Nhà phỏng vấn và vị  đạo sư
  Có lẽ đây là một dấu hiệu của  thời đại mới, nhưng tôi cũng đã thu đạt được một vài bài học tâm linh qua các  chương trình đàm thoại trên ti-vi. Tôi còn nhớ một hôm xem 
Larry King phỏng vấn một vị đạo sư thuộc truyền thống Ấn Độ  giáo. Tôi không nhớ chính xác những gì vị đạo sư nói, nhưng tôi nhớ rất rõ cái  phong cách thư thái và điềm tĩnh của ông. Mặc dù những khán giả gọi vào chất vấn  ông thường là để bài bác hoặc, ít nhất cũng là hoài nghi, vị đạo  sư vẫn giữ một sự có mặt trong sáng và an lạc, trả lời cho từng câu hỏi một  cách rõ ràng, chính xác và đôi khi còn pha thêm chút khôi hài. 
  
Larry King là một nhà phỏng vấn nổi danh với những câu hỏi thẳng  thừng và soi mói. Có một lúc ông hơi chồm qua bàn viết và nhìn vào đôi mắt  không hề chớp của vị đạo sư. Ông hỏi: “Làm cách nào ngài  có thể giữ cho nó được tĩnh lặng trong ấy đến thế?” Vị đạo sư trả lời: “Trong ấy bao giờ cũng tĩnh lặng. Nhưng chỉ vì chúng ta quấy động chúng lên nhiều quá đó thôi!”
  Đây là một thử nghiệm mà bạn  có thể làm ngay bây giờ, trong không gian riêng tư của nhà bạn, để chứng minh  được những gì vị đạo sư ấy nói là đúng. Chọn một thời gian nào đó khi bạn được ở  một mình và cơ thể được khoẻ khoắn, hay ít nhất cũng không có một sự khó chịu  nào trong thân. Tốt nhất là không đang đói và cũng không buồn ngủ. Tìm một chiếc  ghế nào mà bạn ngồi cảm thấy dễ chịu nhất. Ngồi xuống chiếc ghế ấy. Tận hưởng cái cảm giác dễ chịu. Bạn có thể nhắm mắt lại nếu muốn, hoặc  mở ra, nhìn chung quanh và thưởng thức cái nhìn chung quanh ấy. Tận hưởng cái cảm giác dễ chịu. Đừng làm một việc gì khác, hãy thưởng  thức cái cảm giác dễ chịu ấy. Giữ ít nhất là mười lăm phút để tận hưởng cảm giác dễ chịu trước khi bạn lật trang kế tiếp. Khi nào  xong, bạn hãy đọc sang trang kế tiếp.
  °°°
 
 
Thế nào, bạn có cảm thấy dễ  chịu trong trọn mười lăm phút ấy không?
  Bạn có ngồi và tận hưởng cái cảm giác thư thái và dễ chịu ấy không?
  Mất bao lâu thì có những tư  tưởng khác khởi lên làm quấy rối sự dễ chịu của bạn?
  Những tư tưởng ấy là gì?
  Bạn có những tư tưởng ham muốn  nào không?
  Bạn có tự nghĩ rằng: “Phải chi mình đã chọn một chiếc ghế nào khác thoải mái hơn chiếc  ghế này. Chiếc ghế này chưa phải là cái mà mình ưa thích nhất. Lần tới nếu có thử nghiệm lại, mình sẽ chọn một chiếc ghế  khác thoải mái hơn... ?”
  Bạn có những tư tưởng khó chịu  không? Như là: “Chà, ông hàng xóm  của tôi giờ này lại đi chạy máy cắt cỏ. Mình đã có thể ngồi yên đây thoải mái,  an lạc trong mười lăm phút rồi, nếu không có tiếng máy chạy ồn ào ngoài kia...”
  Bạn có những tư tưởng bồn chồn  không? “Ái chà, ngồi yên đây cũng không dễ chịu như mình tưởng. Có lẽ mình nên  thử đi bộ một vòng quanh xóm. Mình lại quên gọi điện thoại trả lời cho chị Quận... Lẽ ra mình phải gọi cho chị trước khi ngồi xuống, và bây giờ lại  lo lắng không biết chị nghĩ sao về mình. Nếu lỡ chị ta giận vì mình không gọi lại  đúng hẹn thì sao đây?”
  Bạn có bắt đầu cảm thấy muốn ngủ gục không? Bạn có nghĩ rằng: “Việc này chán chết được.  Có lẽ chỉ thích hợp cho mấy  ông đạo ở Ấn Độ, chứ nếu ngồi thiền là như vậy thì chắc chắn không phải là cho  tôi rồi. Có lẽ mình nên ngủ một chút cho hết mười lăm phút.”
  Bạn có nghĩ rằng: “Đây là một bài tập hết sức ngớ ngẩn. Như thế này thì liên quan gì đến giác ngộ chứ?  Mình biết là mình đã dại dột đi mua quyển sách này. Mình thì lúc nào cũng hay  làm những chuyện như vậy – luôn có những quyết định  khờ khạo, nhất thời.”
  Bạn có những ý nghĩ như trên  không? Một vài tư tưởng giống như thế? Hay có hết tất cả?
  Trên căn bản thì vị đạo sư  nói đúng: Nó yên lặng bên trong ta, cho đến khi nào bị khuấy động lên.  Nhưng sự khuấy động ấy không có một chủ đích hoặc một sự cố ý nào. Chúng ta đâu  ai muốn gây thêm phiền phức cho cuộc sống của mình làm gì. Nó cũng không phải  vì tâm của riêng ta hư đốn: tâm của người  khác cũng không giữ được yên lặng gì hay hơn ta. Tính chất tự nhiên của tâm là  hay bị quấy động lên bởi những năng lượng lăng xăng, như những ngọn gió thổi qua  lại trên một mặt hồ làm gợn sóng lao xao, chúng che khuất đi sự trong sáng của  hồ nước. 
  Thực hành thiền tập không có  nghĩa là ta sẽ làm ngưng những làn sóng gợn ấy. Có lẽ những bậc thiền sư giác  ngộ có thể lúc nào cũng nhìn xuyên qua được những làn sóng lăn tăn đó. Nhưng những  người học đạo bình thường như tôi, nếu có thể nhớ được chúng chỉ là những gợn  sóng mà thôi và mặt hồ còn một phía bên kia nữa, cũng đủ là hạnh phúc lắm rồi.
  
Tâm thức và thời tiết
  Chúng ta thường tự kể cho  mình nghe những mẩu chuyện, mà ta cứ lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần. Rồi chúng ta tự làm cho mình hoang  mang và sợ hãi, quên rằng nỗi sợ và lo âu ấy bao giờ cũng là về một cái gì có  thể
 đã xảy ra hoặc
 chưa xảy ra nhưng 
bây giờ thì 
không xảy ra. Chúng ta cũng thường quên là những gì đang xảy ra  bây giờ cũng sẽ không kéo dài lâu lắm đâu!
  Vài năm trước tôi có đến hướng  dẫn một khóa thiền tại thành phố 
Albuquerque. Trong thiền đường  của chúng tôi có một khung cửa sổ rất lớn, chiếm gần trọn một vách tường. Từ chỗ  tôi ngồi có thể nhìn ra bên ngoài thấy một cánh đồi rộng lớn chạy dài ra tới tận  rặng núi 
Sangre de Cristo thật đẹp ở xa xa.  Tôi chợt nhận thấy thời tiết bên ngoài, với gió thổi lồng lộng qua cánh đồi mênh mông, dường như thay đổi rất  nhanh chóng từ đầu cho đến cuối mỗi giờ ngồi thiền của chúng tôi. 
  Khi tôi nhắm mắt lại, mặt trời  có thể còn đang soi sáng, và khi tôi mở mắt ra bốn mươi lăm phút sau, có thể là  một cơn bão tuyết đang quay cuồng ngoài kia. Khi tôi nhắm mắt lại, bên ngoài trời  đang đổ tuyết, tôi có thể mở mắt ra và thấy trời đã chuyển sang mưa. Và rồi, dường  như chỉ trong chốc lát, mặt trời lại hiển lộ, nhưng bên ngoài có gió lộng cuốn  quanh tòa nhà chúng tôi ở. Rồi đột nhiên gió lặng yên, một ánh nắng hoàng hôn  màu hồng phủ lấy núi đồi đẹp một cách huyền diệu, và từng bông tuyết nhẹ nhàng  rơi trong thinh lặng.
  Tôi tự nghĩ: “Thời tiết ngoài kia cũng giống như tâm ta vậy.” Tôi nhìn nhóm  thiền sinh độ hai mươi lăm người ngồi chung quanh tôi, thân của mọi người ngồi  thật yên và gương mặt họ tĩnh lặng. Và vì tôi biết chút ít về mỗi thiền sinh và  biết nhiều về tôi, tôi hiểu những gì tôi thấy chỉ mới là một phần của sự thật mà thôi.
  Tôi tưởng tượng đến một bức tranh khôi hài như sau. Tôi vẽ ra trong đầu một hình ảnh có năm  thiền sinh đang ngồi thiền. Họ quấn người chặt trong chăn và khăn choàng, mắt  nhắm, vẻ mặt an lạc, chỉ  khác biệt nhau về vóc dáng mà thôi. Gương mặt của mọi người đều y như nhau. Và  phía trên đầu mỗi người là một vòng tròn nhỏ, vẽ những hình ảnh tiêu biểu cho  những gì thật sự đang có mặt trong đầu của mỗi người. 
  Tôi tưởng tượng trong một  vòng tròn chứa đầy hình ảnh của những thức ăn như là kem, bánh ngọt, một tô mì  nóng hổi. Một vòng tròn khác là hình ảnh của bãi biển 
Hawaii với hàng dừa tha thướt. Một vòng tròn nữa là hình của đôi tình  nhân tình tự với nhau (mặc dù tôi không biết phải vẽ sao cho tế nhị một chút.)  Còn một vòng tròn là hình ảnh chiến tranh, hoặc con người đánh giết nhau, hoặc  đầy những ký hiệu “#!*%” biểu thị cho những từ ngữ không thích hợp mà người ta dùng để mắng  nhiếc nhau. Một vòng tròn khác đầy tối tăm và mù mịt. Một vòng tròn nữa có vẽ  hình sấm sét, hoặc có lẽ thêm vào một ngọn núi lửa đang phun trong khung cảnh ấy.  Một vòng tròn khác là một người có vẻ mặt hoang mang đang nhún vai, hai bàn tay  mở ra và đưa lên trời, ý diễn tả: “Tôi không 
biết.”  Có lẽ vòng tròn “tôi không biết” ấy sẽ được vẽ trên một nền đầy những dấu hỏi.  Và rồi tôi tưởng tượng thêm hình một thiền sinh thứ sáu, trên đầu anh là một  vòng tròn mà không có gì trong ấy cả.
  Điều tôi muốn nói về  bức tranh khôi hài ấy là, không phải người có  vòng tròn trống không là người may mắn. Thật ra, tôi có một ước mơ là sẽ viết một  cuốn sách mà trong đó mỗi trang đều có cùng mỗi một bức tranh ấy. Bức tranh  cũng vẽ có bấy nhiêu đó người, quấn mền ngồi thiền  trông thật yên tĩnh, gương mặt không hề  biến đổi. Chỉ có nội dung của những vòng tròn tượng trưng cho ý nghĩ của họ là  thay đổi mà thôi. Và cũng chỉ có bấy nhiêu đó ý nghĩ nhưng nó sẽ di chuyển vòng  quanh hết người này sang người khác. Cùng một người nhưng có nhiều tướng trạng tâm thức khác nhau. Mỗi  tướng trạng của tâm thức đến rồi đi. Dù cho đó có là sự tĩnh lặng cũng vậy.
  Mỗi cá nhân đều sẽ kinh nghiệm  hết mọi năng lượng khác nhau trong tâm mình, đó là những trận bão có thể đoán  trước được trong tâm thức con người. Chúng phản ảnh những sự thăng trầm của  năng lượng trong ta, cũng như phản ứng của tâm ta đối với những kinh nghiệm dễ  chịu và khó chịu. Tất cả đều là hoàn toàn tự nhiên. Chúng không có gì để ta phải  sợ hãi hoặc cảm thấy là chướng ngại hết. Nếu chúng ta đến sống ở một hành tinh nào khác, ta sẽ muốn có ai báo trước cho ta biết thời tiết nơi ấy như thế nào, để ta có thể chuẩn bị trước.  Con người trên hành tinh này cũng vậy, sự sống sẽ được dễ dàng hơn nếu ta biết  cách đối phó với mọi sự bất ngờ của thời tiết, chung quanh ta cũng như là trong  ta.
  
Những tâm thức chướng  ngại chỉ có bấy nhiêu thôi
  Trong kinh điển Phật giáo, năm năng lượng của dục lạc, sân hận, dã dượi, xao động và hoài  nghi được gọi là “
ngũ cái”,
  tức là năm sự ngăn che của tâm. Chúng được gọi là những sự ngăn che của tâm, vì chúng làm mờ mịt  cái thấy sáng suốt của ta, cũng giống như những trận bão cát trong sa mạc, hoặc  sương mù trên đường đi, có thể làm cho người lữ hành bị lạc lối. Chúng ngăn trở  không cho ta tiếp xúc với tự tánh thanh tịnh của mình. Chúng làm ta điên đảo.  Ta nhận đó cho là thật và quên rằng tự tánh của mình không phải chỉ là một trận  bão đi ngang qua. Trận bão lướt qua sẽ chỉ là một trận bão lướt qua. Còn chân  tánh thì bao giờ cũng vẫn là chân tánh trong ta muôn đời sáng tỏ.
  Năm loại năng lượng khác nhau  ấy thật ra là chỉ có bấy nhiêu thôi, nhưng chúng lại được cải trang qua biết  bao nhiêu là bộ mặt khác nhau. Bánh kem thì khác với bánh 
pizza và khác  với tình dục, nhưng trên cơ bản thì tất cả chúng đều là những đối tượng của tham dục. Cùng một năng lượng của sân hận đã cung cấp nhiên liệu cho sự  bực tức của ta đối với người hàng xóm vặn nhạc quá lớn, và sự bất mãn của ta với  một vị tổng thống bất tài. Tâm càu nhàu nào thì cũng chỉ là tâm càu nhàu; tâm  buồn ngủ là tâm buồn ngủ; tâm xao động là tâm xao động; tâm hoài nghi là tâm  hoài nghi.
  Sự thật là trong tâm ta luôn sẽ có những trận  bão tố khởi lên và qua đi, điều ấy không phải là vấn đề. Sống ở một nơi mà thời  tiết thay đổi luôn luôn cũng không phải là vấn đề. Nhưng dù sao đi nữa, ta phải  biết mặc đồ cho thích hợp với các loại thời tiết khác nhau, và có đủ khôn ngoan  để ở trong nhà khi ngoài trời dông tố. Và ta cũng nên nhớ là thời tiết nào rồi  cũng sẽ thay đổi. Những tâm thức khó khăn của ta chỉ trở thành vấn đề khi nào  ta thật sự tin rằng chúng sẽ tiếp tục mãi mãi. Rồi từ đó, vì chúng là những  năng lượng bất an, ta đâm ra sợ hãi.
  Chúng ta có hai loại sợ hãi.  Một là nỗi sợ rằng những gì đang xảy ra bây giờ sẽ tiếp tục mãi mãi. Điều đó  hoàn toàn là không thật – không có gì có thể tiếp diễn mãi mãi được. Nỗi sợ thứ  nhì là mặc dù nó sẽ không tiếp diễn mãi mãi, nhưng nỗi đau đang có mặt sẽ mãnh  liệt đến mức ta không thể chịu đựng được. Và nỗi sơ thứ hai này có tàng chứa một  chân lý rất sâu sắc. Ta không bao giờ có thể chối bỏ được là trong cuộc đời này,  tấm thân ta có thể bị nhiều đau đớn, những mối tương giao của ta có thể sẽ mang  lại khổ đau, sẽ có những lúc ta cảm thấy một nỗi đau thật lớn. Nhưng mặc dù vậy,  tôi nghĩ là chúng ta đã tự xem thường mình, chúng  ta đã đánh giá mình hơi thấp. Đôi khi cuộc đời có thể có nhiều đau đớn, nhưng  tôi tin rằng chúng ta có một khả năng chịu đựng rất to tát.
  Vì chúng ta thường hoảng hốt lên mỗi khi vừa có một ngọn gió chướng ngại nổi lên  trong tâm thức, nên ta thường chống cự lại với nó. Chúng ta cố gắng thay đổi nó, hoặc muốn loại trừ nó. Tình trạng rối loạn và giằng co ấy lại càng làm cho tâm trạng ta trở nên khốn khó hơn.
  Việc ấy cũng giống như cảnh  chú mèo 
Daffy, một nhân vật trong  phim hoạt hình trẻ con, đang thong  dong đi trên đường đột nhiên đạp nhằm một đống kẹo dẻo mạch nha. Trong cơn vội  vã, vụng về cố gắng tự giải cứu, chú ta té tới, té lui và cuối cùng toàn thân bị  dính cứng trong đống kẹo dẻo ấy, không thoát ra được. Trong hoàn cảnh ấy, ngay  cả trẻ con cũng thấy được giải pháp nào là đúng.
  Giải pháp hay nhất là một  thái độ nhận diện không hoảng sợ. “Đây là kẹo dẻo mạch nha. Tôi không thấy nên giẫm vào, nhưng bây giờ thì tôi biết là mình đã lỡ bị kẹt. Nhưng nó 
chỉ là kẹo mạch nha mà thôi. Cả thế giới này đâu phải làm toàn bằng kẹo mạch nha? Và bây giờ thì hành động nào là khôn ngoan nhất?”
  
Ăn xúp bằng nĩa
  Chúng ta tự tạo nên  những vấn đề rất to tát vì không thấy được những năng lượng bất an của tâm, nhất  là khi chúng ẩn núp dưới hình dạng của những câu chuyện. Chúng cũng giống như  những đứa trẻ con láng giềng hóa trang làm những con ma vào ngày lễ 
Halloween.  Khi chúng ta mở cửa ra và thấy đứa bé hàng xóm phủ một tấm vải trắng để đi xin  kẹo, mặc dù trông giống một con ma, nhưng ta vẫn biết đó chỉ là đứa bé láng giềng  mà thôi. Và khi tôi nhớ rằng những biến cố trong  đời mình chỉ là những năng lượng của tâm núp dưới tấm vải trắng của một câu  chuyện, tôi có thể ứng xử với chúng một  cách ưu ái hơn.
  Dưới đây là một bài thực tập  để chứng tỏ chính trạng thái tâm thức của ta, chứ không phải sự việc xảy ra, đã quyết định cho kinh nghiệm của mình:
  
Trường hợp thứ nhất
  Bạn đang có liên hệ  tình cảm với một người nào đó, và mối tương giao bắt đầu có dấu hiệu đổ vỡ. Bạn  và người kia, cả hai đều thất vọng vì mối tình đã không thành. Người này cảm thấy  bất mãn và tức giận với người kia vì họ đã không giống như mình mơ ước. Cả hai  quyết định cùng gặp nhau một lần chót để giải quyết cho dứt khoát. Hai người  dành một ngày để cùng nhau ra biển, lánh xa tất cả. Nhưng khi ngày trôi qua, mỗi người lại chỉ nhớ đến  những đau đớn, thất bại trong mối tương giao giữa đôi bên. Bạn cảm thấy tức giận  và đuối sức. Trên đường về, vì cả hai cảm thấy đói, bạn dừng lại một quán ăn  chiều. Người tình cũ của bạn ăn xúp bằng nĩa. Bạn tự nhủ: “Điều này còn tệ hơn là  mình tưởng! Tên khờ này lại ăn xúp bằng  nĩa!”
  
Trường hợp thứ hai
  Bạn cảm thấy yêu tha thiết.  Người kia cũng yêu bạn đắm say. Cả hai dành trọn một ngày ra biển chơi. Bạn nằm tắm nắng, đọc truyện tình, đùa giỡn  trên sóng, âu yếm với nhau. Trên đường về, cả hai cảm thấy đói nên dừng lại một  nhà hàng. Người thương của bạn ăn xúp bằng nĩa. Bạn tự nhủ: “Trông thật là đáng yêu! Anh ta ăn xúp bằng nĩa kìa!”
  °°°
  Tôi nghĩ có lẽ đó là ý nghĩa  của câu “Chúng ta tự tạo nên thực tại của chính mình.” Tôi thường gặp khó khăn về ý nghĩa của câu ấy, lần đầu tiên khi tôi được nghe vào thập niên bảy mươi. Vì dầu cho có cố gắng đến đâu, tôi vẫn  không thể nào tạo được một thực tại là ngày mai mặt trời sẽ mọc ở phương Tây,  và tôi cũng không thể nào chữa lành cho những người tôi thương bị mắc bệnh nan  y, như một phép lạ. Nhưng có một thực tại mà tôi có thể tạo được – là
 quan  điểm của tôi về bất cứ vấn đề nào.
  
      Chữ “cái” có nghĩa là nắp đậy,  sự che bít vật gì. 
 
 Ái dục
  Theo kinh điển nhà Phật thì  năng lượng của lòng ái dục đứng đầu trong danh sách các tâm thức chướng ngại.  Trước hết, nó là một loại năng  lượng có nhiều thử thách và khá lý thú, vì danh từ ái dục tự nó hàm chứa một ngụ  ý về tình dục. Ví dụ khi một người nói là  họ đang có ái dục về một đối tượng, chắc chắn chúng ta  không ai nghĩ là họ muốn nói tới bánh kẹo hoặc một tô phở.
  Ái dục thường gây hổ thẹn cho người thú nhận. Có lần, trong một  lớp dạy về các năng lượng khó khăn trong tâm, tôi hỏi các thiền sinh là năng lượng  nào đã gây nhiều khó khăn nhất trong cuộc sống của mỗi người. Khi chúng tôi đi  vòng quanh phòng, phần đông đều phát biểu rằng lòng thù ghét hoặc sân hận là một  chướng ngại khổ sở nhất đối với họ. Dường như ai cũng có thể chấp nhận được điều  ấy dễ dàng, và nó cũng không có gì là lạ hoặc gây khó chịu cho người nghe. Cuối  cùng, có một người đàn ông phát biểu: “Thật ra thì tôi  nghĩ lòng ái dục là gây cho tôi nhiều khó khăn nhất.” Mặc dù không ai nhúc  nhích, nhưng tôi thấy dường như có một sự ngượng ngùng rõ rệt. Có những tiếng  cười rụt rè, khúc khích vang lên khắp nơi trong  phòng. Đột nhiên, người đàn ông dễ thương, đáng kính và thành thật ấy, lại như  có một cái gì bất thiện phủ trùm lên ông.
  Mặc dù trong kinh điển có đề  cập đến lòng ái dục như một năng lượng nhục dục, nhưng theo tôi nghĩ chúng ta  nên hiểu rằng đó là một năng lượng tham muốn về bất cứ một đối tượng nào cũng vậy.  Nó là năng lượng của cảm nghĩ là ta sẽ không thể nào có hạnh phúc trừ phi có được một cái gì đó. Nó là một cảm giác thiếu thốn trong tâm. Bạn  có bao giờ có cảm giác ấy không? Bạn đứng dậy, đi lại mở cửa tủ lạnh rồi nhìn  vào; bạn đứng đó với cánh cửa tủ lạnh mở toang, bạn  không biết là mình thật sự muốn gì nữa, nhưng bạn có cảm giác là mình muốn 
một  cái gì đó. Nó cũng chính là cái năng lượng đã xúi giục chúng ta đột nhiên phải mở ti-vi lên, và dùng hộp điều khiển từ xa để chuyển đổi hết kênh này sang kênh khác, hy vọng có một cái gì đó  hay ho đang được trình chiếu!
  Tâm thiếu thốn thì chỉ là một  tâm thiếu thốn, và nhiều khi nó xuất hiện mà không cần đến một sự đòi hỏi nào của  sinh lý. Mấy năm trước, khi đứa cháu gái của  tôi lên hai tuổi, em trai nó chào đời. Bà nội nó và tôi đến ở với nó vào đêm mẹ nó phải vào bệnh viện. Chúng tôi lo cho nó hết sức chu tất
. Nó cũng rất thân với  chúng tôi, và cả hai bà ngoại, nội đều dành hết tất cả cho  sự an vui của cháu. Mặc dù vậy, trong suốt buổi tối hôm ấy, rõ ràng là nó đã cảm  thấy sự vắng mặt của mẹ nó. Nó bảo: “Cháu muốn uống nước cam,” và chúng tôi đi lấy nước. Rồi nó đòi: “Cháu muốn ăn một miếng bánh,” và chúng tôi lại cho nó bánh. Một  hồi sau nó lại nói, “Bây giờ cháu muốn đọc sách,” và tiếp theo là “Cháu muốn đồ  chơi. Cháu muốn búp bê. Cháu muốn ăn táo...” 
  Đến một lúc, tôi và bà nội nó  nhìn nhau và hiểu là đứa cháu gái mình chỉ cảm thấy 
cần một cái gì đó  thôi. Bà nội nó nói: “Chắc là nó nhớ  mong một cái gì.” Đứa cháu gái tôi cảm nhận cái năng lượng của sự nhung nhớ về  một cái gì mà nó không biết rõ. Và lẽ dĩ nhiên, nó đâu có khả năng để nói là: “Cháu cảm thấy năng lượng của sự cần thiết và ham muốn, nhưng  cháu không biết là mình đang cần cái gì.”
  Đôi khi cái tâm nghèo túng ấy  khởi lên để đáp ứng lại một sự thiếu thốn trong lòng, như trong trường hợp của  đứa cháu gái tôi. Nhưng cũng có đôi lúc dường như nó xuất hiện thật vô cớ. 
  Thật ra cũng không phải hoàn  toàn là vô cớ đâu! Thường thì đó là những phản ứng tự nhiên của ta khi tiếp xúc  với những gì mình ưa thích. Như có bao giờ bạn đi ngang qua một tiệm bánh và trở  nên ý thức đến một mùi bánh thơm thoang thoảng bay ra không? Trước khi bạn ngửi  thấy mùi bánh ấy, bạn không đói bụng. Bây giờ thì đột nhiên một cơn đói bụng  ghê gớm chợt nổi dậy. 
  Điều này không phải là một sự  kiện gì quái lạ hết, vì đường lối vận hành bình thường của tâm là như vậy. Mỗi  khi tiếp xúc với những kinh nghiệm dễ chịu, tham muốn sẽ khởi lên. Mà hành động  theo sự ham muốn cũng không nhất thiết là sai trái, vì đôi khi những ham muốn ấy cũng rất lành mạnh, đặc biệt là những  ham muốn của cảm thọ. Ta không thể khờ khạo mà nghĩ rằng mỗi khi cảm thấy đói bụng  chúng ta chỉ cần nói: “Cái này chỉ là  lòng ham muốn khởi lên mà thôi” và rồi không cần phải làm gì hết. Và cũng vậy,  khi ta giả vờ như không biết đến những cảm giác dục tình, thay vì chọn những biện  pháp khéo léo, có ý thức để đối trị nó, thì kết quả cũng sẽ không tốt đẹp gì  hơn. 
  Sự ham muốn của cảm thọ là những  năng lượng đều đặn và thường xuyên tràn lấn tâm ta và bắt giữ sự chú ý của ta.  Chọn những ham muốn lành mạnh của cảm thọ là một phần trong cuộc sống được làm  bằng những tương giao của ta với thế giới chung quanh này.
  Cũng có những ham muốn phức tạp  hơn là những nhu cầu rõ rệt của sinh lý như là về thực phẩm hoặc tình dục chẳng  hạn. Đó là lòng ham muốn về những kinh nghiệm thú vị. Tôi thường thích đọc tạp chí 
Smithsonian. Mỗi tháng tôi nhận được một  tờ báo mới gởi đến tận nhà, và phía bìa sau là những hình quảng cáo về những  chuyến du lịch không tưởng đến những nơi thật xa xôi. Có lúc bất ngờ tôi thấy  mình thật sự dự tính cho một cuộc du hành mười bảy ngày đến Bắc cực. Năm phút  trước khi đọc trang quảng cáo ấy, tôi không hề nghĩ đến bất cứ chuyến đi xa nào  hết. Mà trong đời tôi, cho đến giây phút ấy, tôi cũng không hề có một ý thích  gì đến thăm viếng miền Bắc cực. Vậy mà đùng một cái, tờ quảng cáo hấp dẫn đã  khiến tôi thật sự xem xét giá tiền của chuyến đi và tự hỏi không biết mình có sắp  đặt được thời giờ để tham gia không! 
  Những loại sách liệt kê các  món hàng và những tài liệu quảng cáo gửi qua đường bưu điện  cũng có thể khích động được năng lượng ái dục trong ta. Mỗi ngày tôi đều nhận  được những tập sách quảng cáo về những món hàng mà tôi không bao giờ cần đến.  Những trang bìa được trình bày rất hấp dẫn khiến lần nào tôi cũng quyết định là  mình nên xem qua một chút. Và khi đọc vào rồi, thế nào tôi cũng tìm thấy một  món đặc biệt nào đó mà tôi phân vân không biết mình có cần hay không. Hoặc là nghĩ, có thể cá nhân mình không cần, nhưng nó sẽ rất  thích hợp cho một người quen nào đó. Mặc dù chưa đến ngày sinh nhật của họ. Tôi  bắt đầu nghĩ đến khi nào là sinh nhật họ, hay là để dành món quà ấy cho một dịp  lễ nào khác. 
  Tất cả những chuyện ấy thật  ra cũng dễ hiểu, vì đường lối vận hành của tâm là mỗi khi tiếp xúc với một kinh  nghiệm dễ chịu, chúng ta sẽ cảm thấy một sự lôi kéo, một năng lực ham muốn, và  tâm ta sẽ chạy theo hướng của những kinh nghiệm cảm thọ dễ chịu ấy.
  Và đôi khi dù không có một  kinh nghiệm lý thú nào có mặt, tâm ta cũng vẫn có đầy đủ khả năng để gợi lại những  hình ảnh trong quá khứ, và rồi tham muốn chúng. Tôi rất ngạc nhiên khi khám phá  ra tâm ta lại có thể ham muốn thật nhiều mặc dù đang sống trong tu viện. Tôi đã  bỏ ra rất nhiều thời gian trong những tu viện để thực tập thiền quán. Thực phẩm  ở đây rất đơn sơ và hoàn cảnh không hề cho phép ta có những sinh hoạt gì nhiều.  Mặc dù vậy, tôi cũng đã phác thảo trong đầu toàn bộ một nhóm y phục rộng rãi và  thoải mái mà tôi có thể mặc để đi tham dự một khoá tu trong tương lai viển vông  nào đó. Tôi tưởng tượng sẽ đan cho mình một tấm mền ấm hơn. Tôi phác họa trong  đầu sẽ mua một chiếc đòn gỗ hoặc một tọa cụ khác, ngồi thoải mái hơn cái mà tôi  đang có. Mặc dù những nguyên nhân gây nên sự tham muốn ở đây rất là ít ỏi,  nhưng tâm tôi vẫn cứ hoạt động tối đa. Tôi tưởng tượng kinh nghiệm tu tập của  mình sẽ có nhiều thành quả hơn nếu họ làm đồ ăn sáng ngon hơn hoặc mua một hiệu  trà khác hơn. 
  Tùy ở sự tu tập của tôi ngày  hôm ấy tốt đẹp đến đâu, tôi có thể thấy mình nghĩ đến thực đơn của buổi ăn chiều,  ngay sau khi vừa ăn trưa xong. Nhưng tôi không hề nghĩ là tâm tôi động loạn gì  nhiều hơn bất cứ một ai khác. Tánh tự nhiên của tâm là luôn luôn nhìn về phía  chân trời, tìm kiếm những kinh nghiệm nào khả dĩ có thể đem lại sự thú vị cho  nó, và rồi bám chặt vào đó. Đó là tình trạng bị điều kiện của chúng ta.
  Và đôi khi năng lượng của sự  ham muốn trong tâm sẽ khiến cho ta đột nhiên biết yêu. Khi tâm và thân ta tràn  ngập năng lượng của ái dục, người khác đối với ta tự nhiên sẽ trở nên hấp dẫn  hơn. Chúng ta vẽ vời nên những hình ảnh thơ mộng lãng mạn hoặc  gợi tình về người khác mà không cần biết họ là người như thế nào, chỉ dựa vào tâm ta lúc ấy cảm thấy ra sao. Đây là một hiện tượng đặc biệt rất  khó đối trị. Nó xảy ra rất thường trong những khoá tu khi mọi người tuyệt đối  nguyện giữ thinh lặng, và vì vậy họ không thể nào xét đoán được người khác xem  có hợp với mình không. Họ cảm thấy kích thích trong tâm và thân, và đột nhiên bị  xúc động mạnh, giống như là họ vừa biết yêu một người mà mình không hề quen biết,  chỉ dựa trên cách cô nàng đi vào thiền đường hoặc nhìn anh chàng ăn mà thôi.  Chính tôi cũng đã từng cảm thấy yêu những người đâu đâu, chỉ vì họ vô tình bước vào tầm nhìn của tôi, khi tôi đang cảm thấy  vui thú hoặc đang ngập tràn năng lượng ái dục. Tôi cũng đã mơ tưởng ra những  hình ảnh bỏ trốn theo những người xa lạ ấy. Cả sự việc rất là buồn cười và  không thực, vì tôi đã có chồng và hoàn toàn không hề có một tình ý nào khác với  bất cứ ai. Và những người mà tôi cảm thấy “yêu”, tôi cũng có biết chút ít về họ,  hoặc đã đính hôn hoặc cũng đã có gia đình. Cả chuỗi sự kiện ấy hoàn toàn chỉ là  những mơ tưởng vô vọng. Nhưng dù vậy, tâm ta cứ bám vào vấn đề ấy và quyết định  rằng đây là một mối tương giao quan trọng nhất trong đời mình, đây là người bạn  đời tâm linh mà mình hằng tìm kiếm. Nghĩ cũng đáng sợ khi thấy tâm ta lại có thể  dựng lên cả một tấn tuồng từ một năng lượng rất đơn sơ của thân và tâm.
  Khi năng lượng của ái dục  phát khởi, chúng ta nhìn chung quanh, và đùng một cái cho rằng: “Đây chính là cái mà mình đang  cần đây!” Thật ra đó cũng không phải là  vấn đề, mà là sự khôi hài thì đúng  hơn. Nó chỉ trở thành vấn đề khi ta thiếu chánh niệm, khi ta quên đi và cho đó  là thật.
  Nhưng không phải là tôi muốn  khuyên bạn không nên yêu. Biết yêu nhiệm mầu lắm chứ! Tôi chỉ muốn nói là khi  ta yêu, ta nên từ tốn một chút để có thể biết chắc rằng người ta yêu không đơn giản chỉ là một nhân vật được tạo nên bởi  lòng ham muốn của chính mình.
  Giáo lý của Phật dạy về ái dục  có lẽ cũng tương tự với một huyền thoại của Âu châu, là nếu bạn nuốt trọn trái  tim của một con gà, bạn sẽ phải lòng và sống trọn đời với bất cứ người nào mà bạn  gặp ngay sau đó. Thật ra tôi nghĩ có lẽ chuyện ấy cũng đã thật sự xảy ra cho rất  nhiều người. Sau khi đã nuốt trọn một trái tim và đang ở trong trạng thái gợi  tình, bất cứ người nào mà họ gặp tiếp đó sẽ được nhìn thấy là hấp dẫn hơn. Là một thiền sinh có nghĩa là ta tạo cho mình một  khoảng không gian trong tâm, để ta có thể tỉnh táo và thấy được thế nào một phản  ứng lành mạnh và vững vàng.
  Một liều thuốc có khả năng  hóa giải được chướng ngại về ái dục là sự kiềm chế. Thái độ 
kiềm chế trong  thời đại ngày nay nghe có vẻ lạc hậu quá. Tôi cũng cảm thấy hơi ngượng một chút  khi sử dụng danh từ ấy, vì tôi thấy bắt đầu giống bà Nội mình. Đối với cụ thì chỉ cần nói ra một số từ ngữ khiếm nhã thôi cũng đủ là hành động bất luân rồi. Nhưng 
kiềm  chế là một danh từ rất hay. Nó có nghĩa là ta biết chờ đợi lâu đủ để thấy  được hai việc xảy ra.
  Việc thứ nhất là ta hy vọng sẽ  thấy rõ được đối tượng của sự ham muốn có lành mạnh không, và hành động theo nó  có hợp luân lý, có trách nhiệm và đúng đắn hay không. Và việc thứ hai sự chờ đợi  có thể cho phép ta thấy được là ham muốn tự nó chỉ là một năng lượng của tâm mà  thôi. Đó là một loại năng lượng có tác dụng tô màu cảm giác và  thúc đẩy hành động của ta. Nhưng khi đã biết nó chỉ là một loại năng lượng, ta  sẽ hiểu nó không hề có quyền năng bắt ta phải hành động. Nó không phải là một mệnh  lệnh, chỉ là một lời đề nghị mà thôi. Nếu sự ham muốn là lành mạnh và đúng lúc,  ta có thể quyết định sẽ hành động theo. Và nếu sự ham  muốn là bất thiện và không đúng lúc, ta có thể tự kiềm chế lại, và năng lượng ấy  chắc chắn rồi sẽ qua đi.
  
Liều thuốc giải trừ  ái dục
  Sau đây là một câu chuyện ngụ  ngôn ví dụ cho ta thấy năng lượng ái dục có thể bị khắc phục bằng sự tu tập định  tâm. Cũng như những chuyện cổ tích khác, câu chuyện ngụ ngôn này đã được truyền  miệng qua nhiều thế hệ. Tôi không  biết nguồn gốc của nó, nhưng tôi nghe lại từ một người bạn, và chị ta đã được  nghe từ vị giáo sĩ Do Thái 
Zalman Schachter-Shalomi. Thế nên, bây giờ  thì đây là một câu chuyện Phật giáo nhưng có nguồn gốc từ Do Thái giáo.
  Ngày xưa thật xưa, trước khi  chúng ta quá khôn ngoan, ở một vùng đất nọ, nơi vẫn còn những cô công chúa thật  đẹp với trái tim còn đang say ngủ và những chàng trai khờ khạo, có một thanh  niên đem lòng yêu thương một cô công chúa miền xa. Lòng ái dục về nàng công  chúa đã ngập tràn tim anh. Chàng thanh niên ấy tin chắc rồi sẽ có một ngày họ  được gặp và thành hôn với nhau. Anh ta còn tưởng tượng là mình sẽ trở thành người  cha của một bầy con đông đảo.
  Rồi một hôm, trong một chuyến đi, cô công chúa cùng đoàn tùy tùng đi ngang qua  nơi anh đang sống. Và chàng thanh niên khờ dại ấy bị lòng ái dục làm mù quáng,  nhào ra khỏi đám đông, quỳ xuống trước chân cô công chúa và kêu lên: “Chừng nào chúng ta mới sẽ được sống bên nhau?” Cô công chúa với  giọng khinh khi nhìn anh thanh niên nói: “Ở trong nghĩa địa!”  Ý của cô là: “Không bao giờ là  trong kiếp này, tên ngốc kia!” Nhưng anh thanh niên lại tiếp nhận lời ấy như một  mệnh lệnh, anh ta tìm đến một nghĩa địa và chờ ở đấy.
  Anh chờ và chờ, và tiếp tục chờ. Thời gian hoàn toàn là vô nghĩa đối với anh. Anh  chỉ có một mục đích duy nhất và một con tim không biết lay chuyển.
  Và anh tiếp tục chờ đợi...
  Bỗng một ngày nọ, tâm  anh trở nên thật bình lặng và tập trung đến mức toàn thân tâm anh ngập tràn niềm  vui và ánh sáng, nó xua tan hết mọi hận thù và tâm niệm nhỏ nhen. Anh cảm thấy yêu thương tất cả mọi người, mọi loài  không phân biệt. Và người chung quanh cũng cảm nhận được tình thương bao la ấy  của anh, họ rủ nhau tìm đến để được anh ban ơn phước.
  Và anh vẫn tiếp tục chờ đợi...
  Anh cũng đã nhiều lần được gặp  thần Chết. Thật ra thần Chết là người khách ghé qua thường xuyên nhất, vào đủ mọi  giờ, mọi lúc, dẫn theo đủ mọi hạng người trong xã hội, già trẻ, giàu nghèo, đẹp xấu, được nhiều người thương hoặc bị  mọi người ghét bỏ. Với một cái nhìn tĩnh lặng, chàng thanh niên chợt nhận thấy  cái mong manh, vô thường của sự sống, cái bước tiến vô tình và lạnh lùng của thời  gian. Anh chợt ý thức được những khổ đau của ta hiện hữu là vì ta bám víu vào bóng ma của các kinh nghiệm rỗng tuếch. Và rồi  anh trở nên minh triết hơn. Và người chung quanh cũng cảm nhận được sự minh triết  ấy, họ lại càng tìm đến đông hơn để được anh ban ơn phước.
  Cô công chúa ngày xưa bây giờ  đã lập gia đình, nhưng vẫn chưa có được đứa con nào. Nghe tiếng  đồn về một vị thánh sống trong nghĩa địa, có khả năng ban ơn phước cho mọi người,  cô tìm đến để xin được một đứa con. Và chàng thanh niên si mê khi xưa, ngày nay  với một hạnh phúc vô biên và cuộc sống tự tại, kêu gọi hết tất cả những thần  linh trong toàn cõi vũ trụ về ban phước cho cô. Và cô công chúa ấy sau cùng đã  trở thành mẹ của một bầy con kháu khỉnh.
  
Ác cảm
 Ngược lại với lòng  ái dục là ác cảm, một năng lượng của sân hận và tiêu cực. Ác cảm không dễ chịu.  Đức Phật nói đến lòng sân hận như là một thứ độc dược trong tâm, nó là một loại  nọc độc làm lu mờ tâm ý ta. Khác với một tâm đầy ái dục lúc nào cũng tìm kiếm  chung quanh một vật gì nắm bắt để thỏa mãn, tâm ác cảm ngược lại muốn loại bỏ  chúng đi.
  Đôi khi người ta lại  cho rằng sự tức giận có một cảm giác thú vị, vì nó là một loại năng lượng kích  thích rất mạnh. Ví dụ, một người đang ở trong trạng thái buồn ngủ hoặc dã dượi,  đột nhiên sẽ cảm thấy trở nên sống động và tỉnh thức hơn. Cơn giận đôi khi khiến  ta cảm thấy như mình rất có quyền thế, nhất là khi ta nghĩ cơn giận của mình là  chính đáng. Nhưng cuối cùng thì sự giận dữ chỉ là một cơn bão trong tâm mà  thôi, nó chỉ làm cho ta mệt mỏi và rối loạn thêm.
  “Tôi phải đối xử với cơn giận  của mình bằng cách nào?” là một trong những câu hỏi tôi thường được nghe nhiều  nhất. Khi người ta nghĩ tôi sẽ khuyên rằng sự biểu lộ cơn giận ra ngoài là hoàn  toàn không cần thiết, họ thường cảm thấy hơi lo và phản đối ngay. Tôi nghĩ, có  lẽ người ta sợ là một khi họ không còn được tranh cãi và chiến đấu nữa, họ sẽ  không còn có thể truyền thông một cách tự nhiên và thành thật với kẻ khác. 
  Tôi rất thích dạy cho người  ta hiểu là nếu ta 
truyền đạt thông điệp của mình mà không nổi giận, ta sẽ  có thể nói bất cứ một điều gì ta muốn cho bất cứ một ai trên thế giới này, mà vẫn  có thể nhấn mạnh được quan điểm của mình và cảm thấy được lắng nghe. Thông điệp  ấy có thể nói lên sự thật là ta đã hoặc đang cảm thấy tức giận, nhưng không nhất  thiết nó phải là một sự biểu lộ của cơn giận ấy!
  Trong bộ 
Vinaya, tức  những giới luật và uy nghi của bậc xuất gia, đức Phật có để lại những lời hướng  dẫn sau đây cho việc biểu lộ cơn giận. Ngài nói:
  
Trước khi khiển trách một người  nào, ta nên suy ngẫm những điều này... Lời nói phải hợp thời, hợp lúc. Lời nói  phải chân thật, không dối trá. Lời nói phải vì lợi ích của người ấy, không phải để gây sự mất mát. Lời nói  phải ôn hòa, không được gay gắt. Lời nói phải vì từ bi, không phải vì giận dữ.
  Trong nhiều năm qua, tôi đã  ghi chép lại những lời dạy ấy trên một tấm thẻ nhỏ để trong văn phòng. Và tôi  thường đưa cho những cặp vợ chồng xem, khi họ đến tham vấn tôi về những khó  khăn trong đời sống hôn phối.
  Tôi rất thích ý tưởng về việc  “
hợp thời, hợp lúc”. Nó nhắc nhở là ta không cần phải biểu lộ sự tức giận của mình ra  ngay tức thì, và chọn một thời gian khác thích hợp hơn sẽ có thể giúp cho người  kia dễ dàng tiếp nhận thông điệp của mình hơn. “Chân thật”, theo ý tôi, có  nghĩa là ta có đủ thời giờ để suy ngẫm về điều gì đã 
thật sự làm cho  mình tức giận, thay vì đưa ra những nguyên cớ nông cạn như chúng ta vẫn thường  làm.
  “Anh 
không bao giờ chịu  đậy nắp của ống kem đánh răng lại mỗi khi dùng xong!” có lẽ là  không đúng sự thật. “
Thường thường” thì có lẽ chính xác hơn là “
không  bao giờ.” Và cũng rất có thể, sự thật không phải ống kem đánh răng là nguồn  gốc của nỗi bực tức của ta. “Khi anh không đậy nắp của ống kem đánh răng lại,  em cảm thấy là anh không biết chiều ý em, và điều ấy  làm cho em lo sợ” thì có lẽ gần đúng với sự thật hơn.
  “Ôn hòa”, “từ bi” và “vì lợi  ích của người ấy” có nghĩa là ta biết bỏ thì giờ để quán xét lại ý định của  mình trước khi bày tỏ sự bất bình. Nó có nghĩa là ta phải chắc rằng ý định của  mình là để giải hòa hoặc để hướng dẫn với lòng từ ái, chứ không phải có mục  đích gây đau đớn để trả thù cho sự tổn thương của mình.
  Đôi khi có những cặp vợ chồng  xin phép tôi đem tấm thẻ ấy về để in lại, và sẽ trưng bày trong nhà ở nơi dễ thấy  nhất. Nhiều năm nay tôi đã từng mơ ước là phải chi có một hãng sản xuất loại giấy trang trí dán tường nào lại muốn sáng chế kiểu  mới này, để chúng ta có thể trang trí hết những căn phòng trong nhà với những lời  dạy của đức Phật về phương cách biểu lộ cơn giận.
  Vài năm trước, tôi có đi tham dự một khóa hội thảo, khi có người đứng lên hỏi đức 
Đạt-lai Lạt-ma, “Ngài có bao giờ nổi giận không?” Ông trả lời: “Lẽ dĩ nhiên. Nếu có điều gì xảy ra mà tôi không thích, nếu đó là  chuyện mà tôi không muốn xảy ra, cơn giận sẽ khởi lên.” Qua giọng nói của ông,  tôi nhận thấy rất rõ là mặc dù cơn giận có khởi lên, nhưng đối với ông nó chẳng  có gì là đáng kể. Chúng tôi hiểu, mỗi khi cơn giận phát khởi lên ta chỉ cần làm  những gì thích đáng để giải quyết vấn đề và rồi cơn giận sẽ qua đi. Nhưng tôi  không bao giờ có thể tưởng tượng được đức 
Đạt-lai Lạt-ma, người mà tôi nghĩ rằng có một tâm thức lành mạnh  nhất trên thế giới này, lại có thể biểu lộ cơn giận của ngài bằng một phương  cách nào bất thiện.
  Ý thức được sự phát  khởi bất ngờ của cơn giận cũng giống như ta có một hàn thử biểu trong tâm vậy.  Mỗi khi tôi thấy nhiệt độ tăng vọt lên, tôi biết ngay là có một chuyện gì đó vừa xảy ra, hoặc đe dọa, hoặc làm tôi buồn bực.  Nếu khôn ngoan thì thay vì biểu lộ phản ứng giận dữ ra bên ngoài, tôi có thể ngồi  xuống để tìm hiểu nguyên nhân của sự sợ hãi hoặc nỗi buồn ấy là gì. Khi thấy được  nguyên nhân rồi, từ đó tôi sẽ có thể giải quyết vấn đề khôn khéo hơn, không bị rối loạn vì năng lượng tiêu cực của cơn giận.
  Lòng sân hận thường là một vấn  đề lớn đối với những ai sinh trưởng trong một gia đình mà sự biểu lộ cơn giận  ra ngoài là chuyện thường tình. Họ có quá nhiều cơ hội để thực tập sự tức giận và không hề ý thức đến những phương cách nào khác. Với họ,  sân hận trở thành một phản ứng tự nhiên của tâm đối với những hoàn cảnh khó chịu.  Đôi khi người ta than với tôi họ cảm thấy mình là nạn nhân của một “nút bấm tức  giận”. Hoặc tệ hơn nữa, có người lớn lên với một mặc cảm xấu  bởi vì họ rất dễ “nóng tánh”. Có người tâm sự với tôi: “Tôi cảm thấy trong  tôi tràn ngập một sự căm thù.” 
  Tôi rất buồn khi nghe điều ấy,  vì biết rằng người ta đã bám chấp vào một thứ năng lượng đặc biệt của tâm và  cho đó là bản chất bất biến của mình, dù năng lượng ấy có  hay ho hoặc thú vị đến đâu. Khi người ta bắt đầu thấy được cơn giận, cũng như mọi  năng lượng khác của tâm, chỉ là một hiện tượng nhất thời và vì vậy có thể đối  trị được, họ cảm thấy rất nhẹ nhõm. Ý kiến của họ về con người mình cũng tiến  triển hơn. Họ có thể nghĩ: “Cái này đâu phải  là tôi, nó chỉ là một yếu điểm phản xạ của tôi mà thôi! Tôi có thể bước đi khập  khiễng trong chốc lát đấy, nhưng rồi tôi sẽ lấy lại được quân bình!”
  Một khi chúng ta thấy được  tâm phiền não chỉ là những năng lượng, ta sẽ có thể đối phó với chúng khôn khéo  hơn. Chúng ta có thể ghi nhận chúng, tìm hiểu chúng, có những quyết định cân nhắc  về chúng, và từ đó ta có thể hành động khôn ngoan hơn. Ta sẽ không còn cảm thấy  bị chúng đàn áp và tấn công nữa. Mỗi khi tôi bị áp đảo bởi một năng lượng nào của  tâm, tôi có cảm tưởng như là có một bàn tay khổng lồ không biết từ đâu, bắt lấy  tâm ý tôi, và nắm lắc nó một cách thô bạo. Bây giờ, mỗi khi tôi kinh nghiệm bất  cứ một trạng thái tâm thức nào, dù có là khó khăn và không kiểm soát được, tôi  vẫn biết nguồn gốc của chúng là từ nơi chính tâm tôi, chứ không phải do một  nguyên nhân nào bên ngoài. Và cho dù có một biến cố nào bên ngoài khơi ngòi cho  những phản ứng sợ hãi hoặc buồn lo đi nữa, mà chúng được biểu lộ qua hình tướng  của sự giận dữ, thì thật ra chính cái khuôn mẫu của tâm tôi đã uốn nắn nên những  phản ứng ấy.
  Cũng có đôi khi tâm ta cảm thấy  buồn lo, sợ hãi hoặc tức giận mà không có một lý do bên ngoài nào rõ rệt hết. Đôi khi cơn giận dường như tự phát khởi một mình.  Như có hôm ta bắt đầu một ngày với tâm trạng rất bực bội. Đó là một tâm thức bực dọc, một tâm thức đang kiếm cớ  để gây sự. Lẽ dĩ nhiên, cũng phải có 
một vài nguyên nhân nào đó, vì mọi  việc đều do duyên khởi, nhưng việc ấy không nhất thiết phải là do một sự kiện  nào ở bên ngoài ta. Có lẽ đêm qua chúng ta có một giấc mộng không lành. Có lẽ  chúng ta bị thiếu ngủ. Có lẽ có một biến chuyển về những kích thích tố trong cơ  thể ta. Có lẽ vì ảnh hưởng của mặt trăng. Dầu sao thì những chất hóa học trong cơ thể ta bao giờ cũng ít nhiều có trách nhiệm về  những năng lượng khó chịu trong tâm mình.
  Vì đôi khi ta cảm thấy quạu  quọ, mà dường như điều đó xuất hiện từ đâu  đâu không giải thích được, nên chúng ta thường hay đi tìm một nguyên cớ để bực  mình, một hoàn cảnh nào đó bên ngoài để ta đổ trút năng lượng tiêu cực ấy lên. 
  Ngay cả trong những khóa tu  thiền, khi người ta hoàn toàn không biết nhau, cũng nhiều khi có những mối thù  truyền kiếp được dựng lên đối với những người lạ mặt, để đáp ứng cho cái trạng  thái bực dọc nhất thời của họ. Đột nhiên, một người nào đó trở thành tấm bia nhận lãnh hết những bực dọc, ác cảm nội tại của người khác,  chỉ vì cô ta đi đứng hơi ồn ào hoặc anh ta ho hơi lớn tiếng trong thiền đường.  Và rồi người ấy tự nhiên trở thành một người mà bạn nhất định không ưa nổi, mỗi  mỗi cử chỉ của anh ta, từ giơ phút ấy, sẽ đem lại cho bạn những lý do để bạn tự  bào chữa cho cái ác cảm của mình.
  Nhưng chúng ta không thể nào  nói rằng vì những cảm giác tiêu cực chỉ có tính cách nhất thời, nên chúng ta cứ  phớt lờ chúng đi. Cho dù nếu, 
đặc  biệt là nếu, chúng chỉ là một phản ứng do sự chuyển biến hóa học trong cơ  thể ta hoặc sự thất thường của tính khí, ta vẫn cần phải ý thức rõ ràng được sự  có mặt của chúng. Bằng không, ta có thể tin vào lời phán xét của chúng đối với  những gì đang xảy ra chung quanh, và từ đó ta sẽ có những hành động thiếu sáng  suốt. Chúng ta cần nhớ, bất cứ một tính khí nào đang có mặt cũng đều ảnh hưởng đến kinh nghiệm của ta.
  Mặt khác, nếu cơn giận trong  tâm là một phản ứng đối với một sự kiện nào bên ngoài, chúng ta cần nên tìm hiểu  tính chất buồn lo hoặc sợ hãi của nó, và rồi làm những gì cần làm để giải quyết  chúng. Biết rằng sự tiêu cực hoặc ác cảm chỉ là một năng lượng nhất thời không  bao giờ có nghĩa là ta nên phớt lờ nó. Trái lại, ta cần  biết nhận diện nó cho rõ rệt, và luôn luôn xử sự sao cho thật khôn khéo.
  
Nhưng, chiếc đòn gỗ ấy  là của tôi!
  Nhiều năm trước, tôi có tham  dự một khóa tu thiền quán nghiêm túc kéo dài vài tuần. Trong những ngày ấy,  không những tôi sử dụng một chiếc tọa cụ để ngồi thiền mà còn giữ một chiếc đòn  gỗ cạnh bên, để khi nào cảm thấy mỏi mệt tôi có thể đổi sang ngồi. Tôi rất sợ  cơ thể mình sẽ bị đau, và tôi cảm thấy mình cần hết mọi sự giúp đỡ chung quanh. Tôi cũng thường chọn ngồi sát vách tường  ở cuối thiền đường để khi cần có thể dựa lưng.
  Một buổi chiều, tôi đang an ổn  ngồi thiền trên tọa cụ ở chỗ thường ngày của  mình gần vách tường cuối phòng, với chiếc đòn gỗ sát một bên. Đột nhiên, tôi  nghe có tiếng quần áo sột soạt đi đến gần. Tôi hé mắt ra nhìn và thấy một bàn tay  vói xuống, lấy chiếc đòn gỗ của tôi và đem nó đi. Rồi tôi thấy người ấy để nó  xuống một chỗ cách xa tôi, và ngồi xuống trên chiếc đòn gỗ ấy. Anh ta là một  thiền sinh mới đến mà tôi chưa hề gặp trước đó trong khóa tu.
  Một ngọn núi lửa của sự bực tức  chợt bùng nổ trong tâm tôi. Nó là một cơn giận vô cùng “
chính đáng”. Anh ta đã lấy cái  đòn gỗ 
của tôi! Trong giây phút ấy thì dầu tôi đã có tọa cụ và thân tôi  cảm thấy rất an ổn, cũng chẳng nghĩa lý gì. Và dầu tôi biết là nếu cần, tôi vẫn  có thể xin thêm tọa cụ hoặc một chiếc đòn gỗ khác từ ban tổ chức, điều đó vẫn không làm tôi bớt giận. Người ấy đang ngồi trên chiếc đòn nhỏ 
của tôi. Tôi bỏ nhiều giờ bực tức thảo ra trong đầu những lá thư gay gắt cho người đã dám lấy chiếc ghế của tôi. Thật ra, tôi  không hề viết xuống một dòng chữ nào, nhưng tâm tôi không ngừng soạn thảo ra đủ  hết mọi lá thư mà tôi có thể gửi cho người ấy. Từ những  lời lạnh lùng vô tình, cho đến lời mỉa mai châm biếm, và một đòi hỏi thẳng thừng.  Mỗi ngày, người ấy vẫn đến ngồi trên chiếc đòn gỗ của tôi, rõ ràng là không một  chút ngại ngùng. Mỗi khi tôi vào thiền đường, cơn giận tôi lại tăng lên thêm một  cấp bậc mới.
  Ngày qua, chiếc đòn gỗ của  tôi không có dấu hiệu gì là sẽ trở lại với khổ chủ của nó, một nỗi lo rằng có  thể người ấy sẽ đem nó theo về nhà luôn khiến cơn giận của tôi tăng lên bội phần.  Tôi bắt đầu không ưa tất cả mọi việc về người ấy. Tôi không ưa cách đi đứng của  anh ta, cách anh ngồi, cách anh ta ăn uống. 
  Một ngày nọ, sau bữa ăn trưa mà tôi đã không ưa lối rửa chén dĩa của anh ta, tôi trở về  thiền đường cho khóa thiền buổi chiều và thấy chiếc đòn gỗ của tôi đã trở về  nơi vị trí cũ, cạnh bên chỗ tôi ngồi. Người sử dụng nó trong mấy ngày qua đã biến  mất. Có lẽ anh ta đã đến tham dự khóa tu trễ và phải trở về sớm. Đột nhiên tâm  tôi trở nên thật tĩnh lặng. Nó cũng giống như đã bị tung hoành bởi một cơn bão  tố trong mấy ngày qua, và bây giờ đột nhiên cơn bão biến mất.
  Tâm tôi đã chịu đựng một cơn  bão lớn trong suốt năm ngày qua. Tôi chợt ý thức là mình đã sống trong cơn bão ấy  chỉ vì một chiếc đòn gỗ nhỏ mà tôi không hề cần đến. Kinh nghiệm ấy thật lạ  lùng! Tôi đã tiêu dùng hết biết bao nhiêu năng lượng của mình. Dễ sợ thật! Tôi  tự nghĩ: “Không lẽ đây lại  là thái độ của tôi trong suốt cuộc đời này hay sao?”
 
Lười biếng và hôn trầm
  Tôi có một chị bạn thường đi khắp nơi trên thế giới để hướng dẫn những khóa tu  thiền quán nhiều ngày. Những người bạn thân của chị ai cũng biết, vì chị tự nói ra, trở ngại lớn nhất  của chị là tâm lười biếng. Mỗi khi điện thoại reo và có giọng ai ở đầu dây nói: “Chúng tôi muốn mời  chị đến dạy một khoá tu thiền sẽ được tổ chức tại 
Paris” (hoặc một nơi xa xôi nào đó), ý nghĩ đầu tiên trong tâm chị lúc nào cũng là “Ồ thôi, xa xôi quá! Đi mệt chết!”  Nhưng câu trả lời của chị thì bao giờ cũng là: “Được!” 
  Chị biết câu trả lời đầu tiên  trong đầu chị bao giờ cũng bị sàng lọc bởi cái khuôn thước trong tâm thức, và  nó tìm hết mọi lý lẽ để biến việc chị ưa thích thành một công việc nhọc nhằn,  cho dù việc ấy có hấp dẫn đến đâu. Chị biết là mình thích đi hướng dẫn các khóa  tu, và chị là một giảng sư có khả năng, chị chỉ cần vượt qua cái phản ứng đầu  tiên ấy bằng một đáp ứng khôn khéo, sáng suốt.
  Sự lười biếng và uể oải nghe  thì có vẻ như là xấu xa lắm. Chúng dường như có một chút âm vang gì hơi bất  luân trong ấy. Đối với người Tây phương, tôi nghĩ chúng được xem như những điều  mà ta có thể chọn lựa được. Ví dụ, nói dối hoặc nói lời chân thật là tùy nơi  quyết định của chúng ta, chúng không phải là những bẩm tính sở hữu của tâm.  Cũng vậy, lười biếng hoặc siêng năng là những gì chúng ta có thể chọn lựa được,  thay vì đó là những sở hữu tính của tâm. 
  Nhưng theo giáo lý 
ngũ cái, tức 
năm điều ngăn ngại của tâm, thì sự lười biếng, uể  oải và hôn trầm chỉ là để diễn tả một tình trạng năng lượng đang bị suy sút  trong tâm. Vì năng lượng của tâm lúc nào cũng luôn thay đổi, tăng giảm, cho nên  tình trạng năng lượng suy sút trong tâm cũng chỉ là một phần của những kinh  nghiệm hằng ngày mà thôi. 
  Đối với một số người, không  biết vì một lý do gì, tình trạng thiếu năng lượng ấy lại là một kinh nghiệm xảy  ra rất thường. Nhưng điều đó không có nghĩa họ là những người biếng nhác. Nó chỉ  có nghĩa là, cũng như trường hợp của chị bạn tôi, họ cần phải ý thức được sự có  mặt của trạng thái tâm thức ấy như một chiếc máy sàng lọc nhất thời, để không vô tình để nó ảnh hưởng đến những  quyết định chọn lựa của mình.
  Những người đang bị buồn ngủ  hoặc hôn trầm, nhiều khi bề ngoài có thể trông như những thiền giả xuất sắc. Họ  có thể ngồi thật yên hằng giờ trên tọa cụ, trông rất là định tâm. Sự thật là họ đang mê ngủ hay ít nhất cũng đang ở trong một trạng  thái ngủ gà ngủ gật nào đó. Khả năng ngồi lâu, tự chính nó không hề là dấu hiệu của một sự tu tập tiến triển. Một thiền  sư Thái Lan trả lời một thiền sinh hỏi về việc mỗi ngày phải ngồi  bao lâu rằng: “Các vị ngồi bao lâu  không thành vấn đề, tôi đã từng thấy những con gà nằm yên trên tổ ngày này qua ngày nọ, mà chúng có bao giờ giác ngộ  đâu!”
  Ngồi yên không phải là thiền. Ngồi chỉ là ngồi. Ngồi với một tâm tĩnh lặng,  với ý thức sáng tỏ và một khả năng quán chiếu, sẵn sàng tiếp nhận sự bừng dậy của  tuệ giác – 
đó mới là thiền.
  Thiền sinh bị buồn ngủ, hoặc  cảm thấy uể oải trong tâm không nhất thiết phải xả thiền. Nếu ý thức được trạng  thái ấy chỉ là một kinh nghiệm nhất thời và tạm bợ, họ có thể làm rất nhiều việc  trong khi chờ cho nó trôi qua. Họ có thể mở mắt ra. Họ có thể thở những hơi dài  và sâu. Họ có thể ngồi thẳng lưng lên. Họ có thể đứng dậy và đi thiền hành,  chưa từng có ai ngủ gật trong khi đi bao giờ cả. 
  Quan trọng hơn hết, đừng để bị  kẹt vào trạng thái ấy của tâm, và cho đó là hình bóng hoặc một cá tính riêng của  mình. Thật ra, những thiền sinh ấy không phải là những người biếng  nhác, mà chỉ là những người đang kinh nghiệm một năng lượng thấp trong tâm.
  Nếu ta liên tưởng đến tâm  mình như là một 
con quay hồi chuyển (
gyroscope), có tính cách di động để đạt đến một vị trí quân  bình và cân xứng, nhưng luôn luôn chuyển động và thay đổi để đáp ứng với những gì đang xảy ra chung quanh, ta sẽ hiểu rằng có những lúc nó  có nhiều năng lượng và có những lúc ít năng lượng. Tất cả chỉ là những biến  chuyển tự nhiên của năng lượng trong tâm trên con đường đi đến một sự quân bình  toàn vẹn hơn.
  
Xao động
  Nếu ác cảm là một tâm hay gây  sự và hôn trầm là một tâm buồn ngủ, thì xao động là một tâm lúc nào cũng đưa mắt  nhìn về phía chân trời tìm kiếm một tai họa nào đó mà nó tin chắc rồi sẽ xảy  ra. Nói về mặt năng lượng thì đây là cực đối nghịch với hôn trầm. Hôn trầm là một  tâm thức ít năng lượng, còn xao động là một tâm thức quá nhiều năng lượng.
  Đôi khi sự xao động được biểu  lộ ra bằng một sự bồn chồn và bất an trong cơ thể. Nhưng thật ra thì sự bất an  nơi thân cũng chưa phải là một vấn đề lớn. Nó có thể gây chút khó khăn trong những  khóa tu, khi ta cần phải ngồi yên để tránh làm phiền người khác. Vấn đề nghiêm  trọng hơn là sự bất an trong tâm. Tâm ta vì quá dư thừa năng lượng, lúc nào  cũng nhìn quanh quẩn tìm kiếm một lý do gì đó để lo lắng. Những người bị chế ngự  bởi năng lượng xao động này trở thành những người lúc nào cũng lo âu, và mặc dầu  họ thường xấu hổ không dám chấp nhận việc ấy (Lo nghĩ về những gì mình không thể  thay đổi được thì 
vớ vẩn quá!), xao động là một tập quán tâm thức đặc biệt  rất khó sửa đổi.
  Tôi biết rất rõ về tâm thức  xao động này hơn bất cứ một tâm thức chướng ngại nào khác, vì chính nó đã làm  tôi điêu đứng nhiều nhất. Tâm tôi có một khả năng và thói quen nắm bắt bất cứ một  dữ kiện trung hòa nào và thêu dệt thành một nỗi lo thật lớn.
  Ví dụ như câu chuyện sau. Tôi  đứng chờ ở một góc đường tại một xứ lạ, nơi tôi và chồng tôi hẹn gặp nhau lúc  năm giờ. Lúc ấy là hai phút trước năm giờ. Tôi có ý nghĩ: “Nếu anh ấy không đến trong hai  phút nữa thì sao? Điều đó chắc chắn có nghĩa là anh đã bị cướp hoặc rất có thể  là bị giết? Hoặc bị bắt làm con tin rồi. Hay là bị đứng tim chăng! Tôi không biết  tòa đại sứ của mình nằm ở đâu đây nữa! Nếu anh không đến, tôi sẽ lập tức đi ngay tới tòa đại  sứ...” 
  Những ý nghĩ ấy diễn ra chỉ  trong chừng vài ba giây đồng hồ thôi. Trong thời gian ngắn ngủi ấy, kích thích  tố (
hormone) tràn ngập cơ thể  tôi, tim tôi đập nhanh, mồ hôi toát ra, lại càng giúp tăng thêm nỗi lo của tôi:  “Mình có quen biết ai ở xứ này không? Làm sao gọi cho mấy đứa con biết đây?”  Nhưng rồi đúng năm giờ, anh ấy xuất hiện. Tôi thở phào nhẹ nhõm và cảm thấy mệt  mỏi.
  Đối với những người lo lắng “
chuyên môn” thì vở tuồng vừa kể là một chuyện xảy ra rất thường.  Chỉ có tên của nơi chốn và nhân vật là thay đổi để thích hợp với mỗi hoàn cảnh  mà thôi. Và cái tâm thức xao động luôn dò xét chung quanh, tìm kiếm chất liệu để  bày vẽ nên chuyện thì bao giờ cũng giống y như nhau.
  Sau một thời gian tu tập, tôi  ít còn lo sợ vu vơ như xưa nữa. Tuy tâm tôi vẫn còn vẽ vời nên những chuyện  kinh khiếp, nhưng tôi không còn dễ bị chúng lừa nữa. Đôi khi tôi có thể bắt gặp  tại trận cái máy đặt truyện trong đầu đang sắp sửa chế biến thêm một câu truyện  mới, và có khi tôi có thể phá lên cười được. Giả sử tôi có thể tự tách mình ra  khỏi chiếc máy lo nghĩ ấy, chắc chắn tôi sẽ làm ngay mà không một chút luyến tiếc.  Nhưng tôi đã được sanh ra với nó, vì một lý do nghiệp quả nào đó tôi không rõ.  Nó dính liền với tôi. Bây giờ tôi nghĩ đến nó, và luôn cả tôi nữa, với một tình thương mến. Tôi đối xử với việc ấy giống  như với một người láng giềng khó chịu cạnh nhà vặn nhạc lớn tiếng giữa khuya. Nếu bắt buộc phải ở trong phòng mình thì tôi có hai sự chọn  lựa. Tôi có thể giữ sự thoải mái và nói: “Họ là những người  hàng xóm rất khó chịu. Có lẽ rồi một ngày nào họ cũng sẽ dọn đi nơi khác. Trong  khi chờ đợi, tôi có thể mua đồ nhét lỗ  tai hoặc mua một máy cát-sét nhỏ với tai nghe, và những băng nhạc mà mình ưa thích.” Hoặc tôi có thể nổi  tam bành lên và gọi người chủ nhà, hay viết thư khiếu nại gửi đến cho những ai có trách nhiệm trong khu phố, và rồi cơn giận lại  càng sôi sục lên. 
  Nhưng chỉ khi nào tôi ý thức  được việc gì đang xảy ra, tôi mới có thể thật sự có một sự chọn lựa.
Người đàn bà trên  bãi biển Guaymas
  Một trong những vị thầy quan  trọng nhất của tôi là một người đàn bà mà tôi không hề biết tên, mặc dù tôi đã  kể câu chuyện về bà có đến hàng chục lần. Bà đã dạy  cho tôi một bài học rất thấm thía là quan niệm về một cuộc sống hiểm nghèo và  nguy nan, trước sau gì cũng chỉ là một quan niệm mà thôi. Và nó không bao giờ  là một quan niệm duy nhất. 
  Tôi và bà ta nhìn cùng một  hoàn cảnh với hai ánh mắt hoàn toàn khác nhau. Tôi hiểu cái nhìn của mỗi người  chúng ta đều bị điều kiện bởi cặp mắt kiếng nhận thức của mình. Tôi biết đôi kiếng  màu của tôi đã tô sơn lên những kinh nghiệm của tôi, và giả sử tôi mang một cặp  mắt kiếng của người khác, thì hoàn cảnh ấy có thể đã được nhìn khác hẳn đi rồi!
  Tôi gặp bà trên bãi biển 
Guaymas hai mươi năm trước đây. Đó là vào mùa hè ở sa mạc 
Sonora vùng 
Mexico, trời rất nóng. Tôi  lưu trú tại một khách sạn rất tối tân, rộng lớn và có máy lạnh. Gần đó là một  khu vực cư trú dành cho những người, trong đó có người đàn bà ấy, sống trong những  toa xe 
rờ-moọc (
trailer) nhỏ. Bà ta còn trẻ và có hai đứa con trai nhỏ. Đứa lớn mới lên  năm, còn đứa nhỏ chỉ mới bắt đầu biết bò. Bà ta giải thích rằng không thích sống  tại 
Los Angeles vào mùa hè, nên xuống  sống ở 
Mexico vài tháng, và chồng  bà bay xuống bằng máy bay riêng nhỏ để  thăm ba mẹ con vào mỗi cuối tuần.
  Câu chuyện của bà đối với tôi  dường như có rất nhiều điều bất ổn:
  – Là một người đàn bà sống một mình trên một bãi biển nơi xứ lạ.
  –  Phải trông chừng một đứa  con thơ bò loanh quanh gần chỗ có nước  sâu, trong khi vừa lo cho một đứa năm tuổi đang tập bơi lặn.
  –  Phải lo đến những vấn đề  như là nước ngọt sạch, hoặc là sữa tươi và những thực  phẩm dễ hư hỏng khác trong một khí  hậu nóng bức.
  –  Văn phòng bác sĩ gần nhất  là ở đâu – bà có nghĩ tới chuyện ấy không?
  –  Sự nguy hiểm của việc chồng  bà phải lái phi cơ xuống thăm vào mỗi cuối tuần.
  Thật ra thì chỉ cần nghĩ đến  hoàn cảnh của bà ta thôi cũng đã có thể cung cấp cho tôi đầy đủ những chất liệu  để xây dựng thành một thảm kịch rồi.
  Nhưng bà ta thì dường như sống  rất thoải mái và vô tư.
  Một đêm, có một trận bão to  kéo ngang qua với những tiếng sấm sét long trời lở đất và ánh chớp lóe sáng rực  đêm đen. Mưa đổ như thác lũ. Tôi cảm thấy lo âu khi nhìn ra cửa sổ từ từng lầu thứ sáu, nghĩ đến nước lụt và nguy cơ có thể xảy  ra cho những toa xe 
rờ-moọc dưới kia. 
  Đến lúc trời vừa sáng thì cơn  bão cũng qua đi. Tôi vội vã đi ra ngoài tìm thăm người đàn bà và hai đứa con.  Khu cư ngụ của họ trông thật điêu tàn! Cơn mưa đêm qua đã cuốn trôi những đồ vật  nằm bên ngoài toa xe ra rải rác khắp nơi trên  bãi biển. Mọi người đang bận rộn quét dọn, thu nhặt lại những món đồ nào là của  họ. Người đàn bà của tôi cũng đang quét dọn, hai đứa con trai của bà đùa chơi cạnh  đó.
  “Trận bão đêm qua như thế  nào?” Tôi hỏi.
  “Thú vị lắm,” bà đáp.
  “Mấy cháu có sợ sệt gì  không?” Tôi nhìn về hướng chúng đang hân hoan nô đùa trên những vũng nước.
  “Ồ, đâu có!” Bà đáp, “Cháu nhỏ  thì ngủ say không biết gì hết. Còn cháu lớn đáng lẽ cũng ngủ luôn suốt đêm,  nhưng tôi đánh thức cháu dậy cho nó được xem cơn bão.”
  Tôi hoàn toàn sửng sốt. Tôi tự  nghĩ: “
Còn có nhiều cách khác để ta nhìn cuộc sống này nữa! “
  Tôi hiểu rằng bà ta và tôi  cùng thu nhận những dữ kiện như nhau, nhưng lại nhìn chúng qua những cặp mắt kiếng  lọc màu khác nhau. Tôi chỉ thấy những tai họa ghê gớm, còn bà ta lại thấy một  câu chuyện hấp dẫn, thú vị. Phải chi tôi được đổi mắt kiếng với bà!
  Tôi ước gì mình có thể nói rằng  từ giờ phút đó trở đi, sau khi thấy được ảnh hưởng mạnh mẽ của tâm ta đối với  những việc xảy ra chung quanh, tôi đã có thể có được một cái nhìn sáng suốt hơn  trong mọi hoàn cảnh. Nhưng việc ấy đã không xảy ra. Nếu chúng ta chỉ cần đơn giản  đổi cặp mắt kiếng lọc màu của mình thôi thì dễ quá! Tâm thức của tôi trong kiếp  sống này được trang bị với một chiếc máy lọc có những cá tính đặc biệt, và nó  luôn sẵn sàng để chế biến bất cứ một kinh nghiệm nào mà tôi thu nhận được qua  khuôn thước của nó.
  Nhưng mặc dù những cặp mắt kiếng  lọc màu ấy có vẻ như là những khí cụ cố định của tâm ta, nếu biết nhận diện ta  vẫn có thể làm giảm đi sức mạnh của chúng. Tôi nghĩ đó cũng là một cách khác để  diễn tả 
Chân đế thứ ba của đức Phật: “Chấm  dứt khổ đau là việc có thể được.”
  Với sự tu tập, chúng ta sẽ có  thể giải thoát tâm mình ra khỏi những hành động phản ứng vô ý thức. Mặc dù  không cần phải thay đổi những tập quán và khuynh hướng của mình, chúng ta vẫn  có thể có ý thức về chúng và hành xử khôn khéo. Khi tâm ta được sáng tỏ và vững  vàng, ta sẽ thấy rằng những cặp kính lọc màu ấy trước sau chỉ là những 
dụng  cụ lọc màu mà thôi, và ta vẫn có thể chọn cho mình những phản ứng nào là tốt  lành nhất.
  Người đàn bà trên bãi biển ở 
Guaymas là một vị đại sư của tôi. Mặc dù ngay lúc ấy tôi không hề thay đổi  cách cư xử của mình được chút nào, nhưng tôi đã học được là ta có thể chọn một  sự đáp ứng khác đối với những gì xảy đến cho mình. Việc ấy khơi dậy trong tôi một  niềm tin lớn, là làm những gì mình cần làm để có thể có được một thái độ khác.
  Ngày nay, mỗi khi cái máy hát trong đầu tôi bắt đầu phát thanh những câu chuyện tai  ương, tôi thường có thể cười với chúng. Nhưng tôi vẫn muốn thà rằng nó đừng phát thanh thì hay hơn! 
  Trong phòng làm việc, tôi có  treo trên tường một tấm bích ảnh lớn của đạo sư 
Meher Baba với hàng chữ, “
Đừng âu lo, hãy vui vẻ.” Có những ngày tôi tin vào  lời khuyên đó như là tuệ giác của vũ trụ này. Cho đến ngày nào tôi có thể thực  hiện được việc ấy, tôi vẫn tự cảm thấy hài lòng khi thấy mình không còn quan trọng  hóa những nỗi lo lắng của mình nữa.
  
Bớt sợ hãi
  Tôi thường kể cho người khác  nghe rằng một trong những lý do tôi tu tập là vì “Tôi muốn được  trở thành một bà già vô úy, hoàn toàn không còn sợ hãi nữa.” Mà sự thật là tôi  muốn được như vậy. Nhưng tới từng tuổi này trong đời, tôi không còn chắc là  mình có thể trở nên hoàn toàn vô úy được không. Bây giờ, được “bớt sợ hãi” là  tôi mừng lắm rồi!
  Một câu chuyện trong nhà thiền  mà tôi vẫn còn nhớ trong thời gian mới bắt đầu tu tập là về một vị sư hoàn toàn  không biết sợ hãi. Vị sư ấy trụ trì tại một thiền viện ở Nhật vào thời kỳ mà những  toán võ sĩ 
samsurai đi lang thang khắp vùng quê khủng bố bất cứ ai trên  bước đường của họ. Một hôm, tin một toán võ sĩ đang sắp sửa tiến vào thành phố  nơi thiền viện của vị sư ở loan ra, tất cả tăng chúng cùng với dân làng đều sợ  hãi bỏ trốn hết. Chỉ có vị sư trú trì là ở lại, ngồi yên trong tư thế thiền định  nơi thiền đường. Tên chủ tướng của toán 
samsurai,  nổi giận vì danh tiếng của hắn không đủ để làm vị sư trú trì khiếp đảm trốn chạy,  tung cửa bước vào thiền đường vung lưỡi gươm sáng chói ngay trước  mặt vị sư thách thức: “Ngươi không biết  ta chăng,” vị chủ tướng nói, “ta là người có thể đâm lưỡi gươm này xuyên qua  thân nhà ngươi tức thì mà không hề chớp mắt.” Vị sư trú trì nhìn ông ta và điềm  tĩnh trả lời, “Và thưa ngài, tôi là người có thể để ngài đâm lưỡi gươm ấy xuyên  qua người bất cứ lúc nào mà không hề chớp mắt.”
  Tôi nghĩ những vị thầy của  tôi kể cho nghe câu chuyện ấy vì họ nghĩ nó sẽ khơi dậy sự cảm hứng trong lòng  chúng tôi. Nhưng thật ra tôi cảm thấy mình bị mất niềm tin hơn là được hứng khởi.  Vì tôi biết mình còn cách xa mẫu người lý tưởng ấy vời  vợi, và không tin là mình sẽ bao giờ có thể đạt được một thái độ hoàn toàn vô  úy như vậy.
  Tôi tin rằng những nỗi sợ sâu  xa nhất của ta trong đời này đã ăn sâu vào các tế bào trong hệ thần kinh, để vĩnh viễn trở thành một phần kinh nghiệm của ta trọn  đời. 
Robert Stolorow, người đi tiên  phong trong phong trào 
Tâm lý học trị liệu có viết, cho dù ta  có áp dụng khoa tâm lý trị liệu để phân tích và tìm hiểu nguyên nhân của sự sợ  hãi thâm sâu đến đâu, mỗi khi có cùng một nhóm sự kiện đồng thời khởi lên, chắc chắn sẽ có cùng một phản ứng sợ hãi trong ta khởi  lên. Cho dù tuệ giác của ta có siêu việt đến đâu, bản chất của ta cũng vẫn chỉ  là con người, bị điều kiện bởi những kinh nghiệm của mình.
  Một trong những điều làm tôi  khiếp sợ nhất trong tuổi thơ là sợ rằng mẹ tôi sẽ chết. Mẹ tôi bị chứng bệnh  sưng tim khiến mỗi đêm bà không thể nào nằm xuống ngủ yên được. Phổi của bà sẽ  bị đầy nước, và bà phải bật ngồi dậy ho sù sụ, cố gắng để thở. Tôi nằm trong  giường ở phòng cạnh bên lắng nghe tiếng ho của mẹ tôi. Tiếng ho sù sụ trong đêm là một âm thanh kinh hoàng nhất  trong tuổi thơ của tôi. Tiếng ho đêm cho đến ngày nay vẫn còn là một nhược điểm  trong hệ thần kinh của tôi.  Có “một cái gì đó” trong tôi cảm thấy rất bất an mỗi khi nghe tiếng ho đêm.
  Bốn đứa con tôi giờ đã trưởng  thành. Thuở bé chúng cũng đã có đầy đủ những chứng bệnh của tuổi nhỏ. Chúng bị  đậu mùa, bị lên sởi, và quai bị. Chúng bị té. Chúng bị những vết thương cần phải  được khâu lại. Chúng bị gãy tay, chân cần phải chống nạng. Chúng bị mổ hạch ở cổ, trong thời mà người ta vẫn còn làm  chuyện ấy. Và tôi đã trải qua hết những chuyện ấy mà không sao cả. Nhưng mỗi  khi chúng ho vào ban đêm, tôi lại đâm ra hoảng sợ. Bao giờ việc ấy cũng làm cho  tôi rất khó chịu. Tôi cứ phải tự nhủ: “Nó chỉ bị cảm cúm xoàng thôi!” Thật ra thì sự kiện tóc tai tôi dựng đứng và cảm thấy  hoang mang chỉ là một phản ứng tự nhiên mà thôi. Tôi nghĩ, mỗi người chúng ta đều có những nỗi sợ riêng khác nhau những khi  nghe tiếng ho sù sụ trong đêm khuya.
  Nhưng dầu sao thì ta cũng  không nên nản lòng về chuyện ấy. Tôi thấy đó chỉ là một chi tiết mới giúp ta thấy  rõ thêm sự hoạt động của tâm thức mình. Sự sợ hãi  không nhất thiết phải là một vấn đề lớn, nếu ta biết nhận diện rằng nó chỉ là kết quả của sự bị điều kiện của ta, trực tiếp từ trong  kiếp sống này và có lẽ trong những tiền kiếp xa xưa nữa, nào ai biết được! 
  Chúng ta có thể nhìn nhận nỗi  sợ của mình và tập sống với nó. Nếu tôi cảm thấy bất an về những việc vô hại  như là tiếng ho của một cơn cảm  cúm, tôi vẫn có thể tự nhủ: “Đây chỉ là kết quả  của những gì mà tôi đã bị điều kiện trước đây.” Những ý tưởng ấy giúp tôi khỏi  phải có những hành động vô ích và không cần thiết.
  Mới đây có người giải thích  cho tôi biết về hệ thống báo động. Nó được bố trí để phát hiện và báo hiệu mỗi  khi có một sự di động nào xảy ra trong vùng mà con mắt điện tử kiểm soát. Tôi  nghĩ con người chúng ta cũng tương tự như thế. Chúng ta là những chiếc máy báo  động biết đi. Những chiếc 
ăng-ten của ta được bố trí  để thu nhận những dấu hiệu nào được xem là một đe dọa cho ta. Khi mọi sự chung  quanh suôn sẻ, chúng ta sẽ để cho chúng trôi qua như những bối cảnh của tri  giác. Nhưng mỗi người chúng ta sẽ bị kích động để sẵn sàng phản ứng ngay khi có một sự kiện gì đó mà ta ghi nhận là đe dọa xảy ra. Trong mỗi  người chúng ta đều có những nút báo động.
  Một trong những phương cách để  xây dựng mối tương giao thân thiết với người khác là chia sẻ những nỗi sợ của mình, nói cho người khác nghe những gì đe dọa ta. Chúng ta tập kể cho nhau nghe những việc  như: “Tôi muốn anh, chị biết rằng tôi có một nỗi sợ bị bỏ  rơi, vì khi còn nhỏ mẹ tôi không bao giờ  có mặt để bảo vệ, chăm sóc tôi.” Chúng ta thân mật chia sẻ với nhau, nói cho nhau nghe những khó khăn của mình.
  Và một khi ta hiểu được lý do  vì sao người khác có những nỗi sợ hãi kỳ quặc như vậy, ta sẽ cảm thấy thương hại  hơn là giận ghét. Thay vì nghĩ: “Thật chán vô cùng,  tôi phải bị kẹt với người này suốt cuộc đời,” ta lại có thể cảm nhận rằng: “Thật tội nghiệp,  người mà tôi thương lại có những nỗi sợ như vậy. Chắc người ấy phải  chịu nhiều khổ đau lắm khi mang vác trong tâm những nỗi lo âu ấy.”
  Nếu bạn vẫn còn sợ hãi, điều ấy  không có gì là xấu hổ hết. Chúng ta có thể làm một người lớn và vẫn còn có những  nỗi sợ. Chúng ta chia sẻ những nỗi sợ sâu  kín của mình với những người thân thiết nhất – thường thì đó là một vị thầy, một  nhà tâm lý trị liệu. Nếu chúng ta thật sự may mắn, người ấy cũng chính là người  bạn đời của ta. Những nỗi sợ hãi khi được nói to lên sẽ không bao giờ còn đáng  sợ như khi ta giấu kín nó. Tôi lớn tuổi  đủ để chính mình được nghe tổng thống Hoa Kỳ 
Franklin Roosevelt nói ra câu bất hủ: “Chúng ta không có  gì để sợ, trừ chính cái sợ ấy.” Tôi nghĩ ông nói đúng.
  
Hoài nghi
 Hoài nghi, trong đạo Phật được  diễn tả như là một tâm thức phức tạp có tính cách “trơn trợt” khó nắm bắt. Mà  thật vậy, chương viết về Hoài nghi này đã  lẫn tránh tôi nhiều nhất. Tôi viết nó sau cùng khi biết chắc là mọi việc khác đều  đã xong xuôi. Nếu theo thứ tự thì có lẽ 
hoài nghi phải được xếp lên phía trước, nhưng mỗi khi tôi đặt bút xuống, những tư tưởng  tôi có được về chủ đề này tự nhiên lẫn trốn đi đâu hết. Tôi bắt đầu thật sự ngờ vực, không  biết mình 
có thể viết được hay không. Tôi kể cho lớp học sáng thứ Tư của  tôi, như đã từng kể với nhiều lớp trước đó, rằng tôi nghĩ mình không  thể viết về sự hoài nghi, vì tôi không hề có  một sự nghi ngờ nào hết. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy mình đã lầm to. Tôi chỉ  không có một số hoài nghi nào đó thôi. Nhưng một loại hoài nghi khác, trong  kinh gọi là 
đại nghi, chắc chắn là tôi 
đã  có và bây giờ đôi khi nó 
vẫn còn. Đối với người hướng dẫn kẻ khác tu  tập, chấp nhận được sự thật ấy không phải dễ. Nhưng trừ khi tôi chấp nhận nó,  tôi thấy không thể nào hoàn tất được quyển sách này.
  Chúng ta có lẽ ai cũng đã từng  kinh nghiệm được nhiều mức độ khác nhau của sự hoài nghi – mọi vấn đề từ sự bất an cá nhân cho đến sự bất an của  vũ trụ. Mọi biểu hiện của hoài nghi đều là một phản ảnh của một tâm “
trượt vuột”, khi ta không nắm bắt  được sự thật về chân tánh của vạn vật. Nhìn cho thật kỹ ta sẽ thấy rằng, qua lịch  sử của vũ trụ này, mỗi người chúng ta đều có một nét đặc thù duy nhất và thế giới  này 
chỉ có thể là như vậy! Sự thật thì “
Không có gì là vấn đề hết.” Một tâm hoài nghi, vì  không nắm bắt được chân lý ấy, phát sinh ra những lời đồn đại như là “
Tôi có vấn đề,” “
Bạn có vấn đề,” và “
Thế giới này có đủ hết mọi vấn đề.”
  Năng lượng của lòng hoài nghi  vi tế hơn bốn năng lượng phiền toái khác mà ta đã đề cập trước đây. Vì bốn tâm thức kia có kèm theo với chúng những cảm  giác nơi thân, khiến ta có thể nhận diện được chúng dễ dàng. Ví dụ, ta có thể  biết được lòng tham dục sẽ có những cảm thọ ra sao trong thân, đặc biệt là những  ham muốn về thực phẩm, về tình dục, chúng sẽ ảnh hưởng đến những phần nào trên  cơ thể của ta. Ta nhận diện được ác cảm qua một sự căng thẳng trong thân, hoặc  những cảm thọ thiêu đốt, khuấy động trong tâm. Ta thấy được tâm hôn trầm vì nó  biểu hiện bằng sự buồn ngủ. Tâm xao động có mặt như là một sự bồn chồn hoặc một  cơ thể bứt rứt, nhiều khi là cả  hai. Những năng lượng ở nơi thân bao giờ cũng rất dễ cho ta nhận diện.
  Hoài nghi thì len lỏi vào tâm  ta, giả dạng thành những tư tưởng chán nản, thất vọng.  Một khi đã vượt qua được cánh cổng của chánh niệm rồi, tâm hoài nghi hoạt động  như một tên gián điệp, phá hoại niềm tin và đức tin ở ta. Nó có thể tiêu hủy lòng tự tin của ta một cách rất tự  nhiên, vì nó hoạt động ngay từ bên trong.
  Tôi thường nói: “Tôi không bao giờ có một sự hoài nghi nào hết, vì  cha mẹ tôi lúc nào cũng hoàn toàn  tin tưởng nơi tôi.” Nếu xét về mặt trao truyền một đức tự tin cho tôi thì cha mẹ tôi đã thành công. Trong suốt cuộc đời lúc nào tôi cũng nghĩ: “Nếu người khác làm được thì tôi cũng phải làm được.” Giả sử đột  nhiên có ai bảo rằng tôi cần phải biết tiếng Phạn (
Sanskrit) trong vòng sáu tháng, tôi sẽ không ngần ngại gì mà bắt đầu học  ngay, không hề nao núng.
  Lần đầu tiên khi nghe giảng về  giáo lý của Phật, lúc ấy tuy chưa hề có một hiểu biết sâu xa nào về đạo, tôi đã  có ý nghĩ: “Một ngày nào đó  tôi sẽ đi dạy về giáo pháp này.” Bây giờ thì điều đó đã là sự thật, tôi đã đi dạy. Tôi thú thật là ý nghĩ ấy lúc đó  thật táo bạo. Nhưng chính những ý nghĩ táo bạo đã đem lại cho tôi nhiều can đảm.
  Tôi nghĩ, tôi cũng đã trao  truyền cái hạt giống tự tin ấy cho con cháu của mình, mặc dù tôi không hề nhớ  là mình có một ý nghĩ nào về việc ấy. Tôi thấy được lòng tự tin biểu lộ nơi đứa  cháu của tôi khi nó mới vừa lên hai tuổi.
  Thuở ấy, mỗi tuần hai bà cháu  tôi có một ngày với nhau, và thỉnh thoảng tôi chở nó đi dạo phố. Ngày hôm ấy  khác hơn mọi hôm vì tôi bị đau lưng, không thể bồng ẳm hoặc cất dỡ một vật nặng  nào cả.
  “Cháu này,” tôi giải thích  trong khi mở cửa xe và tháo dây an toàn trong ghế  ngồi cho nó. “Bà không bồng cháu xuống được. Cháu hãy tự leo xuống một mình  đi.”
  Đứa cháu tôi đứng lên trên ghế  và cẩn thận quay lưng lại. Nó từ từ tuột xuống ghế, rồi lại lần mò leo theo cửa  xe bước xuống đường. Xong xuôi, nó đứng ngước mặt lên nhìn tôi.
  Tôi mỉm cười thành thật khen: “Cháu của tôi giờ lớn quá rồi!”
  “Cháu bự rồi!” Nó thích thú  trả lời.
  Tôi thích câu trả lời của nó,  thật là dễ thương. Tôi kể lại cho mọi người trong nhà nghe. Và từ đó: “Cháu bự rồi” trở thành một câu nói để diễn tả lòng tự tin.
  Nhìn lại câu chuyện nho nhỏ của  đứa cháu tôi ngày hôm ấy trong bãi đậu xe, tôi nghĩ điều quan trọng là khả năng  duy trì được sự chú tâm của nó vào một số hành động khá phức tạp. Theo kinh điển  nhà Phật thì khả năng duy trì chánh niệm của ta trong giây phút hiện tại là một  liều thuốc giải độc cho tâm hoài nghi.
  Tôi thường cảm thấy rất tự  hào về sự kiện là mình không cần một đức tin. “Đức tin là dư thừa,” tôi thường  nói. Ta hoặc biết hoặc là không biết, thế thôi. “Những hệ thống đức tin cũng đều  là dư thừa,” tôi giải thích, dẫn chứng rằng đức Phật lúc nào cũng nhấn mạnh đến  một sự khám phá cá nhân và trực tiếp đối với chân lý. Sự thật thì đức Phật có dạy  chúng ta không nên tin vào lời người khác mà phải tự chính mình tu tập và chứng  nghiệm lấy, nhưng ngài không hề nói là đức tin không cần thiết. Điều đó là do  tôi đặt ra.
  Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy  mình dường như hơi tự kiêu khi xem thường đức tin. Có ai trên đời này mà lại  không cần một đức tin? Sự sống này quá phức tạp, khó hiểu và hoàn toàn nằm  ngoài tầm kiểm soát của ta. Nhưng sự sống tự nó vẫn đẹp, lẽ dĩ nhiên, vì nó là  nó, là như vậy. Đức Phật dạy vũ trụ này rất có trật tự. Không có một cái gì sai  trật hết. Nhưng có điều nó 
bí ẩn vô cùng.
  Đức tin, đối với tôi, là một  đặc tính có thể giữ cho tâm ta được quân bình khi năng lượng trơn trợt của lòng  hoài nghi làm mịt mờ sự thật. Và cái năng lượng trơn trợt ấy, cũng giống như những  tâm thức khó khăn khác, sẽ phát sinh tự nhiên như bất cứ một sự kiện nào khác  trong tâm. Tôi không thể nào cứ mãi tự dối mình “Tôi không có vấn đề gì với sự  hoài nghi hết!” Tất cả những nỗi lo âu phiền muộn của tôi về cuộc đời đều là những  biểu hiện của lòng hoài nghi. Nhưng cũng phải mất một thời gian khá lâu tôi mới  thấy được việc ấy.
  Một thời gian không lâu trước  đây, tôi bị một nỗi nghi ngờ khá lớn áp đảo. Một buổi sáng thức dậy, tôi chợt cảm  thấy bị tràn ngập vì những sự mất mát, tan vỡ của cuộc sống. Tại sao lại là  ngày hôm ấy mà không phải là những ngày khác, vẫn còn là một phỏng đoán. Đêm  hôm trước tôi có nhận được một tin buồn trong gia đình, nhưng nó không đến nỗi  nào xấu lắm. Lúc ấy mùa đang chớm vào thu, trời tối sớm hơn, bình minh đến muộn  hơn, nhưng thật ra cũng không khác gì hơn so với mấy ngày hôm trước. Những lý  do ấy tôi nghĩ không liên quan gì mấy. Nhưng tâm hồn  tôi cảm thấy trống vắng vô cùng.
  Tôi sống ngoài đồng quê, lúc ấy  trong nhà có chồng tôi và một người bạn rất thân của gia đình. Cả hai đều là những  người bạn tâm linh của tôi.
  “Sao, sáng nay chị khỏe  không?” Người bạn hỏi.
  Bỗng nhiên tôi bật khóc: “Tôi cảm thấy buồn khổ quá. Tôi là một tên đạo đức giả. Tôi đi đây  đó dạy người khác là ‘Ta có thể có an lạc,’ ‘Đời sống nhiệm mầu,’ ‘Ta có thể bị  mất mát, đau đớn nhưng ta không phải chịu khổ đau,’ nhưng sự thật không phải  như vậy! Đời sống này toàn là khổ đau, mà con người chúng ta không thể nào có đủ  sức để chịu đựng. Và nếu tất cả mọi tôn giáo trên đời này đều là giả tạo thì  sao, chẳng lẽ chúng ta cứ lặp đi lặp lại cho nhau nghe toàn những lời dối gạt?”
  Có lẽ tôi đã không nói hết một  hơi như vậy, nhưng đó là những gì tôi đã kêu than trong khi sửa soạn cho bữa ăn sáng. Hai người ngồi lắng nghe. Tôi vừa khóc vừa chiên trứng.  Không một ai cố gắng thay đổi quan niệm của tôi. Không ai nhắc nhở tôi về chân  lý của đạo. Cũng không ai cố gắng an ủi gì tôi. Nhưng tôi biết là họ đang lắng  nghe.
  Tôi lại tiếp tục bài kinh cầu  về nỗi hoài nghi với chính mình và về cuộc đời trong suốt bữa ăn sáng hôm ấy. “Xem kìa, cuộc đời này đầy dẫy  những khổ đau!” Tôi cứ khăng khăng. “Mọi vật đang giãy chết. Không có ai là thật sự biết gì hết. Con người giết hại lẫn  nhau. Trái đất này đang đi đến chỗ diệt vong. Đi giảng dạy cho người khác cách  sống an lạc thật là một chuyện khôi hài. Mà không phải khôi hài nữa, 
nói láo thì đúng hơn, vì tôi nào có cảm thấy an lạc gì đâu! Có lẽ có một  vài 
người nào đó có thể đã giải thoát khỏi khổ đau, nhưng không có tôi trong số đó!”
  Đối với chồng tôi, những cơn  muộn phiền bùng nổ của tôi thật ra không có gì lạ. Đối với người  bạn thì anh ta có vẻ hơi ngạc nhiên một chút. Tôi hơi tự trách mình là thiếu lịch sự với khách. Nhưng tôi không có sự lựa  chọn nào khác, tôi khóc, và chúng tôi ăn sáng. Cả hai người ngồi lắng nghe tôi,  thỉnh thoảng họ nói chêm những câu như: “Mình có thêm trứng  chiên không?” hoặc “Chị làm ơn đưa giùm dĩa bánh mì!”
  Sau bữa ăn sáng, chúng tôi rửa chén  dĩa. Một giờ sau, có người nào đó đề nghị: “Có ai muốn học  kinh không nào?” Tôi đáp ngay: “Có chứ, sao lại  không?”
  Và mọi chuyện giống như đã không có việc gì xảy ra. Mà thật sự là 
đã không có  chuyện gì xảy ra cả! Cơn hoài nghi kéo  đến và đi, ngang qua như một cơn bão. Không một ai trong chúng tôi bị nao núng.  Tôi đã duy trì được nó trong chánh niệm, chồng tôi và bạn tôi đã gìn giữ tôi bằng  sự có mặt của họ, và cuối cùng chân lý đã trở về sáng tỏ. Sự vật trong cuộc đời  tuy có hư hao thật đó, nhưng vẫn có thể xử lý được.
  
Khi những tâm chướng  ngại khởi lên cùng lúc
  Những người đang bị bối rối  hoặc bất an thường cảm thấy như tâm  mình đang bị chế ngự bởi một loại năng lượng chướng ngại nào đó. Ví dụ như: “Tôi đang giận điên lên đây!” hoặc “Lòng tham trong tôi đang bừng  bừng nổi dậy!” hoặc “Tôi đang bị lòng hoài nghi xâm chiếm!” Và khi nghe ai nói  là mình đang bị nhiều tâm chướng ngại tấn công cùng một lúc, họ nghĩ: “Trời ơi, như vậy là hết chống đỡ nổi rồi!” 
  Có lẽ họ quan niệm rằng sự tấn  công của 
nhiều tâm thức chướng ngại so với chỉ có 
một tâm thức  chướng ngại cũng giống như bệnh sưng phổi so với chứng sổ mũi xoàng vậy. Nhưng thật ra, bất cứ sự tấn công nào của 
một tâm chướng  ngại bao giờ cũng là sự tấn công của 
nhiều tâm chướng ngại cùng lúc. Bạn  thử nghĩ xem!
  Giả sử bạn đang thương yêu một người nào đó. Tình yêu chế ngự tâm bạn. Bạn mơ  tưởng đến người ấy cả ngày. Mới đầu thì điều đó thú vị lắm. Cho đến  khi công việc trong sở bắt đầu chất chồng trước mặt, và ông chủ bắt đầu lộ vẻ  khó chịu, bạn nghĩ: “Thôi, mình phải  làm việc đàng hoàng lại mới được!” Rồi lòng bực tức bắt đầu khởi lên. “Ta cần  phải dẹp trừ hết những ý nghĩ mơ mộng này!” Nhưng chúng không chịu đi đâu hết.  Ta cố gắng loại trừ những ý nghĩ, những đối tượng mơ mộng ra khỏi tâm tưởng,  nhưng hoàn toàn vô hiệu quả. “Ước gì những ý nghĩ này đừng đeo đuổi mình nữa!”  Bây giờ thì công việc lại càng chồng chất và cơn giận đang tăng lên, vì người  mình yêu đã không gọi điện thoại cho mình như đã hứa. Rồi lòng hoài nghi sinh  lên: “Nữa rồi, mình lại đem lòng thương yêu người chẳng  thèm nghĩ gì đến mình. Mình khờ dại quá!” Lòng bực tức lại càng gia tăng. “Ông  chủ lại hỏi nữa đây! Công việc chưa có cái nào xong xuôi hết. Đầu óc thì bây giờ  cứ rối bời lên!” Rồi tâm lười biếng bắt đầu chiếm ngự: “Mình thấy mệt mỏi quá!” 
  Năm tâm chướng ngại ấy, chúng  cùng nối tiếp nhau đổ xuống như một dòng thác, cái này tiếp theo cái kia, sau  khi 
một tâm chướng ngại đã len được vào tâm ta.
  Ví dụ của tôi thì có lẽ hơi  quá một chút đấy, nhưng sự thật là vậy. Bạn hãy thử xét lại những kinh nghiệm của  chính bạn đi! Không cần biết là tâm chướng ngại nào khởi lên đầu tiên, theo sau  nó chắc chắn sẽ là bốn tâm kia. Thật ra, chúng không có một  thứ tự nhất định nào hết, tùy theo từng hoàn cảnh mà thôi.
  Đây là một thí dụ khác: giả sử  bạn có một người bạn mới mà bạn rất muốn làm thân. Các bạn rủ nhau đi xem hát nhạc kịch 
ô-pê-ra. Ngày hôm ấy thật dài, bạn cảm thấy mệt mỏi, tâm thần uể oải. Nhạc  chẳng có gì là hấp dẫn, và bạn ngồi xem mà chỉ thấy mí mắt như muốn sụp xuống.  “Mình mà ngủ gật thì kỳ lắm,” bạn nghĩ “người ta đã phải khó khăn lắm mới mua  được vé, mà chúng cũng đâu có rẻ gì!” Bạn bực mình với cơn buồn ngủ. “Đi chỗ  khác đi, đừng làm cho ta bị mất mặt!” Cơn buồn ngủ vẫn cứ tiếp tục. Và cơn giận  bắt đầu khởi lên: “Mình không thể nào  gượng thức nổi cho đến phần nghỉ giải lao. Chắc là mình sẽ ngủ gật ngay tại đây  và có lẽ còn ngáy to nữa.” Bạn mong  ngóng chờ đợi cho đến lúc vãn tuồng. Và khi ấy, bạn chợt thắc mắc không viết vở  tuồng này sẽ có một đoạn kết nào gợi tình hấp dẫn không! Khi nghĩ đến chuyện ấy,  đột nhiên bạn cảm thấy tỉnh hẳn dậy. “Tốt quá,” bạn  nghĩ “Bây giờ thì mình tỉnh rồi! Nếu mình cứ nghĩ đến những tư tưởng gợi tình ấy,  mình sẽ có thể tỉnh ngủ được...” Lúc ấy vở tuồng cũng vừa chấm dứt. Người bạn  quay sang hỏi: “Sao, chị thấy vở nhạc kịch này thế nào?” Máy báo động trong bạn kêu  lên – nãy giờ bạn nào có mặt đâu mà biết!
  Có một lần, tôi bị sự tấn  công của nhiều tâm thức chướng ngại cùng một lúc. Hôm đó là ngày 31 tháng Mười  năm 1985 tại 
Barre, 
Massachusetts, nguyên do là một cây kẹo cao-su (
chewing gum). 
  Hôm ấy là ngày lễ 
Halloween.  Tôi đang tham dự một khóa tu thiền quán thật nghiêm túc vài tuần trong một tu  viện thật đẹp, có khắc hàng chữ “
Từ Bi” phía trên cánh cửa  chánh dẫn vào. Trong suốt thời gian tu tập tôi thấy rất sảng khoái. Tôi cảm thấy  một niềm vui sướng rất bình an, nếu thật sự là có một trạng thái như vậy. Tôi rất  hài lòng với sự tu tập của mình, và hoàn toàn tự tin ở tôi. Tôi nhìn thấy mọi  việc sáng tỏ khác thường, và cho rằng mình sẽ giữ được trạng thái ấy mãi mãi.
  Khi tôi bước vào thiền đường  cho buổi ngồi thiền tối cuối cùng, tôi ngạc nhiên và rất vui khi thấy một khung  cảnh thật đẹp và dễ thương. Dân thường trú tại tu viện, những người đã lo cho  các nhu cầu của thiền sinh trong mấy tuần qua, đã trang hoàng căn phòng thiền  đường cho ngày lễ 
Halloween. Chung quanh phòng  có trưng bày những quả bí đã được lấy hết ruột, vỏ ngoài có khắc mặt người thật  khéo léo, bên trong mỗi quả bí có một ngọn nến hồng thắp sáng.
  Khi tôi đi về chỗ ngồi của  mình, tôi thấy ban tổ chức có để trên tọa cụ của mỗi người một cây kẹo, làm quà 
Halloween. “Dễ thương quá,” tôi tự  nghĩ. Vừa lúc ấy, tôi để ý thấy chiếc kẹo trên tọa cụ của tôi là một thanh kẹo  cao-su nho. Tôi không ưa kẹo cao-su nho! Tôi hơi bực mình một chút. Tôi không  muốn kẹo cao-su nho! Người chung quanh tôi có những thứ khác ngon lành hơn, tôi  muốn cái của họ. Giây phút ghét bỏ trôi qua, tiếp theo là giây phút của lòng  tham muốn, nhưng tôi không có ý định sẽ trao đổi nó với ai nên tôi ngồi xuống,  với thanh kẹo cao-su nho trong tay. Tôi lại có một giây phút tham ái khác. Một  người bạn của tôi, tọa cụ của anh nằm ngay phía trước mặt, chưa trở về chỗ ngồi  của mình, tôi thấy muốn cho anh cây kẹo sao-su của tôi. Tôi nghĩ có lẽ anh sẽ  vui thích lắm, vì anh có được đến những hai món quà 
Halloween. “Hay lắm,” tôi tự khen, “Mình vừa biến một trạng  thái tiêu cực trở thành tích cực!”
  Tôi đặt thanh kẹo của mình cạnh  cây kẹo của anh trên tọa cụ. Tôi quan sát thấy anh bước đến chỗ ngồi của anh, cầm  hai cây kẹo lên và ngồi xuống. Vừa khi đó, trong tôi chợt phát khởi lên một ý  nghĩ “Mình đã làm một chuyện khờ dại hết sức! Tại sao mình lại để kẹo trên tọa  cụ của anh ta. Bây giờ thì anh biết là có người khác cho anh kẹo, và có lẽ anh  nghĩ là có một người nào đó đã ái mộ anh. Ý nghĩ ấy chắc thế nào cũng làm xao động  cái tâm thức tĩnh lặng của anh trong mấy tuần qua. Và chính tôi, một người lúc  nào cũng tự hào là tu tập tinh chuyên, lại gây cho anh sự động tâm ấy!” 
  Đến lúc này thì tôi đã hoàn  toàn bất mãn vì hành động vô ý thức của mình, và nghi ngờ cái tuệ giác mà tôi  đang có là đến đâu. Thêm nữa, tôi cảm thấy mệt nhoài. 
  Cả câu chuyện chỉ diễn ra  trong vòng ba mươi giây. Tôi đi từ một trạng thái an tĩnh vui sướng đến một trạng  thái bối rối bất an không đầy một phút.
  Mặc dù đó chỉ là một cây kẹo  nhỏ nhặt, nhưng tôi thấy câu chuyện ấy quan trọng. Trước hết đó là một thí dụ rất  hay về tính chất mỏng manh, vô thường và trống không của các trạng thái trong  tâm thức ta. Nó cũng giống như thời tiết, cứ đến rồi lại đi. Vui vẻ. Buồn bực.  Tĩnh lặng. Tả tơi. Mưa, nắng, gió, tuyết, chúng biến chuyển chỉ trong chừng một  khoảnh khắc.
  Trong khoảng thời gian bối rối  vì thanh kẹo cao-su ấy, tôi học được một bài học quý giá về liều thuốc giải độc  hay nhất cho bất cứ một tâm thức chướng ngại nào. Liều thuốc mầu nhiệm nhất có  thể đem lại sự quân bình cho ta là một 
cái thấy rõ ràng. 
  Trong buổi tối hôm ấy, tôi  ghi nhận được hết tất cả mọi chuyện khi nó đang diễn ra. Và tôi bật cười! “Mình  mới vừa bị nhiều tâm thức chướng ngại tấn công cùng một lúc. Thôi, cũng đừng mơ  mộng là mình sẽ có thể an trú trong cái trạng thái vui vẻ và tĩnh lặng mãi. Có  lúc sẽ là an lạc và thanh thản, và rồi cũng sẽ có những lúc khác. Thở vào cho  sâu. Mỉm cười. Hãy mừng là mình vừa mới học được một điều mới. Thở vào một hơi  tiếp. Thưởng thức đi!”