QUYỂN 3
8 nước
● Nước Ô-trượng-na ● Nước Bát-lộ-la ● Nước Đát-xoa-thỉ-la ● Nước Tăng-ha-bổ-la
[1] ● Nước Ô-lạt-thi ● Nước Ca-thấp-di-la ● Nước Bán-nô-ta ● Nước Át-la-xà-bổ-la
1. Nước Ô-trượng-na
Nước Ô-trượng-na
[2] chu vi hơn 5.000 dặm (1.615 km), núi rừng thung lũng tiếp nối nhau, sông suối liền mạch, tuy có gieo trồng lúa thóc nhưng sản lượng không nhiều. Ở đây trồng nhiều nho, rất ít mía đường. Có khoáng sản như vàng, sắt. Vùng này thích hợp trồng uất kim hương, cây cối um tùm, hoa trái tốt tươi. Thời tiết có nóng có lạnh, điều hòa dễ chịu, mưa thuận gió hòa.
Tính khí người dân nhút nhát yếu đuối, lại hay mưu mô lừa lọc, hiếu học nhưng không chuyên sâu. Luyện tập chú thuật cũng được xem là một nghề nghiệp. Y phục đa phần bằng vải bông trắng, ít thấy các loại y phục khác. Ngôn ngữ tuy có khác biệt nhưng về đại thể cũng giống Ấn Độ. Chữ viết và lễ nghi cũng quan hệ hết sức mật thiết với Ấn Độ.
Người dân sùng bái, tôn trọng Phật pháp, kính ngưỡng tin theo giáo lý Đại thừa. Dọc theo hai bên sông Tô-bà-phạt-tốt-đổ
[3] trước đây có đến 1.400 ngôi chùa, ngày nay hầu hết đều hoang phế. Trước đây, tăng sĩ có khoảng 18.000 vị, nay thì ngày càng ít dần. Tất cả tăng sĩ đều tu tập theo Đại thừa, lấy công phu thiền định tịch tĩnh làm sự nghiệp. Họ giỏi việc tụng đọc kinh văn nhưng chưa nghiên cứu giáo nghĩa thâm sâu. Nghiêm trì giới hạnh thanh cao tinh khiết, đặc biệt quen trì chú. Có 5 bộ luật nghi được truyền dạy, thuộc về 5 bộ phái. Thứ nhất là Pháp Mật Bộ,
[4] thứ hai là Hóa Địa Bộ,
[5] thứ ba là Ẩm Quang Bộ,
[6] thứ tư là Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ,
[7] thứ năm là Đại chúng bộ.
[8]
Có hơn 10 đền thờ Phạm thiên, ngoại đạo các phái sống chung hỗn tạp. Có khoảng 4, 5 thành quách kiên cố, nhà vua thường ngự ở thành Măng-yết-ly. Chu vi thành này khoảng 16-17 dặm (5-5.5 km), dân cư đông đúc phồn thịnh. Về phía đông thành Măng-yết-ly, cách khoảng 4-5 dặm (1.3-1.6 km) có một tòa tháp, có rất nhiều điềm linh ứng, chính là nơi thuở xưa tiền thân đức Phật Thích-ca làm vị tiên nhân nhẫn nhục, bị vua Yết-lợi
[9] cắt xẻo thân thể.
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng đông bắc khoảng 250-260 dặm (81-84 km), đi vào trong một vùng núi lớn có dòng suối rồng A-ba-la-la,
[10] là phát nguyên của sông Tô-bà-phạt-tốt-đổ, chảy về hướng tây nam, hai mùa xuân hạ đều có chỗ nước đóng băng, sớm tối
[11] đều có tuyết bay lả tả giữa trời, ánh nắng chiếu vào hiện màu [cầu vồng] ngũ sắc tỏa ra bốn hướng.
Vào thời Phật Ca-diếp, con rồng chúa này vốn sinh làm người, tên là Căng-kỳ, rất giỏi chú thuật, chế ngự được rồng dữ không cho làm mưa to gió lớn. Người dân trong nước nhờ đó được [mưa thuận gió hòa], lúa thóc tích chứa được dồi dào. Dân chúng biết ơn nên đặt ra mức thuế mỗi nhà một đấu thóc để dâng tặng cho Căng-kỳ. Trải qua nhiều năm, có nhiều người trốn tránh không nộp khoản thuế này, nên Căng-kỳ giận dữ phát lời nguyền sẽ sinh làm rồng dữ để tạo ra mưa to gió lớn phá hoại mùa màng lúa má. Sau khi Căng-kỳ chết đi, [do lời nguyền đó nên] tái sinh thành rồng chúa A-ba-la-la ở suối này, rồi khiến cho từ trong suối dâng tràn nước bạc chảy ra, làm tổn hại việc thu hoạch mùa màng.
Đức Như Lai Thích-ca có lòng đại bi phủ khắp thế giới, thương xót người dân nước này riêng gặp phải tai nạn ấy nên dùng thần thông hiện đến nơi đây để hóa độ rồng. Thần Chấp Kim cang cầm chày báu gõ vào sườn núi, rồng chúa chấn động sợ hãi nên vội hiện ra xin quy y, nghe Phật thuyết pháp liền khởi tâm thanh tịnh tin hiểu. Đức Như Lai liền ngăn cấm không được làm tổn hại đến lúa thóc mùa màng. Rồng thưa rằng: “Thức ăn của con đều nhờ thâu lấy ở ruộng của con người. Nay vâng lời Phật dạy, chỉ sợ khó kiếm đủ sống, xin cho con 12 năm được thâu lấy một lần để chứa giữ.”
Đức Như Lai cân nhắc, thương xót [sự sống của rồng] nên cho phép. Vì vậy từ đó đến nay cứ cách 12 năm lại có nạn nước bạc dâng tràn gây hại một lần.
Theo suối rồng A-ba-la-la đi về phía tây nam hơn 30 dặm (9.7 km), trên bờ suối phía bắc có một tảng đá lớn bằng phẳng, mặt đá có in hình dấu chân đức Phật. Tùy theo phước đức của người đến xem mà nhìn thấy dấu chân này dài ngắn khác nhau. Đây chính là dấu chân đức Như Lai lưu lại sau khi hàng phục rồng dữ. Người đời sau ngay tại chỗ ấy dùng đá xây lên thành một gian thất nhỏ. Gần xa khắp nơi đều mang hương hoa đến đây cúng dường.
Lại theo dòng suối đi xuôi xuống hơn 30 dặm (9.7 km) thì gặp phiến đá đức Như Lai ngày xưa từng giặt y. Đường vân áo ca-sa vẫn còn in rõ trên đá như được khắc vào.
Hơn 400 dặm (129.2 km) về phía nam thành Măng-yết-ly có núi Hê-la, nước trong khe núi đều chảy về hướng tây. Đi ngược dòng nước lên hướng đông có nhiều loại hoa rừng trái lạ, ngập tràn cả dưới khe sâu, trên vách núi. Núi cao vách đứng nguy hiểm, khe núi quanh co, thỉnh thoảng nghe như có âm thanh tiếng nói rì rào huyên náo, hoặc nghe như tiếng nhạc từ đâu vang vọng. Những tảng đá vuông như giường nằm,
[12] đường nét mềm mại như do tay người khéo léo tạo thành, nằm kế bên nhau, trải dài từ sườn núi xuống tận khe sâu.
Đây là nơi thuở xưa đức Như Lai vì muốn nghe [Chánh pháp trong] nửa bài kệ tụng
[13] mà xả bỏ thân mạng.
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng nam hơn 200 dặm (64.6 km) thì đến chùa Ma-ha-phạt-na
[14] nằm bên cạnh một ngọn núi lớn.
Thuở xưa, đức Như Lai lúc còn tu hạnh Bồ Tát, làm vua hiệu là Tát-phược-đạt,
[15] vì tránh quân địch phải bỏ nước, lẩn tránh chạy đến nơi này, gặp một người bà-la-môn nghèo vừa đến xin ăn. Vua đã mất ngôi nên không có gì để cho, liền bảo người ấy trói vua lại dẫn đến cho vua địch, hy vọng sẽ được thưởng tiền, xem như để bố thí.
Từ chùa Ma-ha-phạt-na theo hướng tây bắc, xuống núi đi khoảng 30-40 dặm (11-14 km) đến chùa Ma-du,
[16] có một ngọn tháp cao hơn 100 thước (33.3 m). Bên cạnh tháp có một hòn đá vuông lớn, bên trên có in dấu bàn chân Như Lai. Đó là lúc ngài giẫm chân lên đá rồi phóng ngàn vạn tia hào quang
[17] chiếu sáng đến chùa Ma-ha-phạt-na, vì hàng trời, người mà nói những chuyện tiền thân của ngài.
Dưới nền tháp có một hòn đá màu trắng ngả vàng, thường rỉ ra một chất nước trơn bóng.
Thuở xưa, đức Như Lai còn tu hạnh Bồ Tát, vì muốn nghe Chánh pháp nên đã [chấp nhận] chẻ xương mình để chép kinh điển tại chỗ này.
[18]
Từ chùa Ma-du đi về hướng tây khoảng 60-70 dặm (19.4-22.6 km) thì gặp một tòa tháp do vua Vô Ưu xây dựng.
[Nơi đây,] thuở xưa khi đức Phật còn tu hạnh Bồ Tát, làm vua hiệu là Tỳ-ca,
[19] vì cầu quả Phật đã tự cắt thịt mình cho chim ưng ăn thay thịt chim câu.
[20]
Từ nơi đức Phật tự cắt thịt mình, đi về hướng tây bắc hơn 200 dặm (65 km) thì vào vùng bình nguyên San-ni-la-xà (Sanirāja), đến chùa Tát-bầu-sát-địa,
[21] có một ngọn tháp cao hơn 80 thước (26.7 m).
Thuở xưa, tiền thân đức Như Lai là vua trời Đế Thích, gặp lúc đói khát tật bịnh hoành hành, thuốc men chữa trị đều không hiệu quả, người chết liên tục đầy đường. Đế Thích khởi tâm đại bi thương xót, suy nghĩ phương cách cứu đời, liền tự biến hình thành một con trăn rất lớn nằm chết phơi thây trên thung lũng, rồi phát ra tiếng nói giữa không trung thông báo cho mọi người khắp nơi đều biết để đến xẻ thịt trăn mà ăn. Mọi người nghe biết được liền lũ lượt kéo nhau đến cắt xẻo lấy thịt trăn, cắt đi rồi thịt lại sinh ra như cũ, người ta ăn vào vừa no bụng vừa trừ được bệnh tật.
Bên cạnh đó không xa có một tháp lớn tên Tô-ma (Sūma).
Thuở xưa, tiền thân đức Như Lai làm vua trời Đế Thích, gặp lúc dịch bệnh hoành hành, thương xót hết thảy sinh linh nên tự biến hình thành con rắn Tô-ma ở ngay tại nơi đây. Những ai ăn thịt rắn này thì đều được lành bệnh, khỏe mạnh.
Phía bắc bình nguyên San-ni-la-xà, chỗ ven vách núi đá có một ngọn tháp. Những ai có bệnh đến đây cầu nguyện thì hầu hết đều được khỏi bệnh.
Tiền thân đức Như Lai thuở xưa làm chúa bầy chim công, dẫn cả bầy chim công đến đây. Gặp lúc trời nóng bức, cả bầy đều khát cháy cổ nhưng không tìm được nước. Khi ấy, chim công chúa dùng mỏ mổ vào vách núi này, liền có một dòng suối chảy vọt ra. Đến nay, chỗ ấy thành một hồ nước, những ai uống nước hay tắm gội ở hồ này đều khỏi bệnh. Trên đá vẫn còn lưu lại dấu chân chim công.
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng tây nam khoảng 60-70 dặm (19.4-22.6 km), ở phía đông sông lớn có một ngọn tháp cao hơn 60 thước (20 m), do vua Thượng Quân xây dựng.
Ngày xưa, khi đức Như Lai sắp diệt độ có bảo đại chúng rằng: “Sau khi ta nhập Niết-bàn, vua Thượng Quân của nước Ô-trượng-na nên được chia một phần xá lợi.” Đến sau khi [Phật nhập Niết-bàn] vua các nước tụ họp chuẩn bị phân chia xá-lợi, vua Thượng Quân đến trễ, các vua khác đều có ý xem thường. Lúc bấy giờ, đại chúng trời, người cùng nhắc lại lời dặn dò của Như Lai, vua Thượng Quân mới được dự phần phân chia xá-lợi, liền mang về nước, theo đúng nghi thức cung kính phụng thờ.
Bên cạnh tháp này, nơi bến sông có một hòn đá lớn, hình dạng giống như con voi.
Ngày xưa, vua Thượng Quân dùng một con voi trắng lớn để đưa xá-lợi về nước, đi đến chỗ này bỗng nhiên voi té ngã mà chết, hóa thành tảng đá này, người ta xây tháp ngay bên cạnh đó.
Từ thành Măng-yết-ly về hướng tây hơn 50 dặm (16 km), qua con sông lớn thì đến tháp Lô-hê-đát-ca,
[22] cao hơn 50 thước (16.7 m), do vua Vô Ưu xây dựng.
Thuở xưa, đức Như Lai khi còn tu hạnh Bồ Tát, làm vị đại quốc vương hiệu là Từ Lực, ngay tại nơi này đã trích máu trong thân mình để nuôi năm con quỷ dược-xoa.
[23]
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng đông bắc hơn 30 dặm (10 km) thì đến một ngọn tháp bằng đá tên Át-bộ-đa,
[24] cao hơn 40 thước (18 m).
Thuở xưa, đức Như Lai vì hàng trời, người mà thuyết pháp khai mở, dẫn dắt tại chỗ này. Sau khi đức Như Lai rời đi, tháp này tự nhiên từ dưới đất mọc lên, người người tôn sùng kính ngưỡng, hương hoa cúng dường không dứt.
Từ tháp đá này, vượt qua sông lớn đi về hướng tây khoảng 30-40 dặm (9.7-13 km) thì đến một tinh xá,
[25] bên trong có tượng Bồ Tát A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la,
[26] tiềm ẩn nét uy nghiêm linh ứng, thần tích sáng tỏ, kẻ tăng người tục đều quy tụ về đây cúng dường không dứt.
Từ chỗ tượng Bồ Tát Quán Tự Tại đi về hướng tây bắc 150 dặm (48.5 km) thì đến núi Lam-bột-lô,
[27] trên đỉnh có hồ rồng
[28] chu vi hơn 30 dặm (11 km). Sóng vỗ mênh mông, nước hồ trong vắt ngời sáng như gương.
Thuở xưa, vua Tỳ-lô-trạch-ca
[29] mang quân đánh dòng họ Thích, có bốn người họ Thích ra kháng cự, kết quả bị thân tộc [họ Thích] trục xuất
[30] phải bỏ thành chạy đi. Trong số đó có một người chạy ra khỏi kinh đô rồi, rong ruổi đường xa mệt mỏi, liền dừng nghỉ giữa đường.
Lúc bấy giờ có một con ngỗng trời từ đâu bay đến đáp xuống phía trước người ấy, vẻ như quen thuộc, thân thiện, nên người họ Thích ấy liền cưỡi lên lưng ngỗng. Ngỗng đưa người bay đi, lượn quanh rồi đáp xuống bên một bờ hồ. Người họ Thích bay trên không trung đã quá xa, đến địa giới nước khác nên không còn nhận biết đường đi, liền tạm nghỉ ngơi rồi ngủ thiếp đi dưới bóng mát một tàn cây.
Khi ấy, long nữ con long vương của hồ này đang dạo chơi ven bờ hồ, nhìn thấy người họ Thích, e rằng thân rồng không xứng hợp với người nên liền biến thành hình người rồi đến bên vỗ về âu yếm. Người họ Thích giật mình tỉnh giấc, nhận ra là một thiếu nữ, liền hỏi: “Ta chỉ là kẻ lang thang lưu lạc, tạm gặp bên đường, sao nàng thân thiết vỗ về như vậy?” Rồi tỏ lòng yêu mến, muốn ép nàng cùng làm việc ân ái. Long nữ nói: “Cha mẹ thiếp đã răn dạy, nên dẫu kính yêu chàng cũng không thể làm chuyện ấy. Tuy được chàng thương tưởng đoái hoài, nhưng chưa được phép của cha mẹ thì không thể.”
Người họ Thích hỏi: “Ở đây rừng núi mênh mông mờ mịt, nhà nàng ở chỗ nào?” Long nữ đáp: “Thiếp là con gái của long vương ở trong hồ này. Thiếp có nghe chuyện vương tộc Thích-ca vì lánh nạn vua Lưu Ly phải phiêu bạt. Nhân việc lên bờ dạo chơi mà hân hạnh được gặp chàng, chỉ muốn vỗ về an ủi đôi chút cho bớt nỗi đường xa mệt nhọc đó thôi. Chàng muốn thiếp cùng làm chuyện mây mưa, nhưng tiếc vì chưa được nghe ý chỉ mẹ cha nên không thể được. Huống chi thiếp vì nghiệp ác thuở xưa nên phải thọ thân loài rồng, giữa người và vật khác biệt quá xa, chưa từng nghe chuyện kết hợp cùng nhau.”
Người họ Thích nói: “Chỉ xin một lời ưng thuận của nàng, mọi việc ta sẽ chu tất.”
Long nữ liền nói: “Xin vâng lời chàng, chàng bảo thế nào thiếp xin làm theo thế ấy.”
Người họ Thích liền phát lời thệ nguyện rằng: “Hết thảy bao nhiêu phước đức tôi đã từng tạo được, nguyện dùng để khiến cho long nữ được biến thành thân người.”
Quả nhiên nhờ sự chiêu cảm của phước đức, long nữ liền được biến thành thân người, trong lòng hết sức mừng vui hoan hỷ, tạ ơn người họ Thích rằng: “Thiếp từ thuở xưa đến nay, do tạo nghiệp xấu ác nên phải trầm luân mãi trong đường ác, [thọ thân súc sinh]. Ngày nay may mắn được chàng rủ lòng thương, dùng phước lực của tự thân mình mà gia hộ cho, nên thân xấu xí trong nhiều kiếp lâu xa mà nhất thời được thay đổi. Ân đức này xin được đáp đền, chỉ sợ rằng thịt nát xương tan cũng chưa đủ trả. Lòng thiếp đã nguyện theo chàng, chỉ e miệng đời dị nghị. Xin cho thiếp về thưa lên cha mẹ, rồi sau đó sẽ thực hiện đầy đủ lễ nghi.”
Long nữ quay về [long cung] trong hồ, thưa với cha mẹ rằng: “Hôm nay con dạo chơi gặp một người họ Thích, dùng phước lực tự thân của mình để chiêu cảm giúp con được biến thành người. Chúng con thương yêu nhau, muốn kết tình chồng vợ, dám xin được trình bày sự thật lên cha mẹ.”
Long vương trong lòng rất vui vì [con gái được kết hợp] với loài người, vừa có ý kính trọng họ Thích là dòng tộc bậc thánh, liền theo lời thỉnh cầu của con gái mà ra khỏi hồ, đến tạ ơn người họ Thích rằng: “Người đã không hiềm vì khác chủng loại, cũng không chê chúng tôi thấp hèn mà hạ cố đến con gái tôi, vậy xin mời ghé đến nhà tôi, để con gái tôi được theo hầu nâng khăn sửa túi.”
Người họ Thích nhận lời mời của Long vương liền đến long cung. Long vương đích thân nghênh tiếp, yến tiệc nhạc hội, vui chơi phóng túng, rồi tổ chức đầy đủ lễ nghi cho hai người thành thân.
Nhưng rồi người họ Thích nhìn thấy hình dạng loài rồng thì trong lòng thường ghê sợ, muốn từ biệt ra đi. Long vương cản ngăn rằng: “Xin đừng đi xa, cứ ở gần đây, ta sẽ giúp người phân vạch cương thổ, chiếm cứ đất đai, xưng thành vương hiệu, có đủ quần thần, thứ dân, giữ ngôi cao cai trị, truyền nối đời đời.”
Người họ Thích cảm tạ thưa rằng: “Thật chẳng dám mong cầu đến thế.”
Long vương liền lấy ra một thanh bảo kiếm, để trong hộp rồi dùng loại vải trắng mịn hết sức xinh đẹp quý giá bọc bên ngoài, bảo người họ Thích rằng: “Hãy mang hộp vải quý này đến dâng lên vua. Tất nhiên vua sẽ đích thân đến nhận phẩm vật của người từ phương xa mang đến. Ngay khi ấy có thể [dùng bảo kiếm này] giết chết vua. Nhân đó chiếm lấy đất nước này, chẳng phải tốt lắm sao?”
Người họ Thích theo lời chỉ bày của Long vương, [mang hộp vải có giấu bảo kiếm] đến dâng cho vua. Vua nước Ô-trượng-na lúc đến nhận vừa nâng hộp vải lên, người họ Thích liền nắm chặt lấy tay áo vua [rồi rút bảo kiếm ra] đâm chết ngay tại chỗ. Các quan thị thần và quân cận vệ từ dưới thềm hoảng loạn xông lên, người họ Thích vung kiếm quát rằng: “Ta có bảo kiếm của long thần ban cho để giết hết những kẻ nào chậm quy phục, không xưng thần.”
Mọi người đều khiếp sợ uy vũ, liền suy tôn người họ Thích lên ngôi vua. Từ đó [ở ngôi cai trị], liền trừ bỏ những điều xấu tệ, thực hiện những việc chính đáng, chọn dùng kẻ hiền tài, cứu giúp người khốn khó. Vua lại dẫn quần thần dân chúng đông đảo, xa giá kiệu hoa, quay lại chốn long cung để báo tin với Long vương và đón long nữ về kinh đô.
Nghiệp đời trước của long nữ còn chưa dứt hết, nên mỗi lúc giao hoan thì trên đầu [người] lại hiện ra thêm chín cái đầu rồng. Người họ Thích ghê sợ, chẳng biết tính sao, liền chờ lúc vợ ngủ say, lấy dao bén cắt hết đi. Long nữ thức giấc hoảng sợ nói rằng: “Điều này thật bất lợi cho con cháu sau này. Không chỉ là mạng sống của thiếp có chút tổn thương, mà con cháu của chúng ta sinh ra sẽ khổ vì bệnh đau đầu.” Do đó, vương tộc của nước này về sau thường hay bị bệnh đau đầu, tuy không liên tục nhưng thỉnh thoảng lại nổi lên.
Người họ Thích qua đời, con trai lên nối ngôi, tức là vua Ốt-đát-la-tê-na (Thượng Quân).
[31] Sau khi vua Thượng Quân lên ngôi, người mẹ (tức long nữ) lại bị mù lòa. Lúc đức Như Lai vừa nhiếp phục xong con rồng A-ba-la-la, trên đường quay về, liền từ trên không trung hạ xuống giữa cung vua. Khi ấy, vua Thượng Quân đang đi săn, đức Như Lai vì mẹ vua lược thuyết những pháp thiết yếu. Người mẹ được gặp Phật nghe pháp, đôi mắt liền sáng lại. Đức Như Lai lại hỏi: “Con trai của bà cũng thuộc dòng tộc Thích-ca với ta, hiện đang ở đâu?”
Người mẹ đáp: “Bạch Thế Tôn, từ sáng sớm nó đã đi săn, giờ này hẳn sắp về đến.”
Đức Như Lai cùng đại chúng sắp ra đi, mẹ vua liền thưa: “Bạch Thế Tôn! Con nhờ phước đức mới được sinh dưỡng người trong Thánh tộc. Nay đức Như Lai từ bi thương xót lại đích thân đến đây. Con trai con cũng sắp trở về, mong đức Thế Tôn nán lại đợi cho chốc lát.”
Đức Thế Tôn nói: “Nhà vua thuộc dòng tộc của ta, có thể nghe lời dạy là tin nhận, không cần đến ta phải trực tiếp răn dạy mới phát tâm. Nay ta đi rồi, khi nhà vua trở về, bà hãy dặn lại rằng: ‘Như Lai từ đây đi đến thành Câu-thi, ở giữa hai cây sa-la sẽ nhập Niết-bàn, nhà vua nên đến đó nhận lấy một phần xá-lợi mang về thờ kính cúng dường.’”
Nói xong, Như Lai cùng đại chúng bay trên hư không mà đi. Vua Thượng Quân đang săn bắn, từ xa nhìn thấy ánh sáng chói chang phát ra chỗ cung điện của mình, nghi là có hỏa hoạn nên bỏ việc đi săn mà về. Khi gặp được thân mẫu thấy bà đã sáng mắt, vui mừng hỏi rằng: “Con vừa ra đi nào có bao lâu, có chuyện tốt đẹp linh ứng gì xảy ra mà có thể giúp mẹ sáng mắt lại như xưa?”
Người mẹ đáp: “Sau khi con đi rồi, đức Như Lai đến đây. Mẹ được nghe Phật thuyết pháp, hai mắt liền được sáng ra như trước. Đức Như Lai từ đây đến thành Câu-thi, ở giữa hai cây sa-la sẽ nhập Niết-bàn. Ngài dạy con mau đến nơi đó để nhận phần chia xá-lợi.”
Vua vừa nghe xong đau đớn khóc gào, ngã lăn ra đất hồi lâu mới tỉnh. Lập tức ra lệnh chuẩn bị xa giá đi ngay đến rừng sa-la thì Phật đã nhập Niết-bàn. Lúc bấy giờ, các vua khác đều khinh thường vua Thượng Quân ở vùng biên địa xa xôi, lại quý trọng xá-lợi Phật nên không muốn chia phần. Lúc ấy, đại chúng trời, người nhắc lại ý Phật, các vua nghe rồi liền chia trước cho vua Thượng Quân một phần.
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng đông bắc, vượt núi qua khe, ngược dòng sông Tín-độ, đường đi rất nguy hiểm, núi non khe suối tối tăm mịt mù, đôi khi phải vượt qua những chiếc cầu bằng dây thừng, hoặc bằng xích sắt, cầu treo lơ lửng hun hút trên cao, cực kỳ nguy hiểm, hoặc vin theo các cọc gỗ từng bước thận trọng leo lên. Cứ như vậy vượt qua hơn 1.000 dặm (325 km) thì đến vùng bình nguyên Đạt-lệ-la, là cố đô của nước Ô-trượng-na.
Vùng này sản xuất nhiều vàng và trồng nhiều uất kim hương. Giữa vùng Đạt-lệ-la có một ngôi chùa lớn, bên cạnh có tượng Bồ Tát Di-lặc điêu khắc bằng gỗ, sắc vàng sáng chói, linh hiển vô cùng, chiều cao hơn 100 thước (33.3 m).
Tượng này do vị A-la-hán Mạt-điền-để-ca
[32] tạo thành. Ngài dùng thần thông đưa các nghệ nhân tạc tượng lên tận cung trời Đổ-sử-đa
[33] để họ đích thân quan sát diệu tướng trang nghiêm [của Bồ Tát Di-lặc], sau ba lần như vậy mới hoàn tất được pho tượng. Từ khi có tôn tượng này thì Giáo pháp bắt đầu được truyền về phương Đông.
Từ đây đi về hướng đông, vượt núi qua khe, ngược dòng sông Tín-độ, qua những chiếc cầu treo, mỗi bước chân đi đều gian nan nguy hiểm, hơn 500 dặm (162 km) thì đến nước Bát-lộ-la, thuộc miền Bắc Ấn.
2. Nước Bát-lộ-la
Nước Bát-lộ-la
[34] chu vi hơn 4.000 dặm (1.292 km), nằm trong vùng Đại Tuyết sơn, chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp, có nhiều lúa mạch và các loại đậu, khai thác được vàng, bạc. Nhờ nguồn lợi từ vàng nên đất nước giàu có sung túc. Thời tiết rét lạnh, tánh người hung ác, tàn bạo. Họ sống không nhân nghĩa, không có văn minh lễ nghi. Người dân ở đây hình dung tướng mạo xấu xí thô kệch, y phục thì dệt bằng lông thú, thô dày. Chữ viết về đại thể giống như Ấn Độ nhưng ngôn ngữ khác biệt với những nước khác. Trong nước có đến mấy trăm ngôi chùa, tăng chúng mấy ngàn người, học hành không chuyên cần, giới hạnh phần nhiều buông thả phóng túng.
Từ nơi đây quay trở lại thành Ô-đạt-ca-hán-đồ, đi về hướng nam qua sông Tín-độ. Sông rộng khoảng 3-4 dặm (1-1.3 km), chảy về hướng nam,
[35] nước trong vắt, mặt nước sáng như gương, dòng chảy nhanh. Dưới lòng sông có nhiều rồng độc, thú dữ làm hang ổ cư trú, người qua sông nếu mang theo những vật quý báu hoặc các loại hoa quả cho đến xá-lợi Phật thì hầu hết đều bị chìm thuyền.
Qua khỏi sông [Tín-độ] thì đến nước Đát-xoa-thỉ-la, thuộc miền Bắc Ấn.
3. Nước Đát-xoa-thỉ-la
Nước Đát-xoa-thỉ-la
[36] chu vi hơn 2.000 dặm (646 km), chu vi kinh thành hơn 10 dặm (3.3 km). Vương tộc nước này không người nối dõi nên các phe nhóm thế lực đang tranh giành nhau. Trước đây phải phụ thuộc nước Ca-tất-thí, đến gần đây lại thần phục nước Ca-thấp-di-la.
Đất đai nơi đây nổi tiếng màu mỡ, mùa màng thu hoạch dồi dào. Có nhiều sông suối, hoa cỏ xanh tốt. Khí hậu ôn hòa, dễ chịu, tánh tình người dân nhanh nhẹn, dũng mãnh, sùng kính Tam bảo. [Mặc dù vậy,] hiện tuy có nhiều chùa nhưng đa phần hoang phế, tăng sĩ rất ít, thảy đều tu tập theo Đại thừa.
Phía tây bắc kinh thành, cách hơn 70 dặm (22.6 km) có hồ Long vương Y-la-bát-đát-la (Elapatra), chu vi hơn 100 bộ (166.5 m). Nước hồ trong vắt, có nhiều hoa sen đủ màu xinh đẹp đua nhau khoe sắc.
Con rồng ở hồ này vốn là vị tỳ-kheo đã phá hoại cây y-la-bát-la vào thời đức Phật Ca-diếp-ba,
[37] cho nên ngày nay tại xứ này muốn cầu trời mưa hay nắng đều phải cùng với một vị tỳ-kheo đi đến hồ này, khấn nguyện cầu đảo chỉ trong chốc lát
[38] thì tùy theo mong muốn đều được thỏa mãn.
Từ hồ này, về hướng đông nam hơn 30 dặm (9.7 km), đi vào khoảng giữa của hai ngọn núi gặp một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, cao hơn 100 thước (33.3 m).
Đức Như Lai Thích-ca có huyền ký rằng, trong tương lai khi đức Phật Di-lặc ra đời sẽ có bốn kho châu báu lớn tự nhiên xuất hiện. Nơi thắng địa này sẽ là vị trí của một trong bốn kho châu báu. Đọc trong các ghi chép xưa thấy nói rằng, có những lúc động đất, các vùng núi non đều chấn động nhưng trong khoảng chu vi 100 bộ (166.5 m) quanh vị trí kho báu này không hề rung động. Có những kẻ ngu si từng muốn khai quật nơi này, nhưng mặt đất lập tức chấn động, tất cả những kẻ ấy đều té ngã.
Bên cạnh tháp này có một ngôi chùa bị đổ nát, hư hỏng nặng nề, đã lâu không có bóng dáng tăng sĩ.
Phía bắc kinh thành khoảng 12-13 dặm (3.8-4.2 km) có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, vào những ngày trai thỉnh thoảng lại thấy có phóng chiếu hào quang, rất nhiều người cũng từng thấy hoa trời rơi xuống tháp và nghe được tiếng âm nhạc cõi trời.
Đọc trong các ghi chép trước đây thấy nói rằng, gần đây có một người đàn bà thân mang bệnh hủi. Bà một mình âm thầm đến tháp này lễ bái sám hối. Nhìn thấy trong sân tháp có nhiều phẩn uế, bà liền hốt bỏ đi hết, rồi rưới nước quét dọn sạch sẽ, xông hương trầm, rải hoa tươi, lại hái hoa sen xanh trang hoàng trên mặt đất. Sau đó bà liền hết bệnh, hình dung tướng mạo càng thêm xinh đẹp, toàn thân lại tỏa ra mùi hương thơm ngát, giống như hương thơm của hoa sen xanh.
Thuở xưa, đức Như Lai khi còn tu hạnh Bồ Tát, làm vị đại quốc vương hiệu là Chiến-đạt-la-bát-thích-bà,
[39] quyết chí cầu đạo giác ngộ nên tự cắt đầu mình để bố thí ngay nơi thắng địa này. Những sự buông xả bố thí như thế, [đức Như Lai đã thực hiện] trong cả ngàn kiếp sống.
Bên cạnh tháp này có một ngôi chùa, sân nền hoang phế, tăng sĩ không mấy người. Thuở xưa, luận sư Câu-ma-la-la-đa
[40] của phái Kinh lượng
[41] đã trước thuật các bộ luận tại chùa này.
Phía đông nam kinh thành có ngọn Nam sơn, phía bắc núi này có tháp cao hơn 100 thước (33 m), là nơi Thái tử Câu-lãng-noa,
[42] con vua Vô Ưu, vì kế mẫu lừa dối mà phải bị móc mắt. Vua Vô Ưu cho xây dựng tháp này. Những người mù đến đây cầu nguyện, rất nhiều người được sáng mắt trở lại như xưa.
Vị thái tử này do chánh cung hoàng hậu sinh ra, dung nghi tướng mạo đẹp đẽ thanh nhã, giàu lòng nhân từ. Khi chánh hậu qua đời, người kế mẫu hoang dâm, phóng túng, buông thả theo tâm tánh ngu muội hôn ám, bức ép thái tử cùng bà tư thông. Thái tử khóc lóc tự trách mình, tạ tội với kế mẫu mà nhất quyết không chịu thuận tình làm việc sai trái. Kế mẫu thấy thái tử trái ý, không được thỏa lòng, sinh tâm oán ghét, tức giận, nhân lúc vua rảnh việc liền kề cận một bên thỏ thẻ rằng: “Vùng Đát-xoa-thỉ-la là nơi hiểm địa quan yếu, nếu không phải con em thân tín trong hoàng tộc thì làm sao có thể giao phó? Nay Thái tử có tiếng là người nhân từ, hiếu hạnh, việc chiếu cố đến người thân hiền đức là điều nên làm, bệ hạ không nên để bên ngoài dị nghị.”
Đức vua bị mê hoặc bởi lời nói ấy, lại rất hài lòng, không biết đó là mưu gian, liền ban lệnh cho Thái tử, răn dạy rằng: “Ta kế thừa sự nghiệp tổ tiên, chỉ sợ có sai sót khiến cho suy sụp thì phải hổ thẹn với tiên vương. Nước Đát-xoa-thỉ-la là vùng hiểm địa, nay ta ra lệnh cho con đến đó cầm quyền trấn thủ. Việc nước vô cùng quan trọng, lòng người gian hiểm khó lường, con không được tùy tiện nghĩ đến chuyện đi về, có hại cho nền móng của đất nước. Nếu ta có lệnh triệu về sẽ dùng ấn tín bằng dấu răng của ta, con phải xét kỹ cho phù hợp. Dấu ấn răng nằm trong miệng ta, ắt không thể có sự giả mạo.”
Thái tử vâng lệnh vua cha lên đường trấn nhậm. Ngày tháng trôi qua đã lâu nhưng người kế mẫu ôm mối căm giận ngày càng sâu nặng hơn, liền giả mạo một tờ chiếu thư của vua, dùng sáp đỏ niêm kín lại rồi nhân khi vua ngủ say, lén lấy dấu răng ấn vào theo đúng quy ước. Sau đó sai người lập tức mang chiếu thư ấy đến giao cho thái tử để khiển trách.
Các quan phụ thần quỳ đọc chiếu thư thảy đều buồn đau thất sắc, nhìn nhau bối rối. Thái tử hỏi: “Tại sao các ông buồn đau như vậy?”
Quan phụ thần đáp: “Đại vương có thư trách phạt, lệnh phải móc bỏ hai mắt Thái tử, đuổi vào chốn núi rừng cả hai vợ chồng, mặc tình sống chết. Tuy có lệnh như vậy, nhưng chúng thần nghĩ là chưa nên thi hành. Nay Thái tử nên thỉnh lại mệnh vua rồi trói mình chờ trách tội.”
Thái tử đáp rằng: “Phận làm con, dù cha bảo chết cũng phải nghe theo, dám đâu né tránh? Thư được niêm phong bằng dấu ấn răng, không thể có sự giả mạo.”
Thái tử liền ra lệnh cho một người chiên-đà-la móc bỏ hai mắt mình. Thái tử bị mù mắt, phải cùng vợ đi xin ăn kiếm sống. Dần dần lưu lạc quay trở lại kinh thành của phụ vương. Người vợ Thái tử nói: “Đây là vương thành.” [Thái tử nghe vậy than rằng:] “Than ôi! Đói rét khổ sở thay! Ngày nào là vương tử, nay làm kẻ ăn xin! Mong sao [phụ vương] nghe biết việc này để con được phân giải về sự trách tội ngày trước.”
[Thái tử] liền lập kế vào ẩn mình trong chuồng ngựa của vua, đợi sau lúc nửa đêm mới thuận theo hướng gió mà cất tiếng khóc, rồi ngâm lên một khúc bi ai, lại gảy đàn không hầu hòa theo. Nhà vua ở trên lầu cao, thoảng nghe giọng ngâm thanh nhã mà lời lẽ bi ai sầu thảm, lấy làm lạ tự hỏi rằng: “Giọng ngâm kia với tiếng đàn không hầu ấy, nghe rất giống tiếng con ta. Nay có duyên cớ gì lại về đây [ca ngâm như vậy]?” Liền [sai người đến] hỏi người giữ chuồng ngựa: “Kẻ đang ca ngâm đó là ai?” Cận thần liền dẫn người mù [trong chuồng ngựa] đến trước vua. Đức vua gặp thái tử [trong tình trạng ấy thì phải] nén đau thương mà hỏi: “Ai hại thân con gặp nạn khổ đến như thế này? Con yêu của ta bị hại mù mắt mà tự ta còn không hay biết, thì việc của trăm họ muôn dân ta làm sao cứu xét rõ biết? Trời hỡi trời! Làm sao đức độ của ta lại suy thoái đến thế này!”
Thái tử buồn khóc tạ tội thưa rằng: “Là do con bất hiếu, đắc tội với trời cao. Vào ngày tháng năm đó..., con đột nhiên nhận được chỉ mệnh của cha, không có cách nào để giải bày, thật không dám trốn tránh sự trách phạt.”
Trong lòng vua biết rõ là người kế mẫu đã làm việc gian trá loạn pháp này nên không cần cứu xét, lập tức xử tội chết.
Bấy giờ, có Đại A-la-hán Cù-sa
[43] ở chùa Bồ-đề Thụ,
[44] đã chứng được bốn biện tài vô ngại
[45] và đầy đủ ba minh.
[46] Đức vua đưa thái tử mù lòa đến trình bày sự việc và cầu xin A-la-hán từ bi cứu giúp cho đôi mắt thái tử được sáng lại.
Lúc ấy, vị A-la-hán nhận lời thỉnh cầu của vua rồi thì ngay trong ngày hôm ấy loan báo với mọi người trong nước rằng: “Ngày mai ta sẽ thuyết giảng giáo lý nhiệm mầu, mỗi người khi đi nghe pháp hãy mang theo một món đồ chứa để đựng nước mắt.”
Được thông báo như vậy, ngày hôm sau dân chúng kẻ nam người nữ xa gần đều tề tựu đến nghe. Bấy giờ, vị A-la-hán thuyết giảng giáo pháp Mười hai nhân duyên, người nghe pháp ai ai cũng đều cảm động rơi lệ, liền bảo mọi người dùng đồ chứa mang theo để đựng nước mắt ấy. Sau khi thuyết pháp xong, vị A-la-hán thu gom hết tất cả nước mắt, đổ vào một cái mâm bằng vàng, rồi phát lời thệ nguyện rằng: “Những gì ta thuyết giảng hôm nay đều là chân lý cùng tột của chư Phật. Nếu như lý lẽ ta đưa ra không đúng thật, lời giảng giải có sai lầm, thì xem như mọi việc chấm dứt tại đây. Bằng như tất cả đều đúng thật, phù hợp với Chánh pháp, thì nguyện cho nước mắt này có thể dùng rửa mắt người mù kia, khiến cho mắt liền được sáng lại như xưa.”
Phát lời thệ nguyện như vậy rồi, dùng nước mắt ấy để rửa đôi mắt mù của Thái tử, liền được sáng lại như trước.
[Sau đó vua cho điều tra rõ sự việc,] trách phạt quan đại thần [có liên can đến âm mưu này], chất vấn các quan viên phụ tá, [rồi tùy theo mức độ phạm tội mà] cách chức, hoặc đuổi đi, hoặc giáng chức, hoặc xử tội chết. Các gia đình giàu có, thế lực [ở Đát-xoa-thỉ-la liên can đến âm mưu này] thì lưu đày đến sống trong vùng sa mạc ở phía đông bắc Tuyết sơn.
Từ [ngọn tháp nơi thái tử bị móc mắt] đi về hướng đông nam, vượt núi qua khe hơn 700 dặm (226 km)
[47] thì đến nước Tăng-ha-bổ-la, thuộc miền Bắc Ấn.
4. Nước Tăng-ha-bổ-la
Nước Tăng-ha-bổ-la
[48] chu vi khoảng 3.500-3600 dặm (1.130-1.163 km), phía tây giáp sông Tín-độ. Chu vi kinh thành khoảng 14-15 dặm (4.5-4.9 km). Địa hình dựa vào núi non, kiên cố, hiểm trở. Nghề nông ở đây ít công sức nhưng thu hoạch dồi dào. Khí hậu lạnh, tánh tình người dân hung bạo, mạnh mẽ lại hay lừa lọc, dối trá.
Đất nước hiện không có vua, phụ thuộc vào nước Ca-thấp-di-la. Về phía nam kinh thành không xa, có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, những nét trang trí đã có phần hư hoại nhưng sự linh ứng không mất. Bên cạnh tháp có một ngôi chùa nhưng không có tăng sĩ.
Về phía đông nam kinh thành, cách khoảng 40-50 dặm (13-16 km) có một tòa tháp bằng đá do vua Vô Ưu xây dựng, cao hơn 200 thước (66.6 m). Có khoảng 10 hồ nước soi bóng hai bên tháp, bờ hồ bằng đá có chạm khắc nhiều hình thù kỳ lạ khác biệt, có những dòng nước trong vắt chảy nhanh vào hồ. Các loài thủy tộc như rồng, cá... làm hang ổ ẩn náu dưới sâu, bơi lội dưới lòng hồ. Hoa sen có đủ bốn màu phủ khắp mặt hồ, chung quanh cây trái trăm loại sum suê, tốt tươi đủ màu soi bóng xuống hồ, tạo thành phong cảnh kỳ thú thật đáng thưởng ngoạn.
Bên cạnh đó có một ngôi chùa đã lâu không có tăng sĩ. Cách tháp không xa là nơi vị thầy sáng lập
[49] phái ngoại đạo Bạch y, sau khi tỏ ngộ được đạo lý mà ông tìm cầu đã thuyết pháp lần đầu tiên. Ngày nay chỗ này được niêm phong và có treo bảng ghi rõ. Bên cạnh đó có dựng một đền thờ Phạm thiên.
Môn đồ của giáo phái này chuyên tu khổ hạnh, ngày đêm tinh cần không ngừng nghỉ. Giáo pháp mà vị thầy sáng lập của họ giảng giải, phần nhiều là trích lấy từ nghĩa lý trong kinh Phật,
[50] rồi tùy theo phân loại tín đồ mà thiết lập phép tắc, chế định lễ nghi, phẩm trật lớn thì gọi là bật-sô,
[51] nhỏ thì gọi là sa-di. Tất cả oai nghi luật hạnh đều giống như tăng sĩ Phật giáo. Chỉ khác biệt ở điểm là họ [cạo đầu còn] lưu lại ít tóc và thêm việc để mình trần, hoặc có y phục thì dùng màu trắng, dựa vào những điểm khác nhau như vậy để phân biệt. Tượng Thiên sư của họ cũng phỏng theo giống như tượng đức Như Lai, chỉ khác về y phục, còn tướng hảo đều không khác.
Từ đây quay trở lại biên giới phía bắc nước Đát-xoa-thỉ-la
[52] [nơi đã] qua sông Tín-độ đến bờ phía nam, rồi đi theo hướng đông hơn 200 dặm (65 km), qua một cửa lớn bằng đá, là nơi thuở xưa vương tử Ma-ha-tát-đỏa
[53] xả thân [bố thí] cho cọp ăn.
[54] Phía nam [cửa đá này], cách khoảng 140-150 bộ (233-250 m) có một tháp bằng đá, là nơi vương tử Ma-ha-tát-đỏa đi bộ đến vì thương con cọp quá đói không còn sức. Ngài dùng thanh tre khô tự cắt vào thân mình chảy máu để cọp uống máu mà hồi sức, nhờ đó mới đủ sức ăn thịt ngài. Cho nên trong vùng đất này, cây cỏ cũng nhuốm sắc hồng là do thấm máu. Người ta đi ngang qua đây đều có cảm giác như dưới chân bị gai châm, cho dù có tin vào chuyện này hay không, ai ai cũng đều cảm thấy bi thương.
Từ nơi vương tử xả thân nhìn về hướng bắc có một ngọn tháp bằng đá cao hơn 200 thước (66m), do vua Vô Ưu xây dựng, điêu khắc đặc biệt khéo léo, thỉnh thoảng có người thấy tháp tỏa hào quang. Có hàng trăm tháp nhỏ và các khám thờ bằng đá vây phủ quanh khu mộ phần này. Những người có bệnh tật đến đây đi nhiễu quanh tháp, đa phần đều được khỏi bệnh.
Phía đông của ngọn tháp đá có một ngôi chùa, tăng sĩ hơn 100 vị, thảy đều học theo giáo pháp Đại thừa. Từ đây đi về hướng đông hơn 50 dặm (16.2 km) thì đến một ngọn núi nằm lẻ loi, trong núi có một ngôi chùa, tăng sĩ hơn 200 vị, thảy đều tu học theo giáo pháp Đại thừa. Quanh chùa hoa trái tốt tươi, suối trong hồ lặng, mặt nước như gương soi. Bên cạnh chùa có một ngọn tháp cao hơn 200 thước (66 m), là nơi thuở xưa đức Như Lai hóa độ quỷ dược-xoa hung ác, khiến cho nó không ăn thịt các loài khác nữa.
Từ chỗ này đi về hướng đông nam hơn 500 dặm (162 km) thì đến nước Ô-lạt-thi, thuộc miền Bắc Ấn.
5. Nước Ô-lạt-thi
Nước Ô-lạt-thi
[55] chu vi hơn 2.000 dặm (646 km), núi đồi liên tiếp, ruộng đất nhỏ hẹp. Chu vi kinh thành khoảng 7-8 dặm (2.3-2.6 km). Nước không có vua, hành chánh phụ thuộc nước Ca-thấp-di-la. Đất đai thích hợp trồng lúa, ít hoa quả. Khí hậu ôn hoà, ít sương tuyết. Phong tục thiếu lễ nghi nhân nghĩa, người dân tánh tình cứng rắn, hung bạo, nhiều lọc lừa dối trá, không tin Phật pháp.
Từ kinh thành đi về hướng tây nam khoảng 4-5 dặm (1.3-1.6 km) có một ngọn tháp cao hơn 200 thước (66 m), do vua Vô Ưu xây dựng. Bên cạnh có một ngôi chùa rất ít tăng sĩ, tất cả đều học theo giáo pháp Đại thừa.
Từ đây đi về hướng đông nam, lên núi cao, vượt đường hiểm, qua cầu sắt, đi hơn 1.000 dặm (323 km) thì đến nước Ca-thấp-di-la, thuộc miền Bắc Ấn.
6. Nước Ca-thấp-di-la
Nước Ca-thấp-di-la
[56] chu vi hơn 7.000 dặm (2.260 km), bốn phía núi non bao bọc. Núi cao hiểm trở, tuy có đường qua nhưng rất hẹp, xưa nay các nước lân cận không thể nào đưa quân công phạt được.
Kinh thành phía tây giáp sông lớn,
[57] chiều nam bắc khoảng 12-13 dặm (3.8-4.2 km), chiều đông tây khoảng 4-5 dặm (1.3-1.6 km). Đất đai thích hợp trồng lúa, có nhiều hoa quả, sản xuất giống ngựa hay là long mã, cùng với uất kim hương, hỏa châu và các loại dược thảo. Khí hậu rét lạnh, nhiều tuyết, ít gió. Y phục bằng lông thú, vải bông. Tánh tình người dân nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, đa phần nhút nhát, yếu đuối.
Đất nước này được rồng hộ trì, hùng mạnh hơn các nước trong khu vực. Hình dung tướng mạo con người tuấn tú xinh đẹp nhưng tánh tình nhiều lọc lừa dối trá. Người dân ham thích học tập, nhiều kiến thức, hiểu biết rộng nhưng tin theo cả tà phái lẫn chánh đạo. Trong nước có hơn 100 ngôi chùa, tăng sĩ hơn 5.000 vị. Có bốn ngọn tháp, tất cả đều do vua Vô Ưu xây dựng, mỗi tháp có hơn một thăng
[58] xá-lợi của Như Lai.
Trong văn khố quốc gia
[59] có ghi chép rằng, vùng đất này trước đây vốn là một hồ lớn có rồng cư ngụ. Ngày xưa, đức Thế Tôn sau khi hàng phục rồng dữ
[60] ở nước Ô-trượng-na, trên đường trở về Trung Ấn Độ,
[61] lúc bay trên không trung ngang qua nơi đây bảo ngài A-nan rằng: “Sau khi ta nhập Niết-bàn, sẽ có vị A-la-hán Mạt-điền-để-ca (Madhyāntika) đến vùng đất này kiến lập quốc gia, đưa dân đến sống và truyền bá, phát triển Phật pháp.”
Đến năm thứ 50 sau khi đức Như Lai tịch diệt, quả nhiên có người đệ tử của Tôn giả A-nan là A-la-hán Mạt-điền-để-ca, chứng đắc sáu thần thông, đầy đủ tám giải thoát. Vị này được nghe lời Phật trước đây từng nói về mình thì sinh tâm hoan hỷ, hết sức vui mừng, liền đến vùng [Ca-thấp-di-la] này, nhập định giữa rừng, trên đỉnh núi lớn, hiện sức đại thần thông biến hóa. Long vương ở hồ này nhìn thấy liền khởi lòng tin sâu, thưa thỉnh về chỗ mong muốn của vị A-la-hán.
Vị A-la-hán nói: “Chỉ xin trong phạm vi của hồ này, bố thí cho ta một chỗ đất hẹp vừa đủ ngồi duỗi gối.”
[62] Long vương nghe vậy liền rút nước [để lấy đất] cúng dường. Vị A-la-hán dùng thần thông hiện thân ngày càng lớn lên [theo chỗ đất], Long vương dùng hết sức để rút nước, đến khi hồ trống rỗng không còn nước [vẫn chưa đủ chỗ]. Long vương phải quay lại cầu xin cho mình một chỗ đất. Vị A-la-hán liền để lại một hồ nước ở phía tây bắc, chu vi hơn 100 dặm (32.3 km) cho Long vương, còn những quyến thuộc khác của Long vương thì sống riêng trong một hồ nhỏ.
Long Vương thưa: “Tất cả đất hồ đã cúng dường, mong Ngài từ nay thường xuyên nhận sự cúng dường của con.”
A-la-hán Mạt-điền-để-ca nói: “Chẳng bao lâu nữa ta sẽ nhập Niết-bàn Vô dư, dù muốn nhận lời thỉnh cầu của ông cũng không thể được.”
Long Vương lại thưa thỉnh rằng: “Vậy xin thỉnh cầu được 500 vị A-la-hán thường nhận sự cúng dường của con, mãi từ nay cho đến khi Chánh pháp diệt mất. Sau khi Chánh pháp diệt mất, con xin lấy lại vùng này làm hồ nước để cư ngụ.” A-la-hán Mạt-điền-để-ca chấp thuận lời thỉnh cầu đó.
Sau khi đã có vùng đất này, ngài Mạt-điền-để-ca liền dùng thần thông tạo ra 500 ngôi chùa. Sau đó, ngài đến các nước khác mua những người thuộc giai cấp hạ tiện hèn kém
[63] đưa về đây để phục vụ chư tăng.
Sau khi ngài Mạt-điền-để-ca nhập diệt, những người thuộc giai cấp thấp hèn kia tự lập người của họ lên làm vua, [thành một nước độc lập]. Những nước chung quanh đều khinh thường cho rằng họ thuộc giai cấp hạ tiện nên không cùng giao hảo kết thân, lại gọi họ là ngật-lợi-đa (kritā), nghĩa là “những người được mua về”. Cho đến nay, vùng đất này đã có rất nhiều sông suối chảy tràn khắp mọi nơi.
[64]
Sau khi đức Như Lai nhập Niết-bàn được 100 năm, vua Vô Ưu của nước Ma-yết-đà (Magadha) lên ngôi, uy thế bao trùm đến tận những vùng xa xôi.
[65] Nhà vua tin sâu Tam bảo, thương yêu nuôi dưỡng hết thảy muôn loài chúng sinh.
[66] Lúc bấy giờ có 500 vị thánh tăng A-la-hán và 500 vị tăng phàm phu, nhà vua đều cung kính cúng dường như nhau, không có gì khác biệt. Có vị tăng phàm phu Ma-ha-đề-bà
[67] là người có trí, hiểu biết rộng rãi, nghiên cứu thâm sâu ý nghĩa danh ngôn và thật tánh, tự mình suy ngẫm soạn ra một bộ luận, nhưng lý lẽ đưa ra trái nghịch với Thánh giáo [của Phật]. Những ai biết đến luận này đều tin theo những lý lẽ [sai trái] đó. Vua Vô Ưu không thể phân biệt được phàm tăng hay thánh tăng, chỉ nghe theo những gì mình thích, thuận theo những người thân cận, liền triệu tập hết thảy tăng chúng đến bờ sông Căng-già, muốn dìm xuống dòng nước sâu, giết chết tất cả.
[68]
Khi ấy, các vị A-la-hán thấy mạng sống bị đe dọa nên dùng thần thông bay trên không trung đến nước Ca-thấp-di-la và ẩn cư trong vùng núi non khe suối. Vua Vô Ưu nghe biết việc ấy thì sợ hãi, cung kính tìm đến tạ lỗi và thỉnh cầu các ngài quay trở về nước Ma-yết-đà. Nhưng các vị A-la-hán không chấp thuận lời thỉnh cầu. Vua Vô Ưu liền vì các vị A-la-hán mà xây dựng 500 ngôi chùa [ở đây], lại đem cả nước Ca-thấp-di-la cúng dường cho chư tăng.
Sau khi đức Như Lai nhập Niết-bàn được 400 năm, vua Ca-nị-sắc-ca (Kanishka) của nước Kiện-đà-la (Gandhara) thuận mệnh trời lên ngôi cai trị, oai phong lan xa, các nước gần xa đều quy phục. Những lúc rảnh việc nước vua đều dành thời gian thực tập Phật pháp. Mỗi ngày vua thỉnh một vị tăng vào cung thuyết pháp, nhưng học thuyết của các bộ phái khác nhau có nhiều khác biệt, khiến nhà vua sinh tâm nghi ngờ sâu xa, không biết làm sao để giải trừ lòng nghi. Lúc đó, Hiếp Tôn giả nói rằng: “Đức Như Lai nhập Niết-bàn đã lâu, thời gian năm tháng quá xa rồi. Hàng đệ tử mỗi người đều bám chấp vào bộ phái của mình, mỗi bậc thầy đều truyền dạy khác nhau, dựa vào chỗ thấy nghe hiểu biết của riêng mình, cho nên đều mâu thuẫn với nhau.”
Nhà vua nghe vậy lấy làm thương cảm, buồn than một lúc lâu rồi thưa với Tôn giả rằng: “Quả nhân kém cỏi, nhờ chút phước lành đời trước nên được nối ngôi trời. Tuy ngày nay cách Phật đã xa nhưng vẫn còn may mắn [được gặp Giáo pháp], nay xin quên đi sự tầm thường kém cỏi của riêng mình mà bạo gan tính chuyện tiếp nối làm hưng thịnh Chánh giáo Như Lai, muốn hợp chung giáo nghĩa các bộ phái để thích nghĩa cho đầy đủ cả Tam tạng.”
Hiếp Tôn giả nói: “Đại vương vốn đã trồng sâu căn lành, có nhiều phước báo, nay lại lưu tâm đến Phật pháp, đó cũng chính là tâm nguyện của bần tăng.”
Đức vua liền bố cáo khắp xa gần, triệu tập hết thảy những bậc hiền thánh, minh triết. Khi ấy, bốn phương hội tụ, muôn dặm cùng về, những bậc tài năng hiền đức, thánh trí đa văn, đều cùng nhau vân tập. Trong suốt bảy ngày hội họp, [đức vua] chu đáo lo đủ tứ sự cúng dường.
[69]
Đến khi chuẩn bị luận bàn Giáo pháp, vua lại sợ số lượng quá đông e có sự xen tạp, nên bạch lên chư tăng rằng: “Bậc chứng thánh quả xin ở lại, những ai còn phiền não hãy lui về.”
Nhưng như thế đại chúng vẫn còn rất đông, vua lại thưa rằng: “Bậc vô học xin ở lại, còn những vị hữu học mời lui về.”
Nhưng vẫn còn khá đông, vua lại thưa rằng: “Vị nào chứng đủ tam minh, lục thông xin ở lại, ai chưa được vậy xin lui về.”
Xem ra trong chúng hội vẫn còn đông, vua lại thưa: “Những vị nào bên trong thông suốt Tam tạng, bên ngoài thấu đạt Ngũ minh
[70] thì xin ở lại, ai chưa được vậy xin lui về.”
Lúc này hội chúng còn lại được 499 vị. Vua muốn tổ chức [Pháp hội] ngay tại nước Kiện-đà-la, nhưng khó khăn vì khí hậu nóng ẩm, nên lại muốn đến thành Vương Xá, nơi động đá ngài Ca-diếp từng kết tập kinh điển [thuở xưa]. Hiếp Tôn giả cùng các vị khác bàn luận rồi nói: “Không thể được. Nơi đó rất đông ngoại đạo, luận thu-yết khác biệt rất nhiều, chúng ta phải biện bác với họ hết cả thời gian, làm sao lo việc trước thuật luận bản. Nay chúng hội đồng lòng đều hướng đến nước Ca-thấp-di-la. Nước ấy bốn bề núi non bao bọc kiên cố, có dược-xoa phòng vệ, đất đai màu mỡ tốt tươi, sản vật phong phú, là nơi các bậc hiền thánh qua lại, hội tập, thần tiên đến đó dạo chơi, dừng nghỉ.”
Hội chúng cùng bàn luận và đồng ý như vậy. Khi ấy, vua Ca-nị-sắc-ca cùng các vị A-la-hán từ nước Kiện-đà-la cùng nhau sang nước Ca-thấp-di-la xây dựng chùa viện, kết tập Tam tạng, lại muốn soạn ra bộ luận Tỳ-bà-sa. Lúc bấy giờ có Tôn giả Thế Hữu (Vasumittra) vừa đến đứng bên ngoài, thân khoác nạp y.
[71]
Các vị A-la-hán bảo ngài Thế Hữu: “Phiền não buộc ràng chưa dứt hết thì những điều nói ra ắt chỉ là sai lầm trái nghịch. Tốt hơn ông nên tránh ra xa, đừng ở nơi này.”
Ngài Thế Hữu đáp: “Các vị hiền hữu! Các ngài đối với các pháp không còn chỗ nghi, nay thay Phật thi hành việc giáo hóa, sắp tập hợp giáo nghĩa Đại thừa để soạn ra luận văn chân chánh. Tôi tuy không được sáng suốt nhưng cũng phần nào hiểu được ý nghĩa những lời vi diệu, đối với văn nghĩa huyền diệu của Tam tạng, chỗ lý lẽ cùng tột của Ngũ minh, cũng đã có sự nghiên cứu sâu xa, thấu đạt tôn chỉ tinh yếu.”
Các vị A-la-hán đáp: “Sao có thể nói như thế được! Ông nên tìm nơi vắng vẻ ẩn cư, nhanh chóng chứng quả vô học rồi hãy vào hội này, khi ấy cũng chưa muộn.”
Ngài Thế Hữu đáp: “Tôi xem [việc chứng] quả vô học chỉ [dễ dàng và không quan trọng] như nhổ bãi nước bọt, nhưng vì lòng tôi quyết cầu quả Phật nên không đi theo đường nhỏ. Ví như tôi ném cuộn tơ này lên, khi nó rơi còn chưa chạm đất thì tôi đã có thể chứng được thánh quả vô học rồi.”
Lúc bấy giờ, các vị A-la-hán đều quở trách nặng nề, nói rằng: “Ông đúng là hạng tăng thượng mạn!
[72] Chư Phật đều tán thán quả vị vô học, ông nên nhanh chóng chứng đắc thì mới dứt được sự nghi ngờ của đại chúng.”
Ngay khi ấy, ngài Thế Hữu ném cuộn tơ lên, chư thiên liền hiện ra giữa không trung giữ lấy cuộn tơ [không cho rơi xuống], rồi thưa thỉnh rằng: “Ngài rồi sẽ chứng đắc Phật quả, tiếp nối đức Di-lặc, làm bậc tôn quý trong Ba cõi, là chỗ nương dựa quy ngưỡng của muôn loài chúng sinh, vì sao ở nơi đây lại muốn chứng quả vị nhỏ nhoi?”
Lúc bấy giờ, các vị A-la-hán đều nhìn thấy sự việc, liền sám hối tạ lỗi và suy tôn thánh đức, thỉnh ngài lên hàng thượng tọa, đối với những việc nghi ngờ trong khi bàn luận đều theo ý kiến của ngài để quyết định.
Năm trăm vị hiền thánh này, trước tiên soạn 100.000 bài tụng luận Ổ-ba-đệ-thước
[73] để thích nghĩa tạng Tố-đát-lãm.
[74] Sau đó tạo 100.000 bài tụng luận Tỳ-nại-da Tỳ-bà-sa
[75] để thích nghĩa tạng Tỳ-nại-da.
[76] Sau đó nữa tạo 100.000 bài tụng luận A-tỳ-đạt-ma Tỳ-bà-sa
[77] để thích nghĩa tạng A-tỳ-đạt-ma.
[78]
Như vậy, tổng luận gồm 300.000 bài tụng, có 9.600.000 âm tiết,
[79] thích nghĩa đầy đủ Tam tạng: Kinh, Luật, Luận, truyền lại đến muôn đời, không một ý nghĩa nào không giải thích đến tận cùng chi tiết, cứu xét chỗ cạn sâu. Nhờ đó mà giáo nghĩa Đại thừa lại được sáng tỏ, những lời vi diệu lại được hiển bày, rộng truyền khắp chốn, làm chỗ nương theo cho hàng hậu học.
Vua Ca-nị-sắc-ca liền cho làm những lá đồng đỏ để khắc toàn bộ luận văn lên, dùng hộp đá đựng vào phong kín lại, rồi xây tháp để chứa giữ bên trong, lệnh cho các thần dược-xoa phòng vệ chung quanh đất nước Ca-thấp-di-la, không để cho những kẻ ngoại đạo mang luận văn này ra ngoài. Những ai muốn cầu học thì phải ở trong phạm vi nước Ca-thấp-di-la để học.
Sau khi mọi việc đã hoàn tất, vua Ca-nị-sắc-ca rút quân trở về kinh đô nước Kiện-đà-la. Khi đi ra cửa thành phía tây của nước Ca-thấp-di-la, vua quay mặt về hướng đông mà quỳ lạy, lại dâng cả nước này lên cúng dường chư tăng.
Về sau, khi vua Ca-nị-sắc-ca đã băng hà, con cháu của những kẻ ngật-lợi-đa
[80] tại đây lại tự lập vương quyền, rồi trục xuất chư tăng, hủy hoại Phật pháp.
Đức Như Lai nhập Niết-bàn rồi, sau khoảng 500 năm đến 600 năm,
[81] có vua Hứ-ma-đát-la
[82] (Tuyết Sơn Hạ) của nước Đổ-hóa-la (Tukhara), vốn có nguồn gốc tổ tiên thuộc dòng họ Thích, tiếp nối vương nghiệp tiền nhân, cai trị lãnh thổ. Đức vua là người dưỡng tâm nơi đất Phật, quý trọng Chánh pháp, nghe biết việc những người ngật-lợi-đa hủy diệt Phật pháp [ở nước Ca-thấp-di-la], liền chiêu tập 3.000 người gan dạ, dũng mãnh trong nước mình, giả làm một đoàn thương nhân mang theo nhiều hàng hóa, vật báu, trong đó cất giấu binh khí, cùng đi vào nước Ca-thấp-di-la.
Vua Ca-thấp-di-la đặc biệt tổ chức tiệc đãi khách. Trong đoàn thương nhân, [vua Tuyết Sơn Hạ] đã chọn ra 500 người dũng mãnh mưu lược, mỗi người đều giấu dao nhọn trong tay áo, cùng nhau mang các báu vật lên dâng cho vua Ca-thấp-di-la. [Nhân lúc vua Ca-thấp-di-la đứng lên bước đến nhận lễ vật], vua Tuyết Sơn Hạ ngay lập tức giật lấy mão vua, chiếm lấy ngai vàng. Vua Ca-thấp-di-la bất ngờ hoảng hốt chưa biết phải làm gì thì đã bị [người của vua] Tuyết Sơn Hạ chém rơi đầu. Vua Tuyết Sơn Hạ liền tuyên bố với quần thần rằng:
“Ta là vua Tuyết Sơn Hạ của nước Đổ-hóa-la, vì giận kẻ hạ tiện làm điều trái nghịch Chánh pháp nên hôm nay đến đây giết người có tội, trăm họ dân thường đều không có lỗi.”
Sau đó, các quan chức triều đình đều bị đuổi sang nước khác. Đất nước bình ổn rồi, vua Tuyết Sơn Hạ liền triệu thỉnh chư tăng, xây dựng chùa viện [để chư tăng] an ổn tu hành như xưa. Trên đường quay về nước, khi ra khỏi cửa thành phía tây của nước Ca-thấp-di-la, vua cũng quay mặt về hướng đông quỳ lạy, [dâng cả nước này lên] cúng dường chư tăng.
Những người ngật-lợi-đa ở nước này, nhiều phen [vì xúc phạm chư tăng mà] bị trừng phạt nghiêm khắc, tộc họ bị chém giết, cho nên nhiều đời tích tụ oán hờn, ghét bỏ Phật pháp. Trải qua nhiều năm tháng, họ cũng giành lại được vương quyền. Vì những lý do trên, nước này không sùng mộ tín ngưỡng [Phật pháp], chỉ lưu tâm đến các đền thờ Phạm thiên của ngoại đạo mà thôi.
Từ kinh thành mới ở đây đi về hướng đông nam hơn 10 dặm (3.2 km), về hướng bắc của thành cũ, có một ngọn núi lớn. Phía nam của núi có một ngôi chùa, tăng sĩ khoảng hơn 300 người. Nơi đây có một ngọn tháp, trong có xá-lợi răng Phật, dài khoảng một tấc rưỡi (5 cm), màu trắng ngả vàng, vào những ngày trai thường phát ra ánh sáng.
Thuở xưa, những người ngật-lợi-đa hủy diệt Phật pháp, chư tăng phải giải tán, mỗi người tự tìm nơi thích hợp để ở. Có một vị sa-môn [từ đây] đi khắp các nước vùng Ấn Độ để chiêm ngưỡng, lễ bái các thánh tích, hết sức chí thành. Về sau, khi nghe trong nước đã bình yên ổn định liền lên đường quay về. Giữa đường bỗng gặp một bầy voi đang lồng lộn ngang dọc trên một đồng cỏ, kêu la chấn động. Vị sa-môn thấy vậy liền leo lên cây để trốn tránh. Bấy giờ, bầy voi kéo nhau chạy đến, hút nước dưới hồ phun vào gốc cây rồi cùng nhau lay gốc, khiến cây bật gốc ngã xuống rồi bắt lấy vị sa-môn ấy, đặt trên lưng voi mà chạy đi, vào sâu trong rừng, đến chỗ có một con voi bệnh đang nằm, ung nhọt đau đớn. Voi bệnh dùng vòi kéo tay vị tăng đưa đến chỗ bị đau, thì ra là bị một khúc tre khô đâm sâu vào chân. Vị sa-môn liền nhổ khúc tre khô ra, lấy thuốc đắp vào, rồi xé một mảnh vải từ tấm y để băng bó chỗ đau ở chân voi. Có một con voi lớn mang một hộp vàng đến cho voi bệnh. Con voi bệnh nhận lấy rồi đưa qua cho vị sa-môn, mở ra liền thấy trong đó là xá-lợi răng Phật.
Bầy voi vây quanh, vị tăng không thể nào ra khỏi. Hôm sau, đến giờ thọ trai, mỗi con voi đều mang đến những trái cây ngon lạ, bày ra thành bữa ăn trưa. Vị tăng ăn xong, đàn voi liền đưa ra khỏi rừng, chở đi xa đến mấy trăm dặm rồi mới đặt xuống, mỗi con voi đều quỳ lạy rồi mới bỏ đi.
Vị sa-môn ấy về đến biên giới phía tây nước Ca-thấp-di-la, đi thuyền qua một con sông chảy xiết, đến khoảng giữa dòng thì thuyền chòng chành sắp lật. Người đi cùng thuyền đều nói: “Nay thuyền sắp lật, tai họa này là do sa-môn, chắc hẳn có mang theo xá-lợi của Như Lai nên loài rồng muốn lấy.” Chủ thuyền xét hỏi, quả nhiên có xá-lợi răng Phật. Lúc ấy, vị sa-môn đưa hộp xá-lợi răng Phật lên mà nói với rồng ở dưới sông rằng: “Nay ta tạm gửi cho ngươi, chẳng bao lâu sẽ quay lại lấy.”
Rồi vị sa-môn không qua sông nữa mà rời thuyền, lại ngoái nhìn dòng sông mà than rằng: “Bởi ta không học chú thuật nên mới bị loài rồng ức hiếp.”
Vị sa-môn liền quay lại Ấn Độ lần nữa để học phép trị rồng. Sau 3 năm quay về, đến bến sông ấy vừa định thiết lập đàn tràng thì rồng đã vội mang hộp xá-lợi răng Phật lên trả lại. Vị sa-môn liền mang về nước, [đặt trong tháp] ở ngôi chùa này mà thờ phụng cúng dường.
Từ ngôi chùa này đi về hướng nam khoảng 14-15 dặm (4.5-4.8 km) có một ngôi chùa nhỏ, trong chùa có pho tượng đức Bồ Tát Quán Tự Tại ở tư thế đứng.
Như có người vì muốn được thấy sắc thân Bồ Tát mà phát lời thệ nguyện [nếu không được thấy sẽ] nhịn ăn cho đến chết, thì từ nơi tượng này liền hiện ra đầy đủ sắc thân vi diệu của Bồ Tát [cho người ấy được thấy].
Từ ngôi chùa nhỏ này đi về hướng đông nam hơn 30 dặm (9.7 km) thì gặp một ngọn núi lớn, có ngôi chùa cổ, hình thức xây dựng rất tráng lệ to lớn nhưng đã hoang phế hầu hết, chỉ còn lại nơi góc chùa có dựng lên một căn gác nhỏ. Tăng sĩ nơi đây chừng hơn 30 vị, thảy đều học theo giáo pháp Đại thừa. Thuở xưa, luận sư Tăng-già-bạt-đà-la
[83] đã soạn bộ luận Thuận chánh lý
[84] ở nơi này.
Các tháp ở hai bên chùa đều còn thờ xá-lợi của các vị Đại A-la-hán, thú rừng vượn núi hái hoa cúng dường quanh năm không ngớt, như thể vâng theo một lệnh truyền nào đó. Cho nên trong núi này có nhiều dấu tích linh hiển, như vách đá nứt ngang, hoặc trên đỉnh núi có lưu dấu ngựa.
Những dấu tích này có hình trạng kỳ quái, đều do các vị A-la-hán, sa-di trong lúc tụ họp đùa vui, dùng ngón tay vung lên vẽ thành, hoặc khi cưỡi ngựa qua lại tạo ra. Những dấu tích như vậy [rất nhiều], khó có thể kể hết.
Từ ngôi chùa có [tháp] thờ xá-lợi răng Phật, đi về hướng đông hơn 10 dặm (3.2 km), nơi sườn núi phía bắc có một ngôi chùa nhỏ. Đây là nơi ngày xưa Đại luận sư Sách-kiến-địa-la
[85] soạn ra bộ luận Chúng sự phần Tỳ-bà-sa.
[86] Trong khuôn viên ngôi chùa nhỏ này có một ngọn tháp cao khoảng 17 mét, là nơi thờ xá-lợi của một vị A-la-hán lưu lại.
Thuở xưa, vị A-la-hán này thân hình rất to lớn, ăn uống nhiều như voi. Người thời bấy giờ chế giễu rằng: “Chỉ biết ăn no bụng, làm sao hiểu được lẽ đúng sai?” Khi vị A-la-hán này sắp nhập diệt, liền bảo mọi người rằng: “Không bao lâu nữa ta sẽ nhập Niết-bàn Vô dư, nên muốn vì các ông thuyết giảng diệu pháp mà tự thân ta đã chứng đắc.”
Mọi người nghe như vậy đều cười cợt chế giễu, nhưng cũng tập trung lại để xem sự thể thế nào. Khi đó, vị A-la-hán bảo mọi người rằng: “Hôm nay ta sẽ vì các người mà nói về nhân duyên của bản thân ta. Thuở trước do nghiệp báo ta phải sinh làm thân voi, ở miền Đông Ấn Độ, trong chuồng của vua. Bấy giờ, ở nước ấy có một vị sa-môn muốn đi khắp vùng Ấn Độ để tìm kiếm thu thập Thánh giáo, gồm Kinh điển và các bộ luận. Khi ấy, nhà vua liền trao tặng ta cho vị sa-môn kia để dùng chở kinh Phật, nhân đó đi đến xứ này. Sau đó không bao lâu thì ta chết. Nhờ công đức chở kinh nên được tái sinh làm người, lại cũng nhờ phúc đức đời trước tích tụ nên sớm được xuất gia, chuyên cần tinh tấn cầu pháp xuất ly, không một phút giây ngừng nghỉ, [nhờ vậy nên đã] chứng đắc sáu thần thông, dứt trừ được lòng dục trong Ba cõi. Nhưng việc ăn uống [quá nhiều] là do tập khí đời trước hãy còn, dù ta vẫn thường tiết chế tự thân, chỉ ăn uống một phần ba [so với nhu cầu].”
Tuy đã nói ra như vậy nhưng mọi người đều chưa tin. Vị A-la-hán liền bay lên hư không, nhập định Hỏa quang, toàn thân bốc ra khói lửa, rồi nhập diệt [ngay trên hư không]. Di thể còn lại rơi xuống đất, mọi người liền xây dựng tháp này để lưu giữ thờ phụng.
Từ kinh thành [mới] đi về hướng tây bắc hơn 200 dặm (64.6 km) thì đến chùa Thương Lâm,
[87] là nơi thuở xưa Luận sư Bố-lạt-noa
[88] soạn bộ luận Thích Tỳ-bà-sa.
[89]
Từ kinh thành đi về hướng tây khoảng 140-150 dặm (45.2-48.5 km) thì đến bờ phía bắc một con sông lớn, tiếp giáp với mặt phía nam ngọn núi lớn. Nơi đây có một ngôi chùa của Đại chúng bộ, tăng sĩ khoảng hơn 100 vị. Ngày xưa, luận sư Phật-địa-la (Bodhila) đã soạn bộ luận Tập chân
[90] của Đại chúng bộ tại nơi đây.
Từ đây đi về hướng tây nam, vượt núi non hiểm trở, hơn 700 dặm (226 km) thì đến nước Bán-nô-ta, thuộc miền Bắc Ấn.
7. Nước Bán-nô-ta
Nước Bán-nô-ta
[91] chu vi hơn 2.000 dặm (646 km), nhiều sông núi, ruộng đồng nhỏ hẹp, lúa má gieo trồng theo mùa, cây trái tốt tươi, hoa quả rất nhiều, trồng nhiều mía đường, không có nho. Ngoài ra còn có các loại trái cây như am-một-la, ô-đạm-bạt-la (sung), mậu-già (chuối hột)... Nhà nào cũng trồng nên cây trái rậm rạp như rừng, vì người dân rất thích mùi vị các loại trái cây này.
Khí hậu ấm nóng, tính người mạnh mẽ, rắn rỏi. Y phục may bằng vải dệt từ bông vải. Người dân chân chất, thẳng thắn, có niềm tin thuần thành nơi Tam bảo.
Trong nước có 5 ngôi chùa, nhưng đa phần đã hoang phế, sụp đổ.
Nước không có vua nên phụ thuộc vào nước Ca-thấp-di-la. Nơi ngôi chùa ở phía bắc kinh thành có ít tăng sĩ. Phía bắc chùa này có một ngọn tháp bằng đá, có rất nhiều điều linh ứng.
Từ đây đi về hướng đông nam hơn 400 dặm (129.2 km) thì đến nước Át-la-xà-bổ-la, thuộc miền Bắc Ấn.
8. Nước Át-la-xà-bổ-la
Nước Át-la-xà-bổ-la
[92] chu vi hơn 4.000 dặm (1.292 km), chu vi kinh thành hơn 10 dặm (3.2 km), địa hình hết sức hiểm trở kiên cố, nhiều đồi núi, đồng bằng nhỏ hẹp, mùa màng thu hoạch không nhiều. Đất đai, khí hậu, cây trồng đều giống như nước Bán-nô-ta. Phong tục mạnh mẽ rắn rỏi, tính người dũng cảm, nhanh nhẹn. Nước không có vua nên phụ thuộc nước Ca-thấp-di-la. Trong nước có 10 ngôi chùa, tăng sĩ rất ít. Có một đền thờ Phạm thiên, ngoại đạo rất đông.
Kể từ nước Lam-ba đến nước này, nói chung người dân hình mạo thô kệch xấu xí, tánh tình thô bỉ, hung bạo, nói năng dung tục, cộc cằn, xem thường lễ nghi, nhân nghĩa, không thuộc về khu vực văn minh chính của xứ Ấn Độ mà chỉ là những vùng biên giới xa xôi, tập tục còn hẹp hòi, lạc hậu.
Từ nơi đây theo hướng đông nam, xuống núi, vượt sông,
[93] đi hơn 700 dặm (226 km) thì đến nước Trách-ca, thuộc miền Bắc Ấn.
_______________________________________________
CHÚ THÍCH
[1] Đại Chánh tạng ở đây dùng chữ “bộ” (捕) nhưng phần sau dùng đúng chữ “bổ”(補).
[2] Ô-trượng-na (S. Udyāna, H. 烏仗那), có nghĩa là vườn hoa, do trước đây có ngự uyển của vua A-dục ở nước này. Ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Ô-trường (烏場) hoặc Ô-trà (烏茶) đều không đúng. Vị trí nước này hiện nay có thể là vùng thung lũng Swat, tỉnh Khyber Pakhtunkhwa, nước Pakistan.
[3] Sông Tô-bà-phạt-tốt-đổ (S. Śubhavastu, H. 蘇婆伐窣堵河), ngày nay gọi là sông Swat, nằm ở vùng phía bắc tỉnh Khyber Pakhtunkhwa của Pakistan, chảy từ vùng cao nguyên của dãy núi Hindu Kush xuống thung lũng Kalam, sau đó chảy giữa thung lũng Swat rộng lớn hơn.
[4] Tức Đàm-vô-đức bộ (Phạn ngữ: Dharmaguptaka, Hán dịch: Pháp Chính, Pháp Hộ, Pháp Kính, Pháp Mật là tên của bộ chủ. Cũng gọi là Đàm-ma-cúc-đa). Luật tạng của bộ này gồm: Luật Tứ phần 60 quyển; Giới bản gồm: Tứ phần tăng giới bản, 1 quyển, Tứ phần luật tỳ-kheo giới bản, 1 quyển, Tứ phần tỳ-kheo ni giới bản, 1 quyển. Tất cả đều do ngài Phật-đà-da-xá dịch sang Hán ngữ vào đời Diêu Tần.
[5] Tức Di-sa-tắc bộ (Phạn ngữ: Mahīśāsaka, Hán dịch: Bất trước hữu vô quán). Luật tạng của bộ này là Luật Ngũ phần, 30 quyển, do ngài Phật-đà-thập dịch vào đời Lưu Tống; Giới bản là Sa-di-tắc ngũ phần giới bản, 1 quyển, do ngài Phật-đà-thập dịch vào đời Lưu Tống; Ngũ phần tỳ-kheo ni giới bản, 1 quyển, do ngài Minh Huy sưu tập vào đời Lương.
[6] Tức Ca-diếp-di bộ (Phạn ngữ: Kāśyapīya, Hán dịch: Trùng không quán). Luật tạng của bộ này là luật Giải thoát, Giới bản là Giải thoát giới kinh 1 quyển, do ngài Bát-nhã-lưu-chi dịch vào đời Nguyên Ngụy.
[7] Tức Tát-bà-đa bộ (P. Sarvāstivāda) Hán dịch: Nhất thiết hữu (一切有), cũng gọi Tát-bà-đế-bà). Luật tạng của bộ này gồm: Luật Thập tụng, 61 quyển, do ngài Phất-nhã-đa-la và ngài Đàm-ma-lưu-chi cùng dịch vào đời Diêu Tần; Giới bản là Thập tụng tỳ-kheo Ba-la-đề-mộc-xoa giới bản, 1 quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Diêu Tần; Thập tụng tỳ-kheo ni ba-la-đề-mộc-xoa giới bản, 1 quyển, do ngài Pháp Hiển sưu tập vào đời Lưu Tống; Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ giới kinh, 1 quyển, do ngài Nghĩa Tịnh dịch vào đời Đường, Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ bật-sô ni giới kinh 1 quyển, do ngài Nghĩa Tịnh dịch vào đời Đường.
[8] Tức Ma-ha-tăng-kỳ bộ (Phạn ngữ: Mahāsaṅghika): Luật tạng của bộ này là luật Ma-ha-tăng-kỳ, 40 quyển, do các ngài Pháp Hiển và Phật-đà-bạt-đà-la cùng dịch vào đời Đông Tấn; Giới bản là Ma-ha-tăng-kỳ luật đại tỳ-kheo giới bản, 1 quyển, do ngài Phật-đà-bạt-đà-la dịch vào thời Đông Tấn, Ma-ha-tăng-kỳ tỳ-kheo ni giới bản, 1 quyển, do các ngài Pháp Hiển và Giác Hiền cùng dịch vào đời Đông Tấn.
[9] Yết-lợi (S. Kali, H. 羯利), Hán dịch là Đấu Tránh (鬪諍). Ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Ca-lợi (哥利) là không đúng. Trong kinh Kim cang có đề cập đến câu chuyện này.
[10] Theo truyền thuyết thì suối này là nơi cư ngụ của con rồng chúa tên Apalāla.
[11] Kinh văn các bản Đại Chánh, Vĩnh Lạc đều ghi chỗ này là “昏夕 - hôn tịch”, nghĩa là hoàng hôn. Tây vực ký hiệu chú dẫn các bản Kính Sơn, Kim Lăng, Phương Chí đều ghi là “晨夕 - thần tịch”, nghĩa là buổi sáng sớm và buổi tối. Về văn cảnh, “thần tịch” đối nghĩa với “春夏 - xuân hạ” thì hợp lý hơn nên chúng tôi chọn theo.
[12] Bản Đại Chánh tạng dùng chữ “塔 - tháp” là ngọn tháp, ở đây không hợp nghĩa. Bản Càn Long, Vĩnh Lạc đều dùng chữ “榻 - tháp” là cái giường nằm dài và hẹp.
[13] Chú thích của nguyên tác: Chữ tụng này, [Phạn ngữ là gāthā], trước đây phiên âm là già (伽), tức là nói rút gọn, hoặc phiên âm kệ-tha (偈他) là không đúng. Nay theo âm đọc chính xác phải đọc là già-tha (伽他), dịch sang Hán ngữ là tụng (頌), tức là bài kệ tụng có 32 âm tiết.
[14] Ma-ha-phạt-na (S. Ma-havana, H. 摩訶伐那), Hán dịch là Đại Lâm (大林).
[15] Tát-phược-đạt (S. Sar-vadā, H. 薩縛達), Hán dịch là Nhất Thiết Thí (一 切施), nghĩa là bố thí hết tất cả.
[16] Ma-du (S. Mayū, H. 摩愉), nguyên tác chú rằng chữ “ma” nghĩa là đậu.
[17] Bản Hán văn là “拘胝光明 - câu-chi quang minh”. Chữ “câu-chi” (S. koṭi, H. 拘胝) là từ ngữ chỉ số lượng, thường được hiểu là 10.000.000.
[18] Truyền thuyết này kể rằng, đức Phật (khi đó là một vị Bồ Tát) vì muốn được nghe Kinh điển nên chấp nhận điều kiện là phải chép lại những kinh được nghe bằng cách chẻ xương làm bút, lấy máu làm mực và lột da làm giấy để viết lên.
[19] Tỳ-ca (S. Sivika, H. 毘迦), Hán dịch là “與 - dữ”, nghĩa là đưa cho, cấp cho. Ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Thi-tỳ (尸毘) là không đúng.
[20] Truyền tích này kể rằng, khi đó chim ưng đang rượt đuổi chim bồ câu để ăn thịt. Chim bồ câu tìm đến chỗ Phật cầu cứu. Đức Phật muốn che chở chim bồ câu nhưng chim ưng viện lẽ mình đang rất đói, đức Phật liền tự cắt thịt mình đưa cho chim ưng ăn thay vì ăn thịt chim bồ câu. Nhờ đó bồ câu được sống.
[21] Tát-bầu-sát-địa (S. Sarpauṣadhi, H. 薩裒殺地), Hán dịch là xà dược (蛇藥), nghĩa là con rắn dùng làm thuốc trị bệnh.
[22] Lô-hê-đát-ca (S. lohitākṣa, H. 盧醯呾迦), Hán dịch là “赤 - xích”, nghĩa là màu đỏ.
[23] Dược-xoa (S. yakṣa, H. 藥叉), ngài Huyền Trang cho rằng những vị trước đây phiên âm dạ-xoa (夜叉) là không đúng. Truyền tích này được kể trong kinh Hiền Ngu, quyển 2: Vua Từ Lực lấy Chánh pháp trị dân, dạy người dân thực hành Thập thiện. Trong nước có 5 con quỷ dạ-xoa vốn thường hút máu người để sống. Vì hết thảy người dân đều tu Thập thiện, được thiện thần bảo hộ nên dạ-xoa không thể hại người, không còn ai để hút máu, liền đến than thở oán trách quốc vương. Vua Từ Lực động lòng thương, dùng gươm bén tự cắt vào người 5 chỗ, cho phép 5 con quỷ dạ-xoa đến hút máu ngài để không bị chết đói.
[24] Át-bộ-đa (S. Adbhuta, H. 遏部多), Hán dịch là “奇特 - kỳ đặc”.
[25] Phần lớn những chữ tinh xá (精舍) được dùng trong sách này không mang nghĩa là nơi chư tăng tu tập, mà lại thường dùng để chỉ một kiến trúc như bệ thờ, đôi khi được xây bên trong khuôn viên các chùa. Tuy ý nghĩa này khác với ý nghĩa chúng ta thường hiểu ngày nay nên dễ gây nhầm lẫn, nhưng chúng tôi không tìm thấy danh từ nào khác để có thể thay thế chỉ cho loại kiến trúc đặc biệt này.
[26] Bồ Tát A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la (S. Avalokiteśvara, H. 阿縛盧枳低濕伐羅菩薩), Hán dịch là Quán Tự Tại (觀自在). Nguyên tác có thêm chú thích: “Nếu đọc nối liền thì như trên, nhưng nếu tách rời ra thì phần trước đọc là A-phược-lô-chỉ-đa (Avalokita) có nghĩa là quán (觀), phần sau phải đọc là y-thấp-phạt-la (iśvara), có nghĩa là tự tại (自在). Trước đây dịch là Quang Thế Âm (光世音) hay Quán Thế Âm (觀世音), hoặc Quán Thế Tự Tại (觀世自在), đều không đúng.”
[27] Núi Lam-bột-lô (S. Lambura, H. 藍勃 盧山). Vị trí ngọn núi này hiện nay nằm về phía bắc Ka-bul.
[28] Theo niềm tin thuở xưa, những hồ nước lớn và sâu thường có rồng ở nên gọi là hồ rồng.
[29] Tỳ-lô-trạch-ca (S. Virūḍhaka, H. 毘盧擇迦), nguyên tác chép là Tỳ-lô-thích-ca (毘盧釋迦), sách Tây vực ký hiệu chú căn cứ Kim Lăng bản và Trung bản cho rằng chữ thích (釋) ở đây vốn là chữ trạch (擇) in sai. Vì đây đúng là tên Phạn ngữ của vua Lưu Ly nên phán đoán này là chính xác.
[30] Những người họ Thích khi ấy chủ trương không dùng bạo lực chống lại, vì như vậy là phạm vào giới giết hại, không xứng đáng là dòng họ của đức Phật, cho nên họ đã trục xuất những người tự ý chống lại vua Tỳ-lô-trạch-ca.
[31] Ốt-đát-la-tê-na (S. Ut-tarāṣāḍha, H. 嗢呾羅犀那王), Hán dịch là Thượng Quân (上軍).
[32] Mạt-điền-để-ca (S. Madhyāntika, H. 末田底迦), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Mạt-điền-địa (末田地) là rút gọn mà không đúng.
[33] Đổ-sử-đa (S. Tuṣita, H. 覩史多), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Đâu-suất-đà (兜率他) hoặc Đâu-thuật-đà (兜術他) đều không đúng.
[34] Nước Bát-lộ-la (S. Bolor, H. 鉢露羅國), vị trí hiện nay có thể là vùng Baltistan thuộc nước Pakistan. Ngài Huyền Trang có thể đến đây vào nửa đầu tháng 6 năm Trinh Quán thứ ba (629).
[35] Mô tả này cho thấy thành nằm ở hướng bắc của dòng sông, nên có thể đoán được đây là đoạn sông chảy theo hướng đông tây. Ngay sau đó lại nói sông này “chảy về hướng nam”, là hướng chảy chính của cả dòng sông. Chi tiết thú vị nơi đây giúp ta biết được thành Ô-đạt-ca-hán-đồ tọa lạc gần khúc sông có dòng chảy đặc biệt theo hướng đông tây, hiện vẫn còn được thấy trên thực địa.
[36] Nước Đát-xoa-thỉ-la (S. Takṣaśilā, H. 呾叉始羅國), vị trí ngày nay là tỉnh Punjab thuộc nước Pakisstan. Mặc dù kinh thành cổ hiện nay đã xác định là thành phố Taxila thuộc Punjab, Pakistan, nhưng một thời gian dài trong quá khứ địa danh này đã không được xác định.
[37] Xem đầy đủ câu chuyện này trong Phúc cái chánh hạnh sở tập kinh (福蓋正行所集經), ĐCT, T32, 1671, tr.741c, d.25 - tr.742a, d.11. Lược trích: “Vào thời Phật Ca-diếp ra đời, vị tỳ-kheo này sống độc cư ở chỗ có những cây y-la (ela), chuyên tu thiền định. Một hôm, do vào định sâu và xuất định muộn hơn bình thường, ông đắp y mang bát vào làng khất thực lúc đã xế chiều. Dân làng thấy vị tỳ-kheo khất thực không đúng giờ thì chê cười, khiến ông bực tức. Trở về nơi cư ngụ, trong lúc bực tức đi lại, những cành lá cây y-la chạm vào người ông, càng làm ông khó chịu. Trong cơn bực tức, ông bứt phá hết lá cây ném xuống đất. Đức Phật Ca-diếp khi ấy biết chuyện đến khuyên dạy, quở trách. Thay vì nhận lỗi ông lại nói lời xúc phạm với Phật, bảo rằng cây cối là giống vô tình, dù phá hoại cũng không có tội. Vì tất cả những điều sai trái đó, vị tỳ-kheo này đã phải tái sinh làm con rồng ở hồ Y-la-bát-đát-la.” Trong kinh này gọi ông là Y-la Diệp Long vương (伊羅葉龍王).
[38] Bản Hán văn là “彈指慰問 - đàn chỉ ủy vấn”. “Đàn chỉ” nghĩa đen là khảy móng tay, được dùng để chỉ một thời gian rất ngắn (như khảy móng tay). “Ủy vấn” nghĩa đen là hỏi han, thăm hỏi, trong trường hợp này là khấn nguyện với long vương để bày tỏ mong muốn cầu mưa hay cầu nắng.
[39] Chiến-đạt-la-bát-thích-bà (S. Chandrāprabha, H. 達羅鉢剌婆), Hán dịch là Nguyệt Quang (月光).
[40] Câu-ma-la-la-đa (S. Kumāralabdha, H. 拘摩羅邏多), Hán dịch là Đồng Thọ (童受).
[41] Bản Hán văn là Kinh bộ (經部), tức Kinh lượng bộ (S. Sautrāntika, H. 經量部). Trong Tam tạng Kinh điển, bộ phái này chỉ thừa nhận Kinh tạng là do Phật thuyết.
[42] Câu-lãng-noa (S. Kunāla, H. 拘浪拏).
[43] Cù-sa (S. Ghosa, H. 瞿沙), Hán dịch là Diệu Âm (妙音).
[44] Bản Hán văn là “Bồ-đề thụ già-lam - 菩提樹伽藍“, chúng tôi xem như tên riêng của chùa để dễ phân biệt. Trong thực tế đây có thể không phải tên riêng, mà cụm từ này dùng để chỉ ngôi chùa ở dưới cây bồ-đề.
[45] Bốn biện tài vô ngại (Tứ vô ngại biện tài): gồm Pháp vô ngại biện tài, Từ vô ngại biện tài, Nghĩa vô ngại biện tài và Nhạo thuyết vô ngại biện tài.
[46] Ba minh (Tam minh): gồm Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh.
[47] Trong bản dịch sang Anh ngữ, Samuel Beal có đặt một chú thích cho rằng khoảng cách 700 dặm này tương đương với 140 mile. Mỗi mile bằng 1.6 km, nên 140 mile là 224 km. Chi tiết này cho thấy Samuel Beal cũng đã tính mỗi dặm trong sách này bằng khoảng 0.3 km.
[48] Nước Tăng-ha-bổ-la (S. Siṃhapura, H. 僧訶補羅國). Vị trí kinh thành nước này ngày nay có thể là vùng thung lũng Jhelum, nằm trên sườn phía bắc của dãy núi Salt thuộc nước Pakistan. Địa danh này cũng có thể liên quan đến ngôi đền Katas Raj hiện nay vẫn còn. Pháp sư truyện chép rằng: “從此東南七百餘里聞有僧訶補羅國“ - Tùng thử đông nam thất bách dư lý văn hữu Tăng-ha-bổ-la quốc.” (Về hướng đông nam cách đây hơn 700 dặm nghe nói có nước Tăng-ha-bổ-la.) Theo câu này thì ngài Huyền Trang không đi đến Tăng-ha-bổ-la. (ĐCT, T50, 2053, tr.231a, d.1-2.)
[49] Bản Hán văn là “本師 - bổn sư”, dùng với ý nghĩa là vị thầy đầu tiên, tức là người sáng lập. Thật ra thì vị này sáng lập Kỳ-na giáo (耆那教) vào khoảng thế kỷ 6 đến thế kỷ 5 trước Công nguyên và giáo phái Bạch y này là một phân phái được hình thành sau đó khoảng 200 năm.
[50] Bản Hán văn là “多竊佛經之義 - đa thiết Phật kinh chi nghĩa”, hiểu sát nghĩa là “trộm lấy”.
[51] Bật-sô (S. bhikṣu, H. 苾芻), cách phiên âm khác là tỳ-kheo, chỉ vị tăng xuất gia trong đạo Phật.
[52] Nguyên tác Hán văn chép đoạn này là: “從此復還呾叉始羅國北界渡信度河南東行二百餘里 - Tùng thử phục hoàn Đát-xoa-thỉ-la quốc bắc giới độ Tín-độ hà nam đông hành nhị bách dư lý...” Nếu hiểu hai chữ “nam đông” chỉ hướng đi thì phải là “đông nam” như trong Pháp sư truyện ở đoạn tương ứng. Nhưng như vậy thì việc qua sông Tín-độ lần thứ hai là không hợp lý, vì sẽ trở lại bờ phía bắc, tức là phía tây. Do vậy chúng tôi cho rằng ở đây câu văn không nói việc qua sông mà chỉ nói đến nơi ngài Huyền Trang trước đó đã qua sông Tín-độ để đến biên giới phía bắc nước Đát-xoa-thỉ-la. Sau đó từ đây mới đi về hướng đông để đến nước Ô-lạt-thi. Câu văn trong nguyên tác do đó cần được viết đúng là “...bắc giới độ Tín-độ hà nam, đông hành nhị bách dư lý...” (... biên giới phía bắc nơi đã qua bờ phía nam sông Tín-độ, rồi đi theo hướng đông hơn 200 dặm...). Hơn nữa, từ nước Đát-xoa-thỉ-la đã được mô tả đi về hướng đông nam hơn 700 dặm đến nước Tăng-ha-bổ-la, nếu như câu này cũng nói “đi về hướng đông nam” (như theo Pháp sư truyện) thì chính là cùng với hướng đi cũ, không hợp lý. Vì thế, chỉ có thể hiểu đúng đoạn mô tả này là từ Tăng-ha-bổ-la quay về chỗ cũ ở phía bắc nước Đát-xoa-thỉ-la, và từ đó đi về hướng đông mới đến nước Ô-lạt-thi. Có lẽ Pháp sư truyện đã không hiểu đúng hai chữ “nam, đông” trong câu này nên tự ý sửa lại thành “đông nam” cho hợp lý.
[53] Ma-ha-tát-đỏa (S. Mahāsattva, H. 摩訶薩埵). Vương tử này là một vị Bồ Tát tiền thân của đức Phật Thích-ca.
[54] Đại Chánh Tạng dùng “烏擇(音徒) - ô trạch (âm đồ)”, tức là chữ “trạch” (擇) này phải được đọc theo âm “đồ”. Vĩnh Lạc Bắc Tạng thay hẳn chữ trạch (擇) bằng chữ “đồ” (菟). Hai chữ “ô đồ” (烏菟), đôi khi cũng viết là “於菟” (ư đồ), dùng thay chữ “hổ” (虎). Cách dùng này đã thấy trong “吳都賦 - Ngô đô phú“ đời Tây Tấn của Tả Tư (左思): “烏菟之族 ,犀兕之黨 “- ô đồ chi tộc, tê hủy chi đảng” và được giải thích rằng đây là tiếng địa phương vùng Giang, Hoài để chỉ con cọp.
[55] Nước Ô-lạt-thi (S. Uraśa, H. 烏剌尸國), vị trí hiện nay có thể là vùng Hazarai, thuộc Pakistan. Vị trí kinh thành ngày xưa hiện nay có thể là thành phố Haripur.
[56] Nước Ca-thấp-di-la (S. Kaśmīra, H. 迦濕彌羅國), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Kế Tân (罽賓) là sai. Vị trí kinh thành nước này hiện nay có thể là Srinagar, thuộc vùng Jammu and Kashmir. Pháp sư truyện cho biết ngài đã lưu lại đây 2 năm để học kinh luận với các bậc thầy và lễ bái các thánh tích (學諸經論禮聖跡 - học chư kinh, luận, lễ thánh tích). Có giả thuyết cho rằng cách nói “hai năm” là để chỉ việc ngài đến đây năm trước và rời đi năm sau chứ không thực sự muốn nói là 2 năm (24 tháng).
[57] Đây là sông Jhelum, phát nguyên từ Verinag Spring, cách Anantnag khoảng 26 km.
[58] Thăng (升), cũng gọi là thưng, là đơn vị đo thể tích, ước chừng bằng 1 lít. Mỗi đấu (斗) có 10 thăng.
[59] Bản Hán văn là “國志 - quốc chí”, văn bản ghi chép của quốc gia.
[60] Bản Hán văn là “惡神 - ác thần” (thần hung ác), chính là để chỉ con rồng chúa A-ba-la-la. Chuyện đức Thế Tôn hàng phục con rồng này đã kể ở trước.
[61] Bản Hán văn là “中國 - trung quốc” nhưng không phải chỉ nước Trung Quốc mà chỉ vùng ở giữa nước Ấn Độ, tức là Trung Ấn Độ.
[62] Bản Hán văn là “容膝 - dung tất”, nghĩa đen là chứa được cái đầu gối, hàm ý nói về một phạm vi rất chật hẹp.
[63] Vào thời đó Ấn Độ có chế độ mua bán nô lệ thuộc các giai cấp hạ tiện để phục dịch cho các giai cấp cao quý hơn.
[64] Vì trước đây Long vương đã làm cho vùng đất này khô ráo để cúng dường ngài Mạt-điền-để-ca, và xin rằng khi Chánh pháp diệt mất sẽ lấy lại vùng này làm hồ nước cư trú, do vậy câu này có ý nói thời Chánh pháp diệt mất đang đến gần, nên vùng đất này không còn khô ráo mà đã có rất nhiều suối nước chảy tràn khắp nơi.
[65] Bản Hán văn là “殊俗- thù tục”, nghĩa là tập tục khác biệt, chỉ đến những vùng xa xôi so với chính quốc nên tập tục thường khác biệt.
[66] Bản Hán văn là “四生- tứ sinh”, chỉ tất cả chúng sinh được sinh ra theo bốn phương thức: thai sinh (sinh ra từ bào thai), noãn sinh (sinh ra từ trứng), thấp sinh (sinh ra từ điều kiện ẩm ướt), hóa sinh (do sự biến hóa mà sinh ra). Vì tất cả chúng sinh đều thuộc về một trong bốn cách sinh này, nên “tứ sinh” chỉ chung tất cả muôn loài chúng sinh.
[67] Ma-ha-đề-bà (S. Mahādeva, H. 摩訶提婆), Hán dịch là Đại Thiên (大天).
[68] Chúng tôi ngờ rằng văn bản ở đoạn này có sai lệch với nguyên tác. Cứ theo đoạn trên vừa nói thì vua Vô Ưu (tức vua A-dục) đã tin sâu Tam bảo và cúng dường bình đẳng cho 1.000 vị tăng, cả thánh lẫn phàm. Như vậy, nhà vua không thể nào có ý định dìm chết tất cả tăng chúng. Có thể ông cho rằng đây là biện pháp để phân biệt phàm tăng và thánh tăng, vì khi có sự đe dọa tính mạng như thế (chứ không thực sự giết) thì các vị thánh tăng sẽ hiển lộ thần thông của mình. Và sự thật đúng là như vậy. Điểm không hợp lý nữa là nếu quả thật nhà vua có ý giết hết tăng chúng, các vị thánh tăng A-la-hán chắc chắn cũng không thể bỏ mặc các vị phàm tăng phải chịu chết chìm. Cho nên, thực tế là qua việc này không có ai bị giết cả, chỉ có 500 vị thánh tăng A-la-hán bỏ đi đến nước Ca-thấp-di-la mà thôi.
[69] Tứ sự cúng dường: gồm đủ các món ăn uống (vật thực), quần áo mặc (y phục), thuốc men khi đau bệnh (y dược) và tọa cụ, giường chiếu, phòng xá (chỗ ngủ nghỉ).
[70] Ngũ minh: tri thức về 5 Lĩnh vực của thế tục, nên còn gọi là ngoại điển, bao gồm: thanh minh (ngôn ngữ học), y phương minh (y học), công xảo minh (công nghệ kỹ thuật), nhân minh (luận lý học) và nội minh (triết học).
[71] Nạp y (納衣), hay bá nạp y (百納衣), là tấm y được may ghép từ rất nhiều mảnh vải nhỏ, nhặt được từ những y phục bị người ta vất bỏ.
[72] Trong bản Hán văn là: “Tăng thượng mạn nhân, tư chi vị dã!” (增上慢人,斯之謂也。) Tăng thượng mạn là chỉ người do kiêu mạn nên tự mình chưa chứng thánh quả mà nói là đã chứng.
[73] Luận Ổ-ba-đệ-thước (S. Upadesa-śāstra, H. 鄔波第鑠論), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Ưu-ba-đề-xá (優波提舍) là không đúng.
[74] Tạng Tố-đát-lãm (S. Sutra, H. 素呾纜藏), dịch nghĩa là Khế kinh, tức Kinh tạng trong Tam tạng. Ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Tu-đa-la (修多羅) là không đúng.
[75] Luận Tỳ-nại-da Tỳ-bà-sa (S. Vinaya-vibhasa-śāstra, H. 毘柰耶毘婆沙論).
[76] Tạng Tỳ-nại-da (S. Vi-naya, H. 毘奈耶藏), tức là Luật tạng trong Tam tạng. Ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Tỳ-na-da (毘那耶) là không đúng.
[77] Luận A-tỳ-đạt-ma Tỳ-bà-sa (S. Abhidharma-vibhasa-sastra, H. 阿毘達磨毘婆沙論).
[78] Tạng A-tỳ-đạt-ma (S. Abhidharma, H. 阿毘達磨藏), cũng gọi tắt là A-tỳ-đàm (阿毘曇).
[79] Mỗi bài tụng (S. gāthā,H. 頌), dịch âm là già-tha, có cấu trúc gồm 32 âm tiết.
[80] Tức là những người trước đây được ngài Mạt-điền-để-ca mua từ các nước khác mang về đây cho cư trú.
[81] Bản Hán văn là “第六百年 - đệ lục bách niên” (trong khoảng 100 năm lần thứ sáu), có nghĩa là trong khoảng từ 501 đến 600 năm sau khi đức Phật nhập Niết-bàn. Cách diễn đạt này có nghĩa là sau hơn 500 năm nhưng chưa quá 600 năm.
[82] Hứ-ma-đát-la (S. Hi-matala, H. 呬摩呾羅), Hán dịch là Tuyết Sơn Hạ (雪山下), nghĩa là ở dưới núi Tuyết.
[83] Tăng-già-bạt-đà-la (S. Saṃghabhadra, H. 僧伽跋陀羅), Hán dịch là Chúng Hiền (眾賢).
[84] Tức là bộ luận A-tỳ-đạt-ma Thuận chánh lý (S. Abhidharma-samayapra-dipika-śāstra, H. 阿毘達磨順正理論), 80 quyển, do ngài Chúng Hiền trứ tác, ngài Huyền Trang dịch sang Hán ngữ. (ĐCT, Tập 29, 1562)
[85] Sách-kiến-địa-la (S. Skandhila, H. 索建地羅). Luận sư Sách-kiến-địa-la được biết có 2 bộ luận. Bộ thứ hai không được đề cập ở đây. Đó là Nhập A-tỳ-đạt-ma luận (S. Abhidharmāvatāra -śāstra, H. 入阿毘達磨論), hiện còn trong Đại Chánh tạng, ghi tên tác giả là Tắc-kiến-địa-la (索建地羅). ( ĐCT, T28, 1554)
[86] Luận Chúng sự phần Tỳ-bà-sa (S. Vibhāṣā-prakarana-pada-śāstra, H. 眾事分毘婆沙論).
[87] Chùa Thương Lâm (商林), tên Phạn ngữ có thể là Vikrītavana, có dị bản là “買林 - Mãi Lâm”.
[88] Bố-lạt-noa (S. Pūrṇa, H. 布剌拏), Hán dịch là Viên Mãn (圓滿).
[89] Luận Thích Tỳ-bà-sa (釋毘婆沙論), tức là bộ luận có nội dung giải thích luận Tỳ-bà-sa.
[90] Luận Tập chân (S. Tattvasamcaya-śāstra, H. 集真論), một trong các bộ luận quan trọng của Du-già hành tông (Yogācāra).
[91] Nước Bán-nô-ta (S. Parṇotsa, H. 半笯嗟國). Người Ấn Độ gọi địa danh này là Punache; dân vùng Kashmir gọi là Punats. Vị trí hiện nay có thể là quận Poonch, nằm về phía đông Is-lamabad. Alexander Cunningham xác định biên giới nước này từ phía tây giáp sông Jhelum, phía bắc là dãy núi Pir Panjal, phía đông và đông nam giáp với Át-la-xà-bổ-la, theo đó ông cho rằng chu vi của nước này không đến hơn 2.000 dặm như mô tả, mà chỉ khoảng hơn 1.000 dặm. Sự ước lượng chênh lệch này có thể do đường núi quanh co. (The Ancient Georaphy of India, tr.128, Trubner and Co., London, 1871).
[92] Nước Át-la-xà-bổ-la (S. Rājapura, H. 遏羅闍補羅國). Vị trí hiện nay có thể là vùng Rajouri thuộc khu vực Jamma and Kasshmir.
[93] Pháp sư truyện nêu tên con sông này là sông Chiên-đạt-la-bà-già (渡栴達羅婆伽 河), cũng nói rằng dịch theo ý nghĩa là sông Nguyệt Phần(月分). Đây là tên gọi phiên âm từ Phạn ngữ Chan-drabhaga, mang nghĩa là “một phần của mặt trăng”, cho nên chữ Hán dịch là “nguyệt phần”. Dòng sông này chính là sông Chenab hiện nay. Pháp sư truyện nói: “經三日,渡栴達羅婆伽河 - kinh tam nhật, độ Chiên-đạt-la-bà-già hà”, như vậy có thể biết là ngài đã đi 3 ngày theo đường bên kia sông, sau đó mới qua sông. Pháp sư truyện cho biết ngài vào thành Xà-da-bổ-la (闍耶補羅城) để nghỉ lại qua đêm. Cun-ningham cho rằng địa điểm của thành này ngày nay có thể là Hazifabad, khá phù hợp với mô tả của lộ trình. Và theo như lộ trình này thì ngài cũng phải qua sông Ravi. Ngoài ra, cũng theo Pháp sư truyện thì ngài Huyền Trang đã đi qua thành Na-la-tăng-ha (那羅僧訶城), qua khu rừng Ba la-xa (波羅奢) bị giặc cướp, rồi đến thành cổ Xa-yết-la trước khi vào kinh thành nước Trách-ca. Những địa điểm này đều không được đề cập ở đây.