Bây giờ, chúng ta nói về giáo pháp Tứ diệu đế của đạo Phật. Nghi vấn đầu 
		tiên có thể đưa ra là: Tại sao các chân lý này lại được xem là cơ bản 
		nhất, và trong thực tế, tại sao đức Phật lại giảng dạy những chân lý 
		này? 
	  Để trả lời được vấn đề này, ta phải liên hệ giáo pháp Tứ diệu đế với 
		kinh nghiệm của chính ta trong kiếp người. Một sự thật hoàn toàn tự 
		nhiên trong cuộc sống là: Mỗi người chúng ta đều có một khát vọng bẩm 
		sinh luôn tìm kiếm hạnh phúc và muốn vượt qua khổ đau. Đây là một bản 
		năng sẵn có, nên ta không cần phải chứng minh sự tồn tại của nó. Hạnh 
		phúc là điều mà tất cả chúng ta đều khao khát muốn đạt được, và dĩ nhiên 
		chúng ta có quyền đáp ứng sự khao khát đó. Cũng vậy, khổ đau là điều mà 
		ai cũng mong muốn tránh khỏi, và chúng ta cũng có quyền nỗ lực để vượt 
		qua đau khổ. Nếu như sự khát khao đạt được hạnh phúc và vượt qua đau khổ 
		là bản chất sẵn có của mọi sinh vật, và cũng là một nhu cầu tự nhiên, 
		vậy thì vấn đề là chúng ta phải nỗ lực như thế nào để đáp ứng sự khao 
		khát đó. 
	  Vấn đề này đưa ta đến với giáo pháp Tứ diệu đế; vì giáo pháp này giúp ta 
		hiểu được mối quan hệ giữa hai loại sự kiện: nguyên nhân và kết quả. Một 
		mặt, ta phải gánh chịu khổ đau, nhưng khổ đau không phải tự nhiên mà có, 
		mà được sinh khởi từ các nguyên nhân và điều kiện của chính nó. Mặt 
		khác, ta được huởng hạnh phúc, thì hạnh phúc cũng chỉ có được từ những 
		nguyên nhân và điều kiện của chính nó. 
	  Trong đạo Phật, khi nói đến hạnh phúc ta không chỉ hiểu một cách giới 
		hạn như một trạng thái cảm xúc. Chắc chắn sự tịch diệt (trạng thái chấm 
		đứt hoàn toàn mọi đau khổ) không phải là một trạng thái của cảm xúc, 
		nhưng ta có thể nói rằng tịch diệt là dạng cao tột nhất của hạnh phúc. 
		Bởi vì, theo định nghĩa thì tịch diệt là hoàn toàn thoát khỏi mọi khổ 
		đau. Nhưng trạng thái tịch diệt, hay hạnh phúc chân thật, lại cũng không 
		phải tự nhiên xuất hiện hay hoàn toàn không có nguyên do. Dĩ nhiên, đây 
		là một điểm hết sức tinh tế, vì theo quan điểm Phật giáo thì tịch diệt 
		không phải là một sự kiện duyên sinh, nên không thể nói là nó được tạo 
		thành hay gây ra bởi bất cứ điều gì. Thế nhưng, sự hiện thực hóa hay đạt 
		tới tịch diệt lại quả thật là phụ thuộc vào con đường tu tập và nỗ lực 
		của cá nhân. Bạn không thể đạt tới trạng thái tịch diệt nếu không có sự 
		nỗ lực. Do đó, trong ý nghĩa này ta có thể nói rằng con đường dẫn tới sự 
		tịch diệt là nguyên nhân của tịch diệt. 
	  Giáo pháp Tứ diệu đế phân biệt một cách rõ ràng hai loại nguyên nhân và 
		kết quả: những nguyên nhân gây ra đau khổ và những nguyên nhân tạo ra 
		hạnh phúc. Bằng cách chỉ ra cách phân biệt những nguyên nhân này trong 
		cuộc sống, mục đích của giáo pháp này không gì khác hơn là giúp ta đáp 
		ứng khát vọng sâu xa nhất của mình – đạt được hạnh phúc và vượt qua đau 
		khổ. 
	  Khi đã nhận hiểu được lý do đức Phật truyền giảng giáo pháp Tứ diệu đế, 
		có thể chúng ta sẽ tiếp tục tự hỏi về lý do của việc sắp xếp các chân lý 
		đó theo một trình tự đặc biệt. Tại sao Tứ diệu đế được dạy theo một trật 
		tự nhất định, bắt đầu về sự khổ (Khổ đế) rồi tiếp tục với nguyên nhân 
		của sự khổ (Tập khổ đế)... Về điểm này, ta nên hiểu rằng trình tự giảng 
		dạy giáo pháp Tứ diệu đế không liên quan gì đến trình tự sinh khởi của 
		sự vật trong thực tại. Đúng hơn thì trình tự đó liên quan đến việc một 
		người nên khởi đầu như thế nào để thực hành đạo Phật và đạt tới sự chứng 
		ngộ nhờ vào sự thực hành đó. 
	  Trong Tối thượng luận,
[15] ngài Di-lặc (Maitreya) 
		cho rằng có bốn giai đoạn để chữa một chứng bệnh: 
	  Cũng giống như một căn bệnh cần được chẩn đoán, những nguyên nhân gây 
		bệnh cần được loại trừ, một trạng thái khoẻ mạnh cần đạt tới và phương 
		pháp chữa trị cần được áp dụng; cũng vậy, sự đau khổ cần phải được nhận 
		biết, các nguyên nhân gây ra đau khổ cần phải được loại trừ, sự chấm dứt 
		của đau khổ cần phải đạt tới và con đường tu tập để dứt khổ cần phải 
		được thực hành.
[16]
	  Ngài Di-lặc đã sử dụng sự tương tự của một người bệnh để giải thích 
		phương cách đạt được sự giác ngộ dựa trên giáo pháp Tứ diệu đế. Để một 
		bệnh nhân được lành bệnh, trước hết người đó phải biết mình đang mang 
		bệnh, nếu không thì sẽ không có mong muốn chữa bệnh. Một khi đã nhận 
		biết mình có bệnh, thì tất nhiên là bạn sẽ cố tìm biết những nguyên nhân 
		gây bệnh và những gì làm cho bệnh nặng thêm. Khi đã xác định được những 
		điều này, bạn sẽ biết được liệu căn bệnh có thể chữa khỏi hay không, và 
		bạn sẽ khởi lên ước muốn được khỏi bệnh. Thật ra cũng không chỉ đơn 
		thuần là một ước muốn, vì một khi đã nhận biết được các điều kiện đã dẫn 
		đến căn bệnh, niềm khao khát được khỏi bệnh sẽ càng mạnh mẽ hơn nhiều vì 
		sự nhận biết đó mang lại cho bạn sự an tâm và tin chắc rằng sẽ vượt qua 
		được căn bệnh. Với lòng tin chắc đó, bạn sẽ sẵn lòng dùng đến tất cả các 
		loại thuốc men và phương pháp điều trị cần thiết. 
	  Cũng giống như vậy, ngay từ đầu niềm khao khát được thoát khỏi sự khổ 
		đau sẽ không sinh khởi trừ phi bạn nhận biết được là mình đang đau khổ. 
		Bởi vậy, sự thực hành trước tiên của người Phật tử là nhận biết trạng 
		thái hiện thời của mình là khổ đau, thất vọng và không thỏa mãn, trong 
		tiếng Phạn gọi là duḥkha. Chỉ khi đó bạn mới muốn nhìn vào các nguyên 
		nhân và điều kiện đã gây ra đau khổ. 
	  Điều rất quan trọng là phải hiểu được bối cảnh mà trong đó Phật giáo 
		nhấn mạnh tới việc nhận ra rằng tất cả chúng ta đều ở trong trạng thái 
		khổ đau, nếu không thì sẽ có nguy cơ hiểu nhầm quan điểm của Phật giáo, 
		cho rằng đó là những tư tưởng u ám, một chủ nghĩa bi quan về cơ bản và 
		gần như là một nỗi ám ảnh về sự khổ đau trong thực tại. 
	  Lý do mà đức Phật hết sức nhấn mạnh vào việc phát triển một hiểu biết 
		sâu sắc về bản chất của khổ đau là vì còn có một khả năng thay thế – có 
		một lối thoát, và chúng ta thật sự có khả năng tự giải thoát khỏi mọi 
		khổ đau. Đây là lý do vì sao việc nhận biết được bản chất của khổ đau là 
		hết sức thiết yếu. Bởi vì, sự thấu hiểu về khổ đau càng vững vàng và sâu 
		sắc thì sự khao khát được giải thoát khỏi khổ đau sẽ càng mạnh mẽ hơn. 
		Do vậy, sự nhấn mạnh của Phật giáo về bản chất khổ đau nên được nhìn 
		trong bối cảnh rộng hơn như thế, với sự đánh giá cao về khả năng hoàn 
		toàn giải thoát khỏi khổ đau. Nếu ta không nghĩ đến sự giải thoát, thì 
		việc dành nhiều thời gian để quán chiếu về khổ đau cũng là hoàn toàn vô 
		nghĩa. 
	  Chúng ta có thể nói rằng, hai loại nguyên nhân và kết quả mà tôi vừa đề 
		cập trên đây, một mặt chỉ đến tiến trình của những chúng sinh chưa giác 
		ngộ, liên quan đến chuỗi nhân quả giữa khổ đau và nguồn gốc của nó; mặt 
		khác lại chỉ đến tiến trình của những chúng sinh giác ngộ, gắn liền với 
		những liên kết nhân quả giữa con đường tu tập và sự tịch diệt hoàn toàn. 
		Khi đức Phật diễn giải chi tiết về hai quá trình này, Ngài đã chỉ dạy 
		giáo pháp về Thập nhị nhân duyên, trong tiếng Phạn gọi là 12 nidna 
		(dvdaśanidna).
[17]
	  Các nidna là mười hai mối liên hệ trong chu kì của cuộc sống đi từ vô 
		minh
[18] đến hành (hay “tác ý”),
[19] 
	  đến thức... và tiếp tục cho đến già và chết (lão tử). Khi tiến trình 
		nhân quả của một chúng sinh chưa giác ngộ được mô tả chi tiết – nghĩa là 
		một đời sống trong vòng đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ – thì 
		trình tự của 12 nhân duyên bắt đầu từ vô minh, tiếp tục với hành, 
		thức... vân vân. Trình tự này mô tả cách thức một chúng sinh, do nơi 
		những nguyên nhân và điều kiện nhất định, phải rơi vào tiến trình của 
		một đời sống mê muội. 
	  Mặc dù vậy, cũng một chúng sinh đó, nếu có thực hành những sự tu tập tâm 
		linh nào đó, thì có thể làm đảo ngược tiến trình này, và trình tự ngược 
		lại đó chính là trình tự của tiến trình dẫn tới giác ngộ. Chẳng hạn, nếu 
		chuỗi tương tục của vô minh kết thúc thì chuỗi tương tục của các hành vi 
		tác ý cũng sẽ dừng. Nếu những hành vi đó đã dừng lại, thì chỗ dựa của 
		những hành vi ấy là thức cũng sẽ dừng lại, và cứ tiếp tục như vậy...
	  
	  Bạn có thể thấy rằng, trong một ý nghĩa nào đó, giáo pháp Thập nhị nhân 
		duyên là một sự trình bày chi tiết về hai loại nguyên nhân và điều kiện 
		đã được mô tả trong Tứ diệu đế.