Đức Phật có dạy bốn trạng thái tâm hồn rộng mở, gọi là Tứ vô lượng tâm, 
		bao gồm các tâm Từ vô lượng, Bi vô lượng, Hỷ vô lượng và Xả vô lượng. 
		Một cách ngắn gọn hơn, chúng ta thường gọi chung các tâm vô lượng này là 
		từ bi hỷ xả. 
		Đã từ lâu, từ bi hỷ xả được hầu hết mọi người biết đến như là những nét 
		đặc trưng của giáo lý nhà Phật, và vì thế nên đây cũng là những biểu 
		hiện tất yếu phải có ở những người học hỏi và tu tập Phật pháp.
		Nói một cách khái quát thì từ bi hỷ xả là bốn trạng thái tâm hồn có thể 
		rộng mở đến mức không thể đo lường (vô lượng), không có giới hạn. 
		Lòng từ là trạng thái luôn mong muốn mang lại niềm vui cho người khác, 
		trong khi lòng bi lại là trạng thái mong muốn chấm dứt mọi khổ đau mà 
		người khác đang gánh chịu.
[11] Vì thế, khi lòng từ 
		bi sinh khởi thì chúng ta sẽ luôn mong muốn làm bất cứ điều gì để mang 
		lại niềm vui cũng như để chia sẻ, giảm nhẹ mọi khổ đau. Và vì lòng từ bi 
		có thể rộng mở đến mức không thể đo lường (vô lượng tâm) nên đối tượng 
		của nó không bao giờ giới hạn. Khi thực hành lòng từ bi, chúng ta không 
		chỉ quan tâm đến người khác theo nghĩa hẹp của từ, mà còn là sự quan tâm 
		rộng mở đến hết thảy muôn loài, muôn vật.
		Hỷ và xả là hai trạng thái tinh thần có thể giúp chúng ta đạt đến sự 
		thanh thản, an vui. Hỷ có nghĩa là vui, nhưng ở đây là một niềm vui nội 
		tại, tự sinh khởi trong lòng ta mà không phải do nơi sự thỏa mãn đối với 
		các đối tượng bên ngoài. Vì thế, người tu tập lòng hỷ có thể lúc nào 
		cũng đạt được niềm vui chân thật mà không chịu những ảnh hưởng tác động 
		từ ngoại cảnh. Xả có nghĩa là từ bỏ, buông bỏ. Người tu tập lòng xả sẽ 
		buông bỏ hết thảy những định kiến phân biệt và sự tham đắm, vướng mắc 
		nơi ngoại cảnh, và nhờ đó mà đạt đến sự bình đẳng sáng suốt trong nội 
		tâm.
		Như đã nói, từ bi hỷ xả là những trạng thái tâm hồn có thể rộng mở đến 
		mức không thể đo lường. Tuy nhiên, đó không phải là một tiến trình tự 
		nhiên mà phải là kết quả của một sự nỗ lực tu tập, rèn luyện không 
		ngừng. Hơn thế nữa, việc tu tập các tâm từ bi hỷ xả còn là yêu cầu tất 
		yếu của tất cả những người học Phật. Cho dù chọn tu theo bất cứ pháp môn 
		nào, nếu không có sự thực hành và rèn luyện các tâm từ bi hỷ xả thì 
		người tu tập chắc chắn sẽ không thể đạt đến những kết quả tốt đẹp về mặt 
		tinh thần. 
		Sự thực hành và rèn luyện sẽ giúp cho các tâm từ bi hỷ xả ngày càng rộng 
		mở không giới hạn, do đó mà trở thành nguồn sức mạnh vô song giúp người 
		tu tập có thể vượt qua được mọi khó khăn, thử thách.
		Mặt khác, cần biết rằng không thể có sự tu tập riêng rẽ một trong các 
		tâm từ bi hỷ xả. Sự tu tập và thực hành các tâm này bao giờ cũng có một 
		mối tương quan chặt chẽ, thúc đẩy lẫn nhau. Vì thế, khi phát khởi một 
		trong bốn tâm vô lượng này thì các tâm khác cũng tự nhiên sinh khởi; khi 
		một trong các tâm này được phát triển lớn mạnh thì các tâm còn lại cũng 
		theo đó mà phát triển lớn mạnh.
		Nếu xét kỹ, chúng ta có thể thấy rằng mối quan hệ giữa bốn tâm vô lượng 
		vừa là mối quan hệ nhân quả, lại vừa là mối quan hệ tương sinh. Vì thế, 
		trong trường hợp này thì nhân cũng chính là quả, và quả cũng chính là 
		nhân.
		Như đã nói, khi lòng từ sinh khởi, chúng ta mong muốn mang lại niềm vui 
		cho người khác. Và muốn thực hiện điều đó, chúng ta không thể không chia 
		sẻ hoặc làm giảm nhẹ đi những khổ đau mà người ấy đang gánh chịu. Vì 
		thế, lòng bi cũng nhân đó mà sinh khởi. Điều này giải thích vì sao chúng 
		ta luôn nghe nói đến từ bi như một đức tính duy nhất chứ không phải là 
		hai tính chất riêng rẽ.
		Khi chúng ta tu tập lòng hỷ, chúng ta sẽ không bao giờ đạt đến sự an vui 
		nếu không buông bỏ được những định kiến phân biệt cũng như sự tham đắm, 
		vướng mắc nơi ngoại cảnh. Vì thế, nếu thực hành lòng hỷ thì tất yếu cũng 
		phải thực hành lòng xả. Không thực hành được lòng xả thì không thể có 
		lòng hỷ. Ngược lại, khi thực hành tâm buông xả thì tất yếu trong lòng sẽ 
		đạt được sự nhẹ nhàng thanh thản, và do đó mà có thể sinh khởi tâm an 
		vui một cách tự nhiên. Điều này giải thích vì sao hỷ và xả luôn đi đôi 
		với nhau như hai yếu tố không thể tách rời.
		Mặt khác, việc thực hành lòng từ bi cũng không thể tách rời với việc 
		thực hành hỷ xả. Nếu trong lòng ta chứa đầy những định kiến phân biệt và 
		vướng mắc, tham đắm, ta sẽ không có khả năng thực hành lòng từ bi. Ngược 
		lại, chính nhờ vào việc thực hành lòng từ bi mà chúng ta mới có thể dễ 
		dàng đạt được các tâm hỷ xả.
		Vì thế, một mặt chúng ta có thể nói rằng nhờ có từ bi mà đạt được hỷ xả, 
		nên từ bi là nhân, hỷ xả là quả. Nhưng mặt khác chúng ta lại thấy rằng 
		hỷ xả là yếu tố cần thiết để phát triển lòng từ bi, nên không có hỷ xả 
		thì cũng không thể có từ bi, và do đó mà có thể nói rằng từ bi và hỷ xả 
		là những trạng thái tương sinh, khi cái này sinh thì tất yếu cái kia 
		cũng phải sinh.
		Do mối quan hệ nhân quả và tương sinh như trên, nên việc tu tập bốn tâm 
		vô lượng có thể hình dung như người lăn một bánh xe có bốn nan hoa. Khi 
		một nan hoa chuyển động thì bánh xe chuyển động, và những nan hoa còn 
		lại tất yếu cũng phải chuyển động theo.
		Vì thế, tuy nói là bốn tâm mà thật ra cũng chỉ là một. Nhưng đã là một, 
		vì sao vẫn phải phân ra làm bốn? Vì từ bi hỷ xả vẫn là những trạng thái 
		khác nhau, và vì mỗi người trong chúng ta đều có những khác biệt nhất 
		định. Có những người dễ sinh khởi lòng từ hoặc lòng bi, nhưng lại có 
		những người khác cảm thấy dễ dàng hơn khi khởi sự thực hành lòng hỷ hoặc 
		lòng xả. Nhưng cho dù sự khởi đầu tu tập có thể khác nhau mà kết quả vẫn 
		đạt đến như nhau, đó là vì tính chất tương sinh của bốn tâm này như đã 
		nói.  
		Thật ra thì lòng từ bi cũng chính là lòng thương yêu chân thật mà chúng 
		ta đang đề cập. Chỉ cần xét đến những tính chất “cứu khổ, ban vui” thì 
		chúng ta có thể thấy ngay sự đồng nhất giữa hai khái niệm này. Tuy vậy, 
		hầu hết kinh luận thường ít khi đề cập đến lòng thương yêu bằng chính 
		tên gọi này, mà rất thường gọi là lòng từ bi. Ngoài những ảnh hưởng 
		không thể phủ nhận từ kinh văn chữ Hán, sự phân biệt tên gọi như thế 
		thực ra còn là để loại trừ đi những nhầm lẫn đáng tiếc rất thường gặp. 
		Bởi vì danh từ “thương yêu” từ lâu đã bị lạm dụng quá nhiều nên có một 
		sự tục hóa về ngữ nghĩa, và do đó mà rất ít người trong chúng ta còn có 
		thể hiểu được một cách chính xác và đầy đủ ý nghĩa của nó.
		Như chúng ta đều biết, từ bi là một danh từ Hán Việt, ban đầu vốn chỉ 
		được dùng như một thuật ngữ trong Phật giáo, nhưng dần dần đã được hầu 
		hết mọi người biết đến. Mặc dù vậy, do nguồn gốc thuật ngữ Hán Việt của 
		nó nên người ta vẫn luôn có một ấn tượng trang trọng và xa cách hơn so 
		với cụm từ tương đương trong tiếng Việt là lòng thương yêu. Mặt khác, do 
		những nhận thức sai lầm và nhầm lẫn đối với ý nghĩa của lòng thương yêu 
		nên người ta ít khi nhận ra được rằng thương yêu hay từ bi vốn dĩ cũng 
		chỉ là cùng một khái niệm.
		Một trong những nhầm lẫn thường gặp nhất là sự thiếu phân biệt giữa 
		thương yêu và ái dục hay luyến ái. Như đã nói, lòng thương yêu thường bị 
		chi phối bởi sự ích kỷ tiềm tàng trong mỗi con người, với từng mức độ 
		khác nhau. Chính sự ích kỷ này thúc đẩy những ham muốn – trong đó có cả 
		ái dục – tạo ra một sự khao khát chiếm hữu đối tượng. Tuy nhiên, do 
		thiếu một nhận thức đúng đắn nên chúng ta thường nhầm lẫn giữa sự khao 
		khát chiếm hữu này với những động lực chân chính của lòng thương yêu.
		
		Hệ quả tất yếu là một sự nhầm lẫn giữa lòng thương yêu chân thật với 
		những khao khát được tạo ra bởi lòng ham muốn. Mặt khác, ranh giới phân 
		biệt như vừa nói thường rất khó nhận ra do có sự pha trộn lẫn nhau của 
		các yếu tố. Vì thế, nếu chúng ta không có một sự phân tích khách quan và 
		những hiểu biết sâu sắc về căn nguyên của từng vấn đề thì cũng rất khó 
		để có thể nhận rõ được.
		Lấy ví dụ như lòng thương yêu của một người mẹ dành cho đứa con. Lòng 
		thương yêu chân thật ấy sẽ thôi thúc người mẹ sẵn sàng nhận chịu mọi sự 
		khổ đau thay cho con mình, cũng như luôn sẵn lòng làm bất cứ điều gì để 
		cho đứa con được vui.
		Khi đứa con dần lớn lên và ngày càng vươn xa ra cuộc sống bên ngoài xã 
		hội, người mẹ có thể cảm thấy một sự mất mát và chợt bắt đầu nảy ra ý 
		nghĩ phải giữ đứa con đó lại bên mình. Nếu ý tưởng này trở nên lớn mạnh 
		đủ để chi phối lời nói và việc làm, bà ta sẽ rất có khả năng gây thương 
		tổn cho đứa con. Sự thật là đã có rất nhiều bậc cha mẹ không ngần ngại 
		can thiệp vào sự lựa chọn nghề nghiệp, hôn nhân, đời sống... của con cái 
		– và vì thế mà gây ra những khổ đau, thương tổn cho chúng – cũng chính 
		là xuất phát từ ý tưởng sai lầm này.
		Nhưng do đâu mà có ý tưởng sai lầm này? Chính là do ý thức chiếm hữu đã 
		âm thầm phát triển và chi phối, làm cho lòng thương yêu của người mẹ 
		không còn là một sự thương yêu hoàn toàn chân thật nữa. Khi chúng ta so 
		sánh với những bậc cha mẹ thật lòng thương yêu con cái mà không chịu sự 
		chi phối của ý thức chiếm hữu, chúng ta sẽ thấy được những tấm gương hy 
		sinh chói sáng và không bao giờ họ gây ra những sự thương tổn để con cái 
		phải gánh chịu.
		Như đã nói, khi lòng thương yêu bị chi phối bởi sự ích kỷ thì đó sẽ 
		không còn là lòng thương yêu chân thật nữa. Và vì thế mà nó cũng mất đi 
		khả năng mang lại cho chúng ta sự an vui thanh thản trong tâm hồn. Tuy 
		vậy, nhiều người không nhận ra được sự chi phối của tính vị kỷ, vì thế 
		họ lầm tưởng rằng chính sự thương yêu đã mang lại cho họ những khổ đau 
		và thương tổn!
		Trong thực tế, lòng thương yêu chân thật luôn là động lực thôi thúc 
		chúng ta chia sẻ mọi khổ đau và mang lại niềm vui cho người mình thương 
		yêu. Và đây cũng chính là định nghĩa được dùng để mô tả lòng từ bi: 
		“Lòng từ có thể mang lại niềm vui, lòng bi có thể xua tan đau khổ.”
[12] 
		Một khi lòng thương yêu không thể mang lại niềm vui và xua tan đau khổ, 
		đó không còn là lòng thương yêu chân thật nữa.
		Như vậy, qua sự phân tích này chúng ta có thể thấy được là rất nhiều 
		người đã hiểu sai về lòng thương yêu. Và thay vì điều chỉnh lại những 
		sai lầm về mặt nhận thức, người ta lại thường chọn cách dùng danh từ “từ 
		bi” để chỉ cho lòng thương yêu chân thật, và do đó mà bỏ qua đi sự ngộ 
		nhận về ý nghĩa thực sự của lòng thương yêu. 
		Tuy nhiên, nhận thức sai lầm này nếu không được nhận rõ sẽ lại tiếp tục 
		dẫn đến những sai lầm khác. Bởi vì thật ra thì nhiều người trong chúng 
		ta có thể cảm thấy gần gũi và dễ dàng tiếp nhận ý nghĩa chân thật của 
		lòng thương yêu, nhưng thường thấy xa lạ khi nghe nói đến lòng từ bi vì 
		có cảm giác rằng đó là một phẩm chất siêu việt chỉ có ở các vị Phật và 
		Bồ Tát. Do đó, hiểu đúng về lòng thương yêu chính là phương cách giúp 
		chúng ta có thể lấy lại sự tự tin nơi chính mình, bởi vì nuôi dưỡng và 
		phát triển lòng thương yêu là điều chắc chắn mỗi chúng ta đều có thể làm 
		được, trong khi nói đến việc tu tập lòng từ bi thì sẽ có rất nhiều người 
		thường cảm thấy e ngại vì sợ là vượt quá sức mình!
		Một khi hiểu được rằng lòng thương yêu chân thật cũng chính là lòng từ 
		bi với đặc điểm “cứu khổ, ban vui”, chúng ta sẽ thấy không cần thiết 
		phải quan tâm đến vấn đề tên gọi nữa. Bởi cho dù có sử dụng tên gọi nào 
		thì bản chất thực sự của vấn đề cũng đều không thay đổi!
		Vì thế, thực hành lòng thương yêu chân thật cũng chính là tu tập lòng từ 
		bi, cho dù cách nói sau nghe có vẻ trang trọng hơn nhiều. Hiểu được điều 
		này, chúng ta sẽ thấy rằng những phương thức tu tập lòng từ bi – chẳng 
		hạn như phép quán từ bi – thật ra cũng không phải là quá xa vời như 
		nhiều người lầm tưởng. Việc thực hành phép quán từ bi có thể được thực 
		hiện bởi bất cứ ai, và chắc chắn sẽ mang lại những lợi ích lớn lao về 
		mặt tinh thần. 
		Cho dù chúng ta chưa thể đạt đến những tâm lượng rộng lớn vô biên như 
		chư Phật, Bồ Tát, nhưng điều chắc chắn là sự thực hành lòng thương yêu 
		sẽ giúp tâm hồn chúng ta rộng mở hơn, xóa bỏ dần đi những giới hạn chật 
		hẹp đã tạo ra do sự tham lam, ích kỷ và vô số những định kiến phân biệt 
		trong cuộc sống.