Bài nói chuyện trước công chúng của đức Dalai Lama tại Sảnh Đường Mậu 
		Dịch Tự Do, Manchester, thuộc Liên Hiệp Anh, vào ngày 19 tháng 7 năm 
		1996.
 
	  Tôi cho rằng mỗi con người đều có một ý thức bẩm sinh về “cái ta”. Chúng 
		ta không thể giải thích tại sao có cảm nhận đó, nhưng quả thật là có. Đi 
		kèm với nó là một sự khao khát được hạnh phúc và mong muốn vượt qua khổ 
		đau. Điều này là hoàn toàn hợp lý: Chúng ta đương nhiên có quyền đạt tới 
		nhiều hạnh phúc nhất trong phạm vi có thể được, và ta cũng có quyền vượt 
		qua đau khổ.
	  Toàn bộ lịch sử loài người đã phát triển trên cơ sở cảm nhận này. Thật 
		ra, nó cũng không chỉ giới hạn trong loài người; theo quan điểm của Phật 
		giáo, ngay cả loài côn trùng nhỏ nhất cũng có cảm nhận đó, và trong phạm 
		vi khả năng của mình, chúng cũng luôn cố gắng để đạt được phần hạnh phúc 
		nào đó và né tránh những hoàn cảnh không vui.
	  Tuy nhiên, có một số khác biệt quan trọng giữa con người và các loài 
		vật. Những khác biệt đó bắt nguồn từ trí thông minh của con người. Nhờ 
		vào trí thông minh, ta được lợi thế hơn rất nhiều và có nhiều năng lực 
		hơn. Ta có khả năng tư duy rất xa về tương lai, và trí nhớ của ta đủ 
		mạnh để nhớ lại nhiều năm trong quá khứ. Hơn thế nữa, chúng ta có các 
		truyền thống truyền khẩu và qua chữ viết, có thể nhắc nhở ta về các sự 
		kiện cách đây nhiều thế kỉ. Giờ đây, nhờ vào các phương pháp khoa học, 
		chúng ta thậm chí còn có thể khảo sát các sự kiện đã xảy ra cách đây 
		nhiều triệu năm.
	  Như vậy, trí thông minh làm cho ta rất tinh khôn, nhưng cùng lúc, nói 
		một cách chính xác là cũng do nơi điều đó mà ta có nhiều sự hoài nghi, 
		ngờ vực hơn, và do đó cũng có nhiều nỗi sợ hãi hơn. Tôi nghĩ rằng sự 
		hình dung ra nỗi sợ hãi đã phát triển rất nhiều hơn ở con người so với 
		các loài khác. Thêm vào đó, rất nhiều những mâu thuẫn trong cộng đồng 
		nhân loại và trong chính gia đình của mỗi người, chưa nói đến những mâu 
		thuẫn giữa các cộng đồng xã hội và giữa các quốc gia, cũng như các xung 
		đột nội tâm trong mỗi con người – tất cả các xung đột và mâu thuẫn này 
		đều khởi lên từ sự khác biệt về tư tưởng và quan điểm, vốn được sinh ra 
		từ trí thông minh của chúng ta. Thật không may, trí thông minh đôi khi 
		có thể gây ra một trạng thái hoàn toàn không vui cho tâm thức. Trong ý 
		nghĩa này, nó trở thành một nguồn đau khổ khác cho con người. Dù vậy, 
		nhưng cùng lúc tôi vẫn cho rằng xét đến cùng thì chính trí thông minh là 
		công cụ ta có thể dùng để vượt qua tất cả các mâu thuẫn và khác biệt 
		này.
	  Từ quan điểm đó, trong tất cả mọi chủng loài khác nhau trên hành tinh 
		này thì loài người là kẻ gây rối lớn nhất. Điều đó đã quá rõ ràng. Tôi 
		tưởng tượng nếu trên trái đất này không còn bóng dáng con người, thì tự 
		nó hẳn sẽ được an toàn hơn! Chắc chắn là hàng triệu con vật như cá, gà 
		và các loài thú nhỏ khác sẽ được tận hưởng một sự giải thoát thật sự!
	  Do đó, điều quan trọng là trí tuệ con người cần được sử dụng theo một 
		cách thức xây dựng. Đây là điểm then chốt. Nếu chúng ta sử dụng khả năng 
		của trí thông minh một cách đúng đắn, thì không chỉ có con người trở nên 
		ít gây hại cho nhau hơn, và ít gây hại hơn cho hành tinh này, mà mỗi một 
		con người riêng lẻ cũng đều sẽ được hạnh phúc hơn. Điều đó nằm trong tầm 
		tay của chúng ta. Việc sử dụng trí tuệ theo cách đúng đắn hay sai lầm là 
		tùy nơi chúng ta. Không ai có thể áp đặt các giá trị của họ lên chúng 
		ta. Làm thế nào để ta học được cách sử dụng khả năng của mình một cách 
		xây dựng? Trước tiên, cần phải nhận biết bản chất của chúng ta, và sau 
		đó, nếu ta có sự quyết tâm thì sẽ có một khả năng thực sự trong việc 
		chuyển hóa lòng người.
	  Trên cơ sở này, hôm nay tôi sẽ nói về cách thức để mỗi một con người 
		riêng lẻ có thể tìm thấy hạnh phúc, bởi vì tôi tin rằng mỗi cá nhân đều 
		là chìa khóa đối với tất cả những người còn lại. Để thay đổi bất kì cộng 
		đồng nào, sự khởi động phải xuất phát từ mỗi cá nhân. Nếu mỗi cá nhân có 
		thể trở nên một người tốt đẹp, điềm tĩnh và hiền hòa, thì điều này sẽ tự 
		động đem lại một bầu không khí tích cực cho gia đình chung quanh người 
		đó. Khi các bậc cha mẹ là những người tốt bụng, giàu tình cảm, hiền hòa 
		và điềm tĩnh thì nói chung con cái họ cũng sẽ phát triển những cách ứng 
		xử và thái độ như vậy.
	  Thái độ sống của chúng ta thường chịu ảnh hưởng rối rắm bởi các nhân tố 
		bên ngoài; vậy nên, một phần của vấn đề là phải loại trừ các phiền nhiễu 
		quanh bạn. Môi trường sống, tức hoàn cảnh xung quanh, là một nhân tố rất 
		quan trọng trong việc tạo ra một tâm trạng hạnh phúc. Tuy nhiên, phần 
		còn lại của vấn đề thậm chí còn quan trọng hơn nữa, đó là thái độ tinh 
		thần riêng của mỗi người. 
	  Hoàn cảnh xung quanh có thể không mấy thân thiện, thậm chí có thể là thù 
		nghịch, nhưng nếu thái độ tinh thần trong bạn là đúng đắn, thì hoàn cảnh 
		đó sẽ không khuấy động được sự bình yên bên trong bạn. Ngược lại, nếu 
		thái độ của bạn là không đúng, thì ngay cả khi quanh bạn đều là những 
		người bạn tốt và những điều kiện thuận lợi nhất, bạn cũng không thể có 
		hạnh phúc. Đây là lý do tại sao thái độ tinh thần lại quan trọng hơn các 
		điều kiện bên ngoài. Mặc dù vậy, dường như tôi thấy nhiều người chú tâm 
		hơn đến các điều kiện bên ngoài và không hề lưu ý đến thái độ bên trong 
		của tâm thức. Tôi đề nghị chúng ta nên lưu ý nhiều hơn đến các phẩm tính 
		nội tâm.
	  Có nhiều phẩm tính quan trọng cho sự yên bình tinh thần, nhưng theo kinh 
		nghiệm ít oi mà tôi đã có được, tôi tin rằng một trong những yếu tố quan 
		trọng nhất là lòng từ bi của con người: một cảm giác quan tâm chăm sóc.
	  Tôi sẽ giải thích ý nghĩa của lòng từ bi được nói đến ở đây. Thông 
		thường, khái niệm của chúng ta về lòng thương hay tình yêu là chỉ cho 
		cảm giác thân thiết với bạn bè và những người thân yêu. Đôi khi lòng 
		thương cũng mang ý nghĩa của sự thương hại. Điều này không đúng – bất kì 
		sự thương yêu nào liên quan đến việc xem nhẹ người khác đều không phải 
		là thương yêu chân thật. Để trở nên chân thật, lòng thương yêu phải dựa 
		trên cơ sở tôn trọng người khác, và dựa trên nhận thức rằng: những người 
		khác cũng có quyền được hưởng hạnh phúc và vượt qua khổ đau như chính 
		bản thân ta. Trên cơ sở này, ngay khi nhìn thấy người khác đang đau khổ, 
		bạn sẽ phát khởi một cảm xúc chân thành quan tâm đến họ.
	  Còn về sự thân thiết mà ta cảm nhận đối với bạn bè của mình, điều này 
		thường giống với một sự luyến ái hơn là tình thương. Tình thương chân 
		thật không nên có sự thiên vị. Nếu ta chỉ cảm thấy thân thiết với các 
		bạn mình, và không cảm thấy như vậy với những kẻ thù của ta; hay với vô 
		số những người mà tự thân ta không hề quen biết, hay với những người ta 
		không quan tâm, thì tình thương của chúng ta chỉ là không trọn vẹn hay 
		thiên vị.
	  Như đã nói, tình thương chân thật được dựa trên nhận thức rằng người 
		khác cũng có quyền được hạnh phúc như chính bạn, và do đó, ngay cả kẻ 
		thù của bạn cũng là một con người với sự mong muốn và quyền được hưởng 
		hạnh phúc giống như bạn. Một ý thức quan tâm được phát triển trên sơ sở 
		này, ta gọi là từ bi; nó rộng mở đến mọi người, bất kể thái độ của người 
		đó đối với bạn là thù địch hay thân thiện. 
	  Một phương diện của lòng từ bi là ý thức luôn có trách nhiệm quan tâm 
		đến người khác. Khi ta phát triển sự thôi thúc này trong lòng, sự tự tin 
		của ta sẽ tự nhiên gia tăng. Điều này lại sẽ làm giảm bớt sự lo sợ, và 
		sự giảm bớt lo sợ là nền tảng cho sự quyết tâm. Khi bạn thật sự quyết 
		tâm ngay từ đầu là sẽ hoàn thành một nhiệm vụ khó khăn, thì ngay cả nếu 
		bạn có thất bại một lần, hai lần, ba lần... cũng không quan trọng. Mục 
		tiêu của bạn rất rõ ràng, nên bạn vẫn sẽ tiếp tục nỗ lực. Thái độ lạc 
		quan và kiên định này là yếu tố then chốt để thành công. 
	  Lòng từ bi cũng đem đến cho ta một nội lực. Một khi lòng từ bi được phát 
		triển, nó sẽ tự nhiên mở ra một cánh cửa nội tâm, qua đó ta có thể giao 
		tiếp với mọi con người, và ngay cả với những chúng sinh hữu tình khác, 
		một cách dễ dàng và chân thành. Mặt khác, nếu bạn cảm thấy căm ghét và 
		ác cảm với người khác, thì có thể họ cũng cảm thấy tương tự như vậy đối 
		với bạn, kết quả là sự ngờ vực và lo sợ sẽ tạo ra một khoảng cách giữa 
		các bạn, làm cho sự giao tiếp trở nên khó khăn. Rồi sau đó bạn sẽ cảm 
		thấy cô đơn và cách biệt. Không phải tất cả thành viên trong cộng đồng 
		của bạn đều có các cảm xúc tiêu cực tương tự đối với bạn, nhưng một số 
		người có thể nhìn bạn theo cách tiêu cực bởi vì chính cảm nhận của bạn.
	  Nếu bạn nuôi dưỡng các cảm xúc tiêu cực về người khác, nhưng lại mong 
		đợi họ thân thiện với bạn thì thật là vô lý. Nếu muốn bầu không khí 
		quanh mình trở nên thân thiện hơn, trước hết bạn phải tạo ra nền tảng 
		cho điều đó. Cho dù sự đáp ứng của những người khác là tích cực hay tiêu 
		cực, trước hết bạn phải tạo ra được nền tảng của sự thân thiện. Nếu sau 
		đó những người khác vẫn tiếp tục ứng xử với bạn một cách tiêu cực, thì 
		bạn có quyền hành động theo cách thích hợp.
	  Tôi luôn cố gắng tạo ra một nền tảng thân thiện với mọi người. Chẳng 
		hạn, mỗi khi lần đầu gặp gỡ một người nào đó, tôi thấy không cần đến các 
		lời giới thiệu. Rõ ràng người ấy cũng là một con người. Có lẽ một lúc 
		nào đó trong tương lai, các tiến bộ kĩ thuật có thể đồng nghĩa với việc 
		tôi có thể nhầm lẫn giữa một người máy với một con người, nhưng cho tới 
		nay thì chuyện này chưa từng xảy ra. Tôi nhìn thấy một nụ cười, vài cái 
		răng và đôi mắt... và tôi nhận ra ngay đó là một con người! Trên cơ sở 
		là những con người, về mặt cảm xúc thì tất cả chúng ta đều như nhau, và 
		cơ bản thì về mặt thể chất chúng ta cũng là như nhau, trừ ra sự khác 
		biệt màu sắc. Nhưng cho dù những người Tây phương có tóc vàng hay tóc 
		xanh, hay tóc trắng, cũng đều không thực sự quan trọng. Điểm quan trọng 
		là chúng ta đều giống nhau về mặt cảm xúc. Với sự tin chắc đó, tôi cảm 
		thấy người mới gặp kia là một người anh em đồng loại, và đến gần người 
		đó một cách hoàn toàn tự nhiên. Trong hầu hết các trường hợp, người mới 
		gặp kia sẽ tức thì phản ứng theo cách tương tự, và trở thành một người 
		bạn. Đôi khi tôi thất bại, nhưng khi ấy tôi có quyền tự do phản ứng tùy 
		theo tình huống.
	  Vì vậy, về cơ bản chúng ta nên tiếp cận người khác một cách cởi mở, thừa 
		nhận mỗi người khác đều là một con người cũng giống như chính ta. Không 
		có nhiều khác biệt giữa tất cả chúng ta!
	  Lòng từ bi tạo nên bầu không khí tích cực một cách tự nhiên, và kết quả 
		là bạn cảm thấy an ổn và hài lòng. Người có lòng từ bi sống ở bất cứ nơi 
		nào thì bầu không khí ở nơi đó luôn được dễ chịu. Ngay cả các loài chó 
		hay chim cũng dễ dàng đến gần người đó. Cách đây chừng 50 năm, tôi 
		thường giữ vài chú chim trong Cung điện Mùa Hạ Norbulingka (Norbulingka 
		Summer Palace) ở Lhasa. Trong số đó có một con vẹt nhỏ. Lúc đó, tôi có 
		một người phục vụ lớn tuổi trông không mấy thân thiện – mắt của ông ta 
		tròn và nghiêm nghị – nhưng ông ta luôn cho chú vẹt này ăn các loại hạt 
		và thức ăn khác. Bởi vậy, mỗi khi người phục vụ sắp đến, chỉ cần nghe 
		tiếng bước chân hay tiếng ho của ông là con vẹt đã tỏ ra phấn khích. 
		Người phục vụ có một thái độ cực kỳ thân thiện với con chim nhỏ đó, và 
		nó cũng đáp ứng một cách đáng ngạc nhiên với ông ta. Có một vài lần tôi 
		cũng cho con chim ăn một ít hạt, nhưng nó không bao giờ tỏ ra thân thiện 
		như thế với tôi. Tôi dùng một cái que khều nó, hy vọng nó sẽ phản ứng 
		khác hơn; nhưng kết quả hoàn toàn xấu đi. Tôi đã dùng sức quá mạnh hơn 
		so với sức chim, và nó đã đáp lại theo cách tương ứng.
	  Do vậy, nếu bạn muốn có một người bạn chân thật, trước nhất bạn phải tạo 
		ra bầu không khí tích cực quanh mình. Xét cho cùng, chúng ta là những 
		động vật sống cộng đồng và bạn bè là rất quan trọng. Làm thế nào để bạn 
		mang lại nụ cười trên khuôn mặt mọi người? Nếu bạn duy trì sự lạnh lùng 
		và ngờ vực thì điều đó sẽ rất khó. Cũng có thể là nếu bạn có quyền thế 
		và tiền tài thì một số người có thể đến với bạn bằng một nụ cười giả 
		tạo, nhưng một nụ cười chân thật chỉ có thể có được nhờ lòng từ bi mà 
		thôi.
	  Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để phát triển lòng từ bi. Trong thực tế, 
		ta có thể thật sự phát triển một lòng từ bi hoàn toàn không thiên vị hay 
		không? Câu trả lời của tôi là ta chắc chắn có thể làm điều đó. Tôi tin 
		rằng bản chất của con người là hiền lành và từ ái; mặc dù có nhiều 
		người, trước đây cũng như bây giờ, cho rằng bản chất con người về cơ bản 
		là hung hăng. Chúng ta hãy xem xét điểm này. 
	  Vào thời điểm thụ thai, và suốt thời gian ở trong thai mẹ thì trạng thái 
		tinh thần yêu thương và hiền hòa của người mẹ là nhân tố rất tích cực 
		cho sự phát triển của thai nhi. Nếu tâm tư người mẹ bị kích động mạnh sẽ 
		có hại cho thai nhi. Và đó chỉ là điểm khởi đầu của sự sống! Ngay cả 
		trạng thái tinh thần của cha mẹ vào thời điểm thụ thai cũng là quan 
		trọng. Chẳng hạn, nếu một đứa bé được thụ thai bởi sự cưỡng hiếp, thì nó 
		sẽ là một đứa bé ngoài ý muốn, và điều đó thật khủng khiếp. Để việc thụ 
		thai xảy ra tốt đẹp, nó phải xuất phát từ tình yêu chân thật và sự tôn 
		trọng lẫn nhau, không chỉ là sự đam mê cuồng nhiệt. Chỉ có quan hệ tình 
		dục thoáng qua với nhau thì không đủ, hai người cần phải hiểu biết rõ về 
		nhau và tôn trọng lẫn nhau như những con người; đây là cơ sở cho một 
		cuộc hôn nhân hạnh phúc. Hơn thế nữa, hôn nhân tự nó nên là trọn đời, 
		hay ít nhất cũng phải được bền lâu. Cuộc sống nên bắt đầu một cách tốt 
		đẹp trong tình huống như thế.
	  Sau đó, theo y học thì trong những tuần lễ đầu sau khi sinh nở, bộ não 
		của trẻ sơ sinh vẫn tiếp tục lớn lên. Trong suốt thời kì này, các chuyên 
		gia cho rằng sự vuốt ve là nhân tố rất thiết yếu cho sự phát triển thích 
		hợp của bộ não. Chỉ điều này thôi cũng cho thấy rằng sự lớn lên của 
		riêng thân thể ta cũng đã cần đến sự trìu mến của người khác.
	  Sau khi sinh, một trong những việc làm đầu tiên của người mẹ là cho con 
		bú, và việc đầu tiên của đứa trẻ là bú sữa mẹ. Dòng sữa thường được xem 
		như là biểu tượng của tình thương. Theo truyền thống, không có sữa thì 
		đứa trẻ không thể sống còn. Thông qua tiến trình bú sữa tạo ra một sự 
		gắn bó thân thiết giữa mẹ và con. Nếu không có sự gắn bó thân thiết đó, 
		hẳn đứa trẻ đã không tìm kiếm bầu vú mẹ, và nếu người mẹ cảm thấy không 
		ưa thích đứa trẻ thì sữa của bà sẽ không tiết ra một cách dễ dàng. Vì 
		thế, dòng sữa hiện hữu cùng với tình thương. Điều này có nghĩa là, hành 
		động đầu tiên trong đời ta – việc bú sữa – là một biểu tượng của tình 
		thương. Tôi luôn được gợi nhớ đến điều này mỗi khi tôi thăm một nhà thờ 
		và nhìn thấy đức Mẹ bồng Chúa Jesus còn là một đứa trẻ; hình ảnh ấy đối 
		với tôi là một biểu tượng của tình yêu và sự trìu mến.
	  Người ta đã biết được rằng trẻ em lớn lên trong các gia đình có sự yêu 
		thương và trìu mến thì phát triển thể chất mạnh khỏe hơn và học giỏi hơn 
		ở trường. Ngược lại, những em sống thiếu tình thương sẽ gặp khó khăn 
		trong sự phát triển thể chất lẫn tinh thần. Những đứa trẻ này cũng cảm 
		thấy khó khăn trong việc bày tỏ tình thương khi chúng lớn lên, và đây là 
		một thảm kịch lớn.
	  Bây giờ hãy nhìn vào giây phút cuối cùng của cuộc sống – sự chết. Ngay 
		cả ở thời điểm sắp ra đi vĩnh viễn, mặc dù người hấp hối không còn nhận 
		được lợi ích gì nhiều từ bằng hữu, nhưng nếu được vây quanh bởi bạn bè 
		thì tâm thức người ấy có thể trở nên bình thản hơn. Do đó, trong suốt 
		cuộc đời ta, ngay từ lúc khởi đầu cho đến khi nhắm mắt, sự yêu thương 
		trìu mến luôn giữ một vai trò rất quan trọng.
	  Khuynh hướng yêu thương không chỉ làm cho tâm thức được an ổn và bình 
		thản hơn, mà còn ảnh hưởng đến thể chất một cách tích cực nữa. Ngược 
		lại, sự thù hận, ghen ghét và sợ hãi làm xáo trộn sự yên bình của tâm 
		thức, làm cho ta bị khích động và ảnh hưởng tới cơ thể một cách bất lợi. 
		Ngay cả thể xác ta cũng cần đến sự an bình của tâm thức, và không thích 
		hợp với sự khích động. Điều này cho thấy sự nhận biết giá trị của một 
		tâm thức an ổn là bản chất sẵn có trong chúng ta.
	  Do vậy, dù một số người có thể không đồng ý, nhưng tôi vẫn thấy rằng, 
		cho dù khía cạnh hung hăng trong bản tính của chúng ta là một phần của 
		đời sống, thì sức mạnh vượt trội trong đời sống vẫn là lòng yêu thương 
		con người. Đây là lý do vì sao ta có thể củng cố và tăng cường nền tảng 
		tốt đẹp ấy, vì đó vốn là bản chất của con người.
	  Ta cũng có thể tiếp cận tính chất quan trọng của lòng từ bi thông qua sự 
		phân tích lý luận. Nếu tôi giúp đỡ người khác và bày tỏ sự quan tâm đến 
		người đó, thì tự tôi cũng sẽ được hưởng lợi từ điều này. Ngược lại, nếu 
		tôi làm hại những người khác, cuối cùng tôi sẽ gặp rắc rối. Tôi thường 
		nói đùa, với một phần chân thật và nghiêm túc, rằng nếu ta muốn thật sự 
		vị kỷ thì nên vị kỷ theo cách khôn ngoan hơn là vị kỷ một cách dại dột. 
		Trí khôn có thể giúp ta điều chỉnh thái độ trong phương diện này. Nếu sử 
		dụng tốt trí thông minh, ta có thể thấu hiểu được cách thức để đạt được 
		những lợi ích của riêng mình bằng cách sống một nếp sống từ bi. Thậm chí 
		có thể biện luận rằng sống từ bi là vị kỷ một cách tuyệt đối.
	  Trong trường hợp này, tôi không cho rằng vị kỷ là sai trái. Yêu thương 
		chính mình là thiết yếu. Nếu ta không yêu thương chính mình, làm sao ta 
		có thể yêu thương người khác? Có vẻ như khi một số người nói về lòng từ 
		bi, họ nghĩ rằng điều đó gắn liền với việc hoàn toàn không lưu tâm đến 
		lợi ích của riêng mình – một sự hy sinh các quyền lợi bản thân. Điều này 
		là không đúng. Thật ra, tình yêu chân chính trước hết nên hướng về chính 
		mình.
	  Nói về “cái tôi” có hai ý nghĩa khác nhau. Một “cái tôi” không ngần ngại 
		hãm hại người khác, đó là tiêu cực và dẫn tới sự rắc rối. “Cái tôi” thứ 
		hai được dựa trên sự quyết tâm, ý chí mạnh mẽ và sự tự tin, và ý nghĩa 
		này của “cái tôi” là rất cần thiết. Không có nó, làm sao ta có thể phát 
		triển sự tự tin cần thiết để thực hiện bất cứ nhiệm vụ nào trong cuộc 
		sống? Tương tự, cũng có hai loại ham muốn. Tuy nhiên, sự thù hận thì bao 
		giờ cũng là tiêu cực và phá hoại sự hòa hợp.
	  Làm thế nào ta có thể giảm bớt sự thù hận? Thù hận thường theo sau sự 
		giận dữ. Sự giận dữ sinh khởi như là một phản ứng cảm xúc, và dần dần 
		phát triển thành cảm giác thù hận. Phương pháp khéo léo ở đây là, trước 
		tiên phải nhận biết rằng sự giận dữ là tiêu cực. Người ta thường nghĩ 
		rằng sự giận dữ là một phần gắn liền với chúng ta, tốt hơn là biểu lộ nó 
		ra, nhưng tôi cho đây là một sai lầm. Bạn có thể có những phiền hà hay 
		bất bình về quá khứ của mình, và bằng cách biểu lộ sự giận dữ bạn có thể 
		chấm dứt những tâm trạng đó. Điều đó rất có khả năng xảy ra. Tuy nhiên, 
		thông thường thì tốt hơn là nên kiềm chế cơn giận của bạn, và dần dần, 
		năm này sang năm khác, nó sẽ tiêu mất. Theo kinh nghiệm của tôi, cách 
		làm này có hiệu quả tốt nhất khi bạn chấp nhận rằng sự giận dữ là tiêu 
		cực và tốt hơn là không nên có nó. Cách nhìn nhận như thế tự nó sẽ tạo 
		ra một sự khác biệt.
	  Mỗi khi cơn giận sắp khởi lên, bạn có thể tự rèn luyện để nhìn vào đối 
		tượng gây ra cơn giận theo một cách khác. Bất cứ người hay tình huống 
		nào gây ra cơn giận, xét về cơ bản đều là tương đối; nhìn từ một góc độ, 
		điều đó làm cho bạn giận dữ, nhưng nhìn từ một phương diện khác, bạn có 
		thể phát hiện ra một số điểm tốt đẹp trong đó...
	  ... Có những tình huống khác, chẳng hạn như khi bạn ngã bệnh, càng nghĩ 
		nhiều đến bệnh tình thì sự thất vọng của bạn càng trở nên tồi tệ hơn. 
		Trong trường hợp như vậy, thật là hữu ích nếu bạn so sánh tình trạng của 
		mình với viễn ảnh xấu nhất của căn bệnh, hay với những gì có thể xảy ra 
		nếu bạn mắc phải một căn bệnh nghiêm trọng hơn nữa... Theo phương cách 
		này, bạn có thể tự an ủi bằng cách nhận ra rằng mọi việc có thể đã tồi 
		tệ hơn thế nhiều. Ở đây một lần nữa, bạn tự rèn luyện để nhìn vào tính 
		tương đối của tình huống. Nếu bạn so sánh với điều gì đó tồi tệ hơn rất 
		nhiều thì sự so sánh này sẽ lập tức làm giảm đi sự thất vọng của bạn.
	  Tương tự, khi những điều khó khăn xảy đến, chúng có thể có vẻ như hết 
		sức ghê gớm khi bạn nhìn chúng một cách cận kề, nhưng nếu bạn tiếp cận 
		cùng một vấn đề từ một góc nhìn rộng mở hơn thì nó sẽ có vẻ nhỏ nhặt 
		hơn. Với các phương pháp này, và bằng cách phát triển một cách nhìn rộng 
		mở hơn, bạn có thể làm giảm bớt sự thất vọng của mình mỗi khi phải đối 
		diện với các vấn đề khó khăn. Bạn có thể thấy rằng cần có sự nỗ lực kiên 
		trì, nhưng khi bạn áp dụng theo cách này thì tính cách giận dữ trong bạn 
		sẽ suy giảm đi. Đồng thời, bạn phát triển thêm lòng từ bi và làm gia 
		tăng tiềm năng tốt đẹp của mình. Bằng việc kết hợp cả hai phương pháp 
		này, một người xấu có thể được chuyển hóa thành một người tốt. Đây là 
		phương pháp được dùng để thực hiện sự chuyển hóa đó.
	  Thêm vào đó, nếu bạn có lòng tin tôn giáo, điều đó có thể hữu ích trong 
		việc mở rộng những phẩm chất này. Chẳng hạn, Kinh Thánh Tân Ước dạy ta 
		(khi có người đánh vào má bên này, hãy) đưa má bên kia ra, rõ ràng cho 
		thấy sự thực hành nhẫn nhục. Đối với tôi, thông điệp chủ yếu của Kinh 
		Thánh là lòng yêu thương con người và lý do để ta phát triển lòng yêu 
		thương này là vì ta yêu kính Chúa. Tôi hiểu điều này trong ý nghĩa của 
		một tình yêu vô hạn. Những giáo lý như vậy có sức mạnh rất lớn trong 
		việc tăng cường và mở rộng các phẩm chất tốt đẹp của chúng ta. Đạo Phật 
		đưa ra một phương pháp rất rõ ràng. Trước hết, chúng ta cố gắng xem tất 
		cả chúng sinh đều bình đẳng như nhau. Sau đó, chúng ta xem cuộc sống của 
		tất cả chúng sinh đều quý giá như của chính mình, và thông qua điều này, 
		chúng ta phát triển một ý thức quan tâm đến người khác.
	  Trong trường hợp những người không có lòng tin tôn giáo thì thế nào? 
		Việc tin theo một tín ngưỡng hay không là quyền lựa chọn cá nhân. Vẫn có 
		thể giải quyết mọi việc mà không cần đến tôn giáo, và trong một số 
		trường hợp thì điều đó có thể làm cho cuộc sống trở nên đơn giản hơn! 
		Nhưng khi bạn không có sự quan tâm đến tôn giáo, thì bạn cũng không nên 
		chối bỏ giá trị các phẩm chất tốt đẹp của con người. Khi chúng ta là con 
		người, là thành viên của xã hội con người, ta phải cần đến tình thương 
		con người. Không có tình thương, ta không thể hạnh phúc. Bởi vì tất cả 
		chúng ta đều muốn có hạnh phúc, muốn có một gia đình và bạn bè sống 
		trong hạnh phúc, nên ta phải phát triển lòng từ bi và nhân ái. Điều quan 
		trọng là phải nhận biết rằng có hai cấp độ tinh thần, một là có niềm tin 
		tôn giáo và một là không có niềm tin tôn giáo. Khi không có niềm tin tôn 
		giáo, ta chỉ đơn giản là cố gắng để trở thành một người giàu lòng nhân 
		hậu và tình cảm.
	  Tưởng cũng nên nhớ rằng, một khi ta nuôi dưỡng thái độ sống từ bi thì tự 
		nhiên sẽ dẫn đến sự bất bạo động. Bất bạo động không phải là một cách 
		nói xã giao, mà chính là lòng từ bi biểu lộ thành hành động. Nếu trong 
		lòng bạn còn có hận thù, thì hành động của bạn thường là bạo động; ngược 
		lại, nếu có lòng từ bi thì hành động của bạn sẽ là bất bạo động.
	  Như tôi đã nói, chừng nào con người còn trên trái đất này thì vẫn luôn 
		có những quan điểm bất đồng và xung đột. Nếu ta dùng bạo lực để làm giảm 
		các bất đồng và xung đột thì khi ta phải sẵn sàng hứng chịu bạo lực hằng 
		ngày, và tôi nghĩ rằng hậu quả của điều đó thật khủng khiếp. Hơn thế 
		nữa, thực sự không thể xóa bỏ các bất đồng bằng bạo lực. Bạo lực thậm 
		chí chỉ tạo ra thêm những oán hận và bất mãn.
	  Mặt khác, bất bạo động có nghĩa là đối thoại, tức là dùng ngôn từ để 
		giao tiếp. Và đối thoại có nghĩa là nhân nhượng lẫn nhau: có hàm ý lắng 
		nghe quan điểm của người khác và tôn trọng quyền lợi của họ trong tinh 
		thần hòa giải. Sẽ không có ai giành được 100% thắng lợi, và cũng không 
		có ai phải mất hết tất cả. Đó là phương thức thực tiễn, và trong thực tế 
		đó là phương thức duy nhất. Ngày nay, khi thế giới trở nên ngày càng nhỏ 
		hơn, các khái niệm “chúng ta” và “bọn họ” hầu như đã lỗi thời. Nếu các 
		quyền lợi của chúng ta tồn tại một cách độc lập với quyền lợi của người 
		khác, thì sẽ có thể có kẻ giành được tất cả và có người mất hết tất cả. 
		Nhưng vì trong thực tế tất cả chúng ta đều phụ thuộc lẫn nhau, nên các 
		quyền lợi của ta và của người khác tương quan rất chặt chẽ với nhau. Vậy 
		làm sao bạn có thể giành được 100% thắng lợi? Điều này là không thể 
		được. Bạn buộc phải chia sẻ, mỗi bên một nửa, hay có thể là 6 phần cho 
		bên này và 4 phần cho bên kia! Không dùng đến phương thức chia sẻ này 
		thì sự hòa giải là không thể thực hiện.
	  Thực tế của thế giới hôm nay cho thấy chúng ta cần tư duy theo cách này. 
		Đây là nền tảng cho phương thức của riêng tôi - phương thức “trung đạo”. 
		Người Tây Tạng sẽ không thể giành được 100% thắng lợi, vì dù muốn hay 
		không thì tương lai Tây Tạng cũng phụ thuộc rất nhiều vào Trung Hoa. Do 
		đó, trên tinh thần hòa giải, tôi chủ trương một sự chia sẻ quyền lợi để 
		cho sự tiến bộ thực sự là khả dĩ. Nhân nhượng lẫn nhau là cách duy nhất. 
		Thông qua phương pháp bất bạo động chúng ta có thể chia sẻ các quan 
		điểm, cảm nhận, quyền lợi, và bằng cách này ta có thể giải quyết được 
		vấn đề.
	  Đôi khi tôi gọi thế kỉ 20 là thế kỉ của sự giết hại, của chiến tranh. 
		Trong thế kỉ này đã có nhiều xung đột, nhiều sự giết hại và có nhiều vũ 
		khí hơn bao giờ hết. Giờ đây, trên cơ sở kinh nghiệm mà tất cả chúng ta 
		đã trải qua trong thế kỉ này, và trên cơ sở những gì chúng ta đã học 
		được từ đó, tôi nghĩ rằng chúng ta nên hướng về thế kỉ 21 như là thế kỉ 
		của sự đối thoại. Nguyên tắc bất bạo động nên được thực hành ở khắp mọi 
		nơi. Điều này không thể thành tựu đơn giản chỉ bằng cách ngồi đây cầu 
		nguyện, mà có nghĩa là phải hành động và nỗ lực, và nỗ lực nhiều hơn 
		nữa.
	  Xin cảm ơn các bạn!