượng nầy
Không sắc không hình tướng
Chẳng thể dùng sắc tướng
Mà có thể hiện bày
Ðạo đạo an ổn nầy
Chánh trực vô sở úy
Do đạo nầy hướng đến
Ðại Niết Bàn rốt ráo
Ðại đạo thanh tịnh nầy
Dường như thái hư không
Tất cả không chướng ngại
Hướng đến đại Niết Bàn
Nếu đến được Niết Bàn
Ðến rồi không còn lui
Ðại Niết Bàn như đây
Tối thượng thắng an lạc
Niết Bàn đại cung điện
Không tịch chẳng lường được
Nên gọi đại Niết Bàn
Cũng gọi đại cung điện
Trong đại Niết Bàn nầy
Diệt tam độc phiền não
Nếu ai đến trong ấy
Không lui không thọ sanh
Niết Bàn đại không tịch
Dường như thái hư không
Vì rộng lớn không tịch
Trong đó kjhông chướng ngại
Niết Bàn đại cung điện
Liàa hẳn khổ ưu não
Chỗ cảnh giới vô biên
Gọi đó là Niết Bàn
Niết Bàn không số luợng
Số lượng chẳng thể được
Tánh trong mát tịch diệt
Gọi đó là Niết Bàn
Niết Bàn không thi thiết
Ðạo về cũng vô thuợng
Vô lượng vô phân biệt
Phân biệt chẳng thể được
Ta vì chư Bồ Tát
Khai thị đại đạo nầy
Nếu ai ở đạo nầy
Thì gần đến Niết Bàn
Nếu an trụ đạo nầy
Thắng an lạc trong đời
Tất cả đều sẽ được
Gọi là bực vô úy
Khéo an trụ đạo nầy
Lòng họ không ô nhiễm
Do đạo nầy thanh tịnh
Gọi là bực vô úy
Vì thấy đạo bình chánh
Hay giác ngộ tất cả
Trong tất cả tư cụ
Chẳng tham trước tất cả
Chỗ Bồ Tát dựa nhờ
Ðạo chơn thiệt thù thắng
Lợi ích các chúng sanh
Dũng mãnh mà hướng đến
Nếu được đạo vô thượng
Ðạo trang nghiêm tối thượng
Khiến chúng đều hoan hỉ
Do đạo nầy hướng đến
Ðạo nầy rất thù thắng
Hay khiến ý thanh tịnh
Tùy theo chỗ ưa cầu
Tất cả sẽ hướng đến
Nếu được ngôi Thánh Vương
Chuyễn luân oai đúc lớn
Hay bỏ ngôi vua lớn
Xuất gia đi học đạo
Nếu được ngôi Ðế Thích
Ngôi Ðại Phạm Thiên Vương
Không ham những ngôi ấy
Người nầy khéo thuận đạo
Các chỗ học th61 gian
Hay biết rõ tất cả
An trụ trong đạo nầy
Mới là người thiệt ngữ".
Ðức Phật phán tiếp:" Nầy Vô Biên Huệ! Lúc ở trong đạo nầy mà hướng đến, đại Bồ Tát vì muốn nhiếp thủ bát chánh đạo nên tu hành một pháp, đó là chẳng làm các bất thiện. Lại tu hành hai pháp, một là nơi trong theo pháp lành tư duy đúng lý, hai là nơi ngoài theo pháp lành thỉnh hỏi đúng lý. Lại tu hành hai pháp, một là biết rõ các pháp đúng sự, hai là biết rõ không có sự, không có trụ, không có phân biệt. Laị tu hành hai pháp, một ở trong tùy thuận trí huệ, hai là ở ngoài không chỗ chấp trứơc. Laị tu hành hai pháp, một là tự tin không chỗ phân biệt, hai là nếu chúng sanh chưa có lòng tin thì tôi làm cho họ an trụ trong đạo nầy. Lại tu hành hai pháp, một là ở nơi việc đã làm có thể thấy biết như thiệt, hai là ở nơi việc được làm không cháp trước. Lại tu hành ba pháp, một là nơi khổ thủ uẩn biết rõ từng uẩn một, hai là nơi thủ uẩn không khổ thì siêng cầu và rất thích, ba là ở nơi các pháp hòa hiệp thì chuyên tu rời xa. Lại tu hành ba pháp, một là tuyên nói pháp tối thượng, lời chẳng sai trái, tùy nói pháp nghĩa lòng không có niệm tranh luận, hai là chẳng chấp trước tất cả văn tự, ba là nhiếp lấy tất cả các pháp. Lại tu hành bốn pháp, một là dùng chánh phương tiện ở nơi nghĩa, hai là dùng chánh phương tiện tùy theo nghĩa mà làm tương ưng, ba là dùng chánh phương tiện thuận theo pháp để quan sát, bốn là dùng chánh phương tiện chẳng khởi tất cả chấp trước. Lại tu hành bốn pháp, một là có thể dùng thệ nguyện kiên cố để tự giữ gìn tu hành đúng như lời, hai là có thể dùng sáu căn khôn khéo hướng đến nơi đạo, ba là có thể làm cho ý lạc thanh tịnh, bốn là có thể an trụ hạnh chẳng phóng dật. Vì nhiếp thủ bát chánh đạo mà chư đại Bồ Tát tu hành những pháp như vậy.
Nầy Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát dùng pháp hành nầy để nhiếp thủ chánh đạo mới được gọi là người tùy thuận đạo, vì quán tất cả pháp tánh rỗng không, vì không tên, vì không tướng, vì không nguyện, vì không sanh, vì không tác, vì nàm chán, vì rời lià, vì tịch diệt, vì xuất ly. Lúc được ánh sáng pháp quán sát sanh được đứt hết thì chẳng ở nơi vô sanh mà khởi cảm tưởng sanh, liền ở lúc ấy siêu thăng ly sanh ra khỏi phi pháp mà được đạo thanh tịnh và vô sanh nhẫn. Vì đạo thanh tịnh nên vượt quá tất cả tưởng niệm, chẳng còn có phi tưởng, diệt đạo tưởng, rời pháp tưởng, ra khỏi lưới vô minh, dùng minh để tu tập. Những pháp đáng được đều có thể được cả.
Dùng minh để tu tập thì được những pháp gì?Dùng minh tu tập thì được thọ tưởng diệt, được tất cả pháp quyết định thiện xảo, được tùy bí mật thuận với pháp tánh.
Lúc hành đạo nầy, chư đại Bồ Tát chẳng trụ ở xứ, chẳng bị tướng làm hại, biết tất cả pháp đồng với hư không, sanh như hư không sanh, tánh như tánh hư không, không có chút tướng làm chướng ngại.
Ðạo nầy thanh tịnh chẳng sợ tai hoạ.
Mặc đại giáp trụ chẳng bị bắt trói.
Ngồi nơi Ðại thừa không chỗ mê lầm.
Rời các chướng nạn dường như hư không.
Ở trong đạo nầy, đại Bồ Tát hướng đến Vô thượng Bồ Ðề, vì các chúng sanh mà làm ánh sáng lớn.
Nầy Vô Biên Huệ! Ðây là đạo thù thắng của đại Bồ Tát, chẳng phải chỗ sở hành của hàng Thanh Văn và Duyên Giác".
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Vì nhiếp bát chánh đạo
Diễn nói các pháp hành
Nếu trụ trong đạo nầy
Ðây là đại tinh tiến
Người tu hành pháp lành
Ðược tất cả thời gian
Chẳng làm pháp bất thiện
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người tu tập
Trong thì suy đúng lý
Ngoài thì cầu thỉnh hỏi
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người quan sát
Như sự chánh liễu tri
Như lý trụ đúng pháp
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người dựa nhờ
Ở trong thì biết rõ
Ở ngoài thì chẳng chấp
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người vô úy
Tự tin không phân biệt
Khiến người phát lòng tin
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người tư duy
Sạch các nghiệp đã làm
Với nghiệp không chỗ chấp
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người không trói
Thường biết khổ thủ uẩn
Cầu thủ uẩn không khổ
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người thiện trí
Tu hạnh rời hòa hiệp
Rời được các hòa hiệp
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người tư nghị
Tùy nghĩa hay biết rõ
Diễn thuyết không trái cãi
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người đủ huệ
Chẳng chấp ở văn tự
Nhiếp trì tất cả pháp
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người hành pháp
Hay tương ưng với pháp
Cũng tương ưng với nghĩa
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người thuận đạo
Thị kiên cố giữ vững
Tu hành đúng như lời
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát đạo thanh tịnh
Khéo sạch các ý lạc
Trụ pháp chẳng phóng dật
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát tất cả thời
Siêng tu các hạnh ấy
Thân tâm được an lạc
Hạnh ấy nhiếp nơi đạo
Bồ Tát người chánh niệm
Trụ ở đạo thanh tịnh
Biết rõ tất cả pháp
Rỗng không chẳng có tướng
Bồ Tát người quan sát
Hay khiến nguyện thanh tịnh
Cũng chẳng trụ vô nguyện
Rời xa tất cả tướng
Bồ Tát quán đúng lý
Lý thú đều bình đẳng
Với các pháp vô sanh
Không có chút nghi hoặc
Bồ Tát người diệu trí
Hay quán sát các pháp
Nhàm lìa và tịch diệt
Thấy rõ mà hướng đến
Bồ Tát người quan sát
Như lý thấy pháp sanh
Chẳng ở sanh thấy sanh
Chẳng ở diệt thấy diệt
Bồ Tát người tinh tiến
Lúc quán sát như vậy
Do rời nơi phi pháp
Siêu thăng trong chánh vị
Bồ Tát người diệu trí
Ðạo nầy là thanh tịnh
Mau đến an ổn lớn
Thành tựu nhẫn vô thượng
Bồ Tát người diệu trí
Tùy thuận quán các pháp
Vượt quá tất cả tưởng
Thường trụ ở vô tưởng
Bồ Tát người diệu trí
Ðạo nầy hay trị sạch
Rời xa cảm tưởng đạo
Cũng chẵng trụ pháp tưởng
Bồ Tát người diệu trí
Vì đạo này trị sạch
Ra khỏi lưới vô minh
Mà được ánh sáng pháp
Bồ tát người diệu trí
Hay tu tập nơi minh
Truyền dạy các chúng sanh
Do đây mà hướng đến
Bồ Tát người tu minh
Vì được tất cả pháp
Quyết định nghĩa thậm thâm
Ðại phương tiện thiện xảo
Bồ Tát người tu minh
Phương tiện rời các tưởng
Tùy thuận pháp bí mật
Hay biết nghĩa quyết định
Bồ Tát người diệu trí
Dùng ánh sáng pháp lớn
Diệt được các thọ tưởng
Do đây mà hướng đến
Bồ Tát người diệu trí
Chẳng trụ ở đạo ấy
Vì chẳng trụ đạo ấy
Nơi đạo mà hướng đến
Bồ Tát người vô úy
Hay biết tất cả pháp
Dường như tịnh hư không
Không bị tướng chi phối
Bồ Tát biết các pháp
Tánh nó đồng hư không
Vì các pháp như không
Thanh tịnh mà không nhơ
Bồ Tát trụ như vậy
Chẳng bị tướng làm ngại
Mau vì các chúng sanh
Diễn thuyết để truyền dạy
Bồ Tát người diệu trí
Tất cả đạo thanh tịnh
Nơi đạo không tai hoạn
Vô ngại mà hướng đến
Ðạo thanh tịnh như vậy
Chóng đến đại Bồ Ðề
Có thể chứng vô vi
Bình đẳng mà hướng đến
Bồ Tát đại giáp trụ
Ðại thừa vì đại đạo
Như hư không vô ngại
Thanh tịnh mà hướng đến
Ðến thừa nầy đạo nầy
Như đến thái hư không
Rời xa tất cả tướng
Vô tướng mà hướng đến
Ðại thừa bình đẳng thừa
Rộng lớn dường hư không
Nơi đạo thanh tịnh này
Thừa ấy sẽ hướng đến
Tất cả các Bồ Tát
Tôn trọng nơi pháp nầy
Vì tất cả chúng sanh
Dũng mãnh mà hướng đến
Nếu đến đại Bồ Ðề
Trụ đạo thù thắng nầy
Chẳng phải hàng Nhị thừa
Ở đây hướng đến được
Bồ Tát chánh ức niệm
Hay khiến đạo thanh tịnh
Dùng đạo thanh tịnh nầy
Mà hướng đến vô thượng".
Ðức Phật phán tiếp:"Nầy Vô Biên Huệ! Lúc hướng đến như vậy, chư đại Bồ Tát hay dùng phương tiện khéo để chánh liễu tri vô lượng niệm xứ, chánh cần, căn, lực, giác chi giải thoát, đẳng trì đẳng chí, thần túc chỉ quán, vô lượng công đức thù thắng trang nghiêm.
Vì muốn hàng phục các thế gian nên đại Bồ Tát mặc giáp trụ. Vì siêu xuất tam giới nên đại Bồ Tát ngồi nơi Ðại thừa. Vì nhiếp thọ Trời, Người, A Tu La nên đại Bồ Tát an trụ đạo ấy mà hướng đến Vô thượng Bồ Ðề.
Nầy Vô Biên Huệ! Lúc chư đại Bồ Tát mặc đại giáp trụ, ngồi nơi Ðại thừa, an trụ nơi đạo ấy nếu chẳng dùng từ bi hỉ xả soi khắp chúng sanh, chẳng yêu chúng sanh như mình, thì giáp trụ Ðại thừa đại đạo ấy cả đại địa chẳng kham chịu được, tất cả chúng sanh thân cận được.
Nếu đại Bồ Tát dùng từ bi lợi ích chúng sanh mà mặc đại giáp trụ ngồi Ðại thừa an trụ đạo ấy, thì giáp trụ Ðại thừa đại đạo ấy, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La chẳng thể làm được. Tất cả hàng ngu phu tham luyến thế gian ở mãi thế gian cũng chẳng thấy được.
Vì thương xót tất cả chúng sanh mà chư đại Bồ Tát mặc đại giáp trụ, có thể dùng giáp trụ gia trì địa giới và thủy hỏa phong giới, làm cho địa giới nầy chẳng nghiêm úp, tất cả chúng sanh khỏi kinh sợ, lại có thể làm cho thủy giới hỏa giới và phong giới tùy theo chỗ thích ứng mà phát khời hiệu năng.
Chư đại Bồ Tát từ lúc sơ tâm hướng đến giáp trụ tới nay mặc đại giáp trụ ấy ngồi Ðại thừa ấy dùng đạo thanh tịnh mà hướng đến nhứt sanh bổ xứ.
Lúc đại Bồ Tát đến cội Bồ Ðề ngồi đạo tràng, trong cõi Ðại Thiên nầy, chỗ đạo tràng kiên cố do kim cương làm thành, nếu chẳng gia trì thì tất sẽ rúng động nghiêng úp. Dầu là làm thành bằng kim cương kiên cố nhưng không kham chịu đựng được đại giáp trụ Ðại thừa đại đạo ấy.
Thuở xưa, vì chư đại Bồ Tát thệ nguyện khởi tâm từ bi đối với chúng sanh, vì mười phương chư Phật chư đại Bồ Tát đồng khen ngợi, nên dầu là núi Kim Cương, núi Tu Di, các bửu sơn cùng các núi lớn nhất, nếu chẳng gia trì, thì đều cũng chẳng kham chịu đựng được đại giáp trụ Ðại thừa đại đạo ấy.
Lại vì bổn nguyện lực của chư đại Bồ Tát, bổn nguyện lực của chư Phật, đối với tất cả chúng sanh chẳng làm não, chẳng làm hại, chẳng làm tổn, chẳng làm oán, chẳng làm thù, chẳng lấn hiếp, chẳng bức ngặt, vì muốn cho chúng sanh được an lạc, nên mặc đại giáo trụ ngồi Ðại thưà an trụ trong đạo ấy mà hướng đến Vô thượng Bồ đề.
Nầy Vô Biên Huệ! Lúc mặc giáp trụ, chư đại Bồ Tát mặc giáp trụ trí huệ, cầm dao gậy trí huệ, hồi hướng đại trí huệ, ngồi hồi hướng thừa, hướng ánh sáng trí huệ, an trụ đạo quang minh, dùng con mắt trí huệ sáng suốt quan sát các pháp mà hướng đến nhứt thiết chủng trí. Vì muốn nhiếp thủ nhứt thiết chủng trí, vì tất cả chúng sanh mà tu hành Bát Nhã Ba la mật, Bố thí Ba la mật, Trì giới Ba la mật, Nhẫn nhục Ba la mật, Tinh tiến Ba la mật và Thiền Ba la mật.
Tất cả đều dùng huệ làm tiên đạo, dùng huệ làm tu tập, dùng huệ làm nhiếp trì, mà hồi hướng Vô thượng Bồ đề".
Ngài Vô Biên Huệ bạch rằng: " Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát có bao nhiêu là trí huệ đều có thể nhiếp trì khắp tất cả chỗ thành tựu vô lượng chư Phật pháp".
Ðức Phật phán:" Ðúng như vậy. Nầy Vô Biên Huệ! Ðúng như lời ông vừa nói. Chư đại Bồ Tát có bao nhiêu là trí huệ khắp tất cả chỗ nhiếp tất cả pháp, mặc đại giáp trụ ngồi Ðại thừa an trụ đại đạo ấy, mỗi mỗi đều dùng huệ làm tiên đạo mà hướng đến.
Nầy Vô Biên Huệ! Dầu có trí huẽ mà không dùng huệ làm tiên đạo thì ở trong đạo ấy chẳng thể hướng đến được. Nếu có trí huệ dùng huệ làm tiên đạo, khắp tất cả chỗ tùy đi tùy làm, dùng huệ để nhiếp trì, dùng huệ để phòng ngự, mới được gọi là mặc đại giáp trụ ngồi ở Ðại thừa an trụ đại đạo ấy, dùng pháp an ổn làm lợi ích cho thế gian, có thể khai huệ nhãn, dùng huệ nhãn quan sát, huệ thân chiếu sáng phóng ánh sáng lớn mà hướng đến Vô thượng Bồ Ðề.
Nầy Vô Biên Huệ! Ðó là chư đại Bồ Tát mặc giáp trụ thì giáp trụ trang nghiêm, ngồi Ðại thừa thì Ðại thừa trang nghiêm, thật hành đại đạo thì đại đạo trang nghiêm mà hướng đến Vô thượng Bồ đề.
Nầy Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát giáp trụ trang nghiêm, Ðại thừa trang nghiêm và đại đạo trang nghiêm, tất cả công đức nhiều thứ trang nghiêm, nếu ta nói cho đủ, dầu đến vô lượng kiếp cũng nói không hết được.
Nay vì làm cho các ông được biết rõ, cũng vì chư Bồ Tát vị lai, giáp trụ trang nghiêm, Ðại thừa trang nghiêm, đại đạo trang nghiêm, vô lượng công đức tư lương trang nghiêm, mà ta lược nói một phần ít.
Chư Bồ Tát ấy nếu nghe pháp của ta cũng nên mặc đại giáp trụ, ngời ở Ðại thừa, an trụ đại đạo ấy, dùng công đức trang nghiêm mà hướng đến Vô thượng Bồ đề".
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Ta nói tứ chánh cần
Cũng nói tứ niệm trụ
Tất cả thiện phương tiện
Do nơi chẳng phóng dật
Ðầy đủ chánh ức niệm
Khéo tương ưng với pháp
Dũng tiến để xuất ly
Do nơi chẳng phóng dật
Căn, lực, Bồ đề phần
Mặc giáp ngồi Ðại thừa
Dùng đây làm thị vệ
Bồ Tát sẽ hướng đến
Thiền định chánh giải thóat
Ðẳng trì và đẳng chí
Dùng dây làm thị vệ
Bồ Tát sẽ hướng đến
Ðại từ bi hỉ xả
Mặc giáp ngồi Ðại thừa
Dùng dây làm thị vệ
Bồ Tát sẽ hướng đến
Thành tựu các chỉ quán
Thần túc và thần biến
Dùng dây làm thị vệ
Bồ Tát sẽ hướng đến
Vô lượng các công đức
Mặc giáp ngồi Ðại thừa
Nơi đạo không mỏi nhọc
Bồ Tát sẽ hướng đến
Tinh tiến chẳng phóng dật
Mặc giáp ngòi Ðại thừa
Biết rõ các niệm xứ
Bồ Tát sẽ hướng đến
Ánh sáng đại giáp trụ
Hàng phục các thế gian
Mặc giáp trụ nầy rồi
Mới gọi là trí giả
Hướng đến nhứt thiết trí
Ra khỏi hẳn tam giới
Ngồi Ðại thừa nầy rồi
Mới gọi là trí giả
Ðại đạo thanh tịnh đạo
Chói che các thế gian
Trời, Người, A Tu La
Mới gọi là rtí giả
Chư Bồ Tát như vậy
Khắp vì các chúng sanh
Trong tất cả thời gian
Tinh tiến mặc giáp trụ
Bồ Tát chẳng tu tập
Ðại từ và đại bi
Ðại hỉ và đại xả
Ðại địa chẳng chịu nổi
Bồ Tát chẳng to tập
Sự lợi ích đúng lúc
Cho các chúng sanh kia
Ðại địa chẳng chịu nổi
Bồ Tát chẳng tu tập
Thương yêu các chúng sanh
Như thương yêu chính mình
Ðại địa chẳng chịu nổi
Bồ Tát chẳng tu tập
Từ bi ngồi Ðại thừa
Các núi và biển cả
Ðại địa chẳng chịu nổi
Bồ Tát chẳng tu tập
Từ bi với chúng sanh
Ngồi nơi Ðại thừa này
Chúng sanh chẳng thân cận
Nếu mặc giáp trụ nầy
Từ quang chẳng chiếu sáng
Với đại giáp trụ ấy
Chúng sanh chẳng thân cận
Nếu mặc giáp trụ nầy
Biển công đức vô biên
Gia trì bốn đại chủng
Nó mới kham chịu nổi
Vì nhiếp thủ chúng sanh
Dùng từ quang chiếu khắp
Gia trì bốn đại chủng
Nó mới kham chịu nổi
Vì nhiếp thủ chúng sanh
Thành tựu đại Bồ Ðề
Gia trì bốn đại chủng
Nó mới kham chịu nổi
Chẳng khinh hại chúng sanh
Mặc giáp đại trụ nầy
Ðại thừa mà xuất ly
Ðây gọi là trí giả
Ðại phương tiện khôn khéo
Tất cả đều gia rtì
Vô thượng mà xuất ly
Ðây gọi là trí giả
Do đây nên đại địa
Chẳng úp cũng chẳng nghiêng
Thủy hỏa phong đại chủng
Phát hiệu năng thích ứng
Nhưng chư đại Bồ Tát
Mặc giáp lại vô biên
Ngồi nơi Ðại thừa nầy
Dùng đạo mà hướng đến
Thành nhứt sanh bổ xứ
Ðến bực tối hậu thân
Trải tòa dưới thọ vương
Ngồi trên đất kiên cố
Ở chỗ đạo tràng nầy
An trụ như kim cương
Thân tâm chẳng mỏi nhọc
Hiện chứng nhứt thiết rtí
Bồ Tát người vô úy
Nếu người chẳng gia trì
Ðất ấy sẽ nghiêng úp
Hư hoại chẳng còn thành
Tất cả cõi đại địa
Nếu chẳng được gia trì
Dầu bằng chất kim cương
Ðều phải nghiêng úp cả
Thuở xưa đại Bồ tát
Thệ nguyện lớn trang nghiêm
Ðối với các chúng sanh
Ðã khởi niệm đại từ
Hiện tại mười phương cõi
Trong quốc độ chư Phật
Ðấng Lưỡng Túc Biến Tri
Ðều hộ niệm tất cả
Gỉa sử các núi đá
Núi Tu Di núi báu
Núi Kim Cương luân vi
Kiên cố đứng sừng sững
Bồ Tát người trí huệ
Nếu người chẳng gia trì
Ðối với đại giáp trụ
Các núi chẳng chịu nổi
Chư Phật chư Bồ Tát
Dùng thần lực gia trì
Chúng sanh và đại địa
Kham gần kham chịu nổi
Mặc đại giáp trụ nầy
Chẳng làm não chúng sanh
Giáp trụ nầy vô thượng
Dùng nương sẽ hướng đến
Mặc đại giáp trụ nầy
Chẳng làm hại chúng sanh
Giáp trụ bất tư nghị
Dùng nương sẽ hướng đến
Mặc đại giáp trụ nầy
Chẳng làm thù chúng sanh
Ðể trị bịnh chúng sanh
Dùng nương sẽ hướng đến
Ðầy đủ đạo thù thắng
Tối thanh tịnh vô thượng
Chẳng não hại oán thù
Chơn chánh mà an trụ
Mặc giáp trụ trí huệ
Ngồi thừa huệ hồi hướng
Giáp trụ chẳng bị hư
Hồi hường đạo vô thượng
Bồ Tát người dựa nhờ
An trụ ánh sáng huệ
Dùng huệ xem các pháp
Mà hướng đến vô thượng
Bồ Tát đạo thù thắng
Giáp trụ và Ðại thừa
Ðây do huệ quang khởi
Thế nên tâm thanh tịnh
Nương các Ba la mật
Hướng đến đại Bồ đề
Huệ nhiếp huệ thanh tịnh
Dùng huệ làm tiên đạo
Tất cả Ba la mật
Dùng huệ nầy làm trước
Huệ nhiếp huệ thanh tịnh
Hay truyền trí vô thượng
Bồ tát chẳng nghĩ bàn
Hay phát ánh sáng huệ
Hay thắp đèn trí huệ
An lạc mà hướng đến
Vì phát ánh sáng huệ
Do đó huệ nhãn khai
Nơi Phật vô thượng trí
Thấy rõ mà hướng đến
Bồ Tát người dũng mãnh
Giáp trụ lại vô biên
Vì vô biên trang nghiêm
Gọi là đại giáp trụ
Bồ Tát người đại trí
Ðại thừa đại trang nghiêm
Nơi Phật nhứt thiết trí
Vô nhiễm mà hướng đến
Bồ Tát người đại trí
Ðại đạo đại trang nghiêm
Thù thắng chẳng nghĩ bàn
Thanh tịnh mà hướng đến".

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 120 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.131.13.132 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập