Giáo lý của đạo Phật tuy rất  sâu xa mầu nhiệm nhưng cũng vô cùng thiết thực, gần gũi; tuy nói tánh không, giải  thoát, nhưng cũng không rời sự sống của muôn loài; tuy nói hành thiền, quán tịnh,  nhưng nhất cử nhất động cũng đều vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Bậc chân tu  giác ngộ từ xưa nay chưa từng nghĩ đến việc lìa khỏi chúng sinh phiền não để  riêng mình được phần giải thoát. Chính đức Phật Thích-ca cũng từng thị hiện  trải qua biết bao khó nhọc, suốt bốn mươi chín năm không một phút nghỉ ngơi để  rộng truyền Chánh pháp khắp nơi.
  Vì thế, đạo giải thoát không phải chỉ ở nơi thâm sơn cùng cốc, mà  luôn hiển hiện quanh ta. Ngày nào chúng ta chưa thấy được điều ấy, chưa vận dụng  được những lời dạy của đức Phật vào ngay trong cuộc sống hằng ngày, thì chúng  ta chưa thể thực sự hưởng được phần lợi ích vô biên của giáo pháp. Và cũng vì  thế, việc nghe hiểu được giáo pháp là điều vô cùng quý báu, nhưng vẫn chưa thể  nào so sánh được với giá trị của việc thực hành giáo pháp. Chỉ có thực hành  giáo pháp mới mang lại sự an vui lợi lạc cho chính ta và mọi người quanh ta; chỉ  có thực hành giáo pháp mới giúp ta trực tiếp cảm nhận được những ý nghĩa sâu xa  và mầu nhiệm trong từng lời dạy của đức Thế Tôn; và chỉ có thực hành giáo pháp  mới có thể giúp ta xa lìa những khổ đau của thế tục, ngày một tiến gần hơn đến  cảnh giới an lạc, giải thoát. Những ai có may mắn được tiếp xúc với giáo pháp,  được đọc hiểu giáo pháp, nhưng nếu không tự mình thực hành thì cũng chẳng khác  nào kẻ đếm tiền giúp cho người khác, trọn đời không có được chút giá trị quý  báu nào cho chính mình.
  Trong vô số những pháp môn phương tiện mà đức Phật đã từng chỉ dạy,  chỉ có phương pháp phóng sinh là dễ thực hành nhất mà có thể sớm mang lại hiệu  quả nhất. Sở dĩ như vậy, vì phóng sinh là trực tiếp giải cứu sinh mạng cho  chúng sinh, mà sinh mạng lại chính là giá trị cao cả nhất, được trân quý nhất của  tất cả chúng sinh. Giải cứu được sinh mạng cho chúng sinh tức là giúp chúng  sinh giữ lại được cái giá trị cao cả nhất, đáng trân quý nhất. Như vậy, thử hỏi  còn có việc làm nào ý nghĩa hơn, đáng làm hơn chăng? Chỉ một việc phóng sinh  đơn giản dễ làm mà có thể gieo được cái nhân lành thù thắng không gì so sánh được,  đó là cứu vớt sinh mạng cho những chúng sinh sắp phải nhận lấy cái chết. Dù là  xét theo lý lẽ thường tình của thế gian hay theo giáo pháp nhân quả của Phật dạy,  cũng đều có thể thấy được là việc làm ấy đáng trân trọng biết bao nhiêu, chắc  chắn sẽ mang lại kết quả to lớn biết bao nhiêu!
  Mặc dù vậy, trong thực tế cũng có nhiều người không thấy được những  ý nghĩa rất thiết thực của việc phóng sinh. Họ biện luận vòng vo, đưa ra lý này  lẽ khác, luôn cho rằng việc phóng sinh thực ra chẳng có ý nghĩa gì!!! Vì sao vậy?  Điều không thể phủ nhận là thói quen giết hại của con người từ xưa đến nay đã  quá nặng nề. Có khi giết để ăn thịt, có khi giết để lấy da, xương, lông, sừng...  và các bộ phận khác của thú vật mà sử dụng, nhưng cũng lắm khi giết hại chỉ vì  lòng hiếu sát, chỉ vì để mua vui, giải trí trong chốc lát... Than ôi! Những kẻ  xem thường sinh mạng muôn loài như thế ngày nay thật nhiều không kể xiết, mà  người thực hành phóng sinh chỉ lác đác như đếm được trên đầu ngón tay. Vì thế,  mặc cho có những người tích cực phóng sinh, mà số loài vật bị giết hại vẫn dường  như không thấy giảm thiểu chút nào! Chính vì nhìn thấy thực trạng như vậy mà rất  nhiều người đã nản lòng thối chí, cho rằng những nỗ lực phóng sinh chẳng qua  cũng chỉ như dã tràng xe cát, nào có ích lợi gì!
  Nhưng cách suy nghĩ như thế thật là cạn cợt và vô lý. Cho dù kẻ giết  hại nhiều, người phóng sinh ít, cũng không thể vì thế mà chúng ta lại bỏ đi việc  làm tốt đẹp của chính mình. Ví như sau một trận động đất, người chết nhiều như  rơm rạ, mà người còn sống sót chẳng có bao nhiêu, dù nỗ lực suốt ngày trời chẳng  qua cũng chỉ tìm cứu được một vài sinh mạng. Nhưng cũng không thể vì thế mà bỏ  đi công việc tìm kiếm cứu nạn. Hơn nữa, lại càng phải dốc sức đào bới, tìm kiếm  tích cực hơn, may ra còn có thể kịp thời cứu sống được những nạn nhân khốn khổ  đang bị đè trong đất đá. Cũng vậy, đồng loại của chúng ta càng ra sức giết hại,  thì ta càng phải tích cực hơn trong việc phóng sinh, hầu có thể cứu chuộc được  phần nào những tội lỗi nặng nề mà những kẻ si mê kia đang ngày đêm tạo tác.
  Mặt khác, cũng có không ít người mang nặng ý tưởng phân biệt giữa  sự sống của con người với sự sống của loài vật. Họ cho rằng chỉ có con người mới  thực sự có quyền được sống, còn loài vật sinh ra vốn chỉ để phục vụ đời sống  con người (!), dù có giết chết bao nhiêu con vật cũng chẳng có gì là tội lỗi!  Thật ra, những lập luận như thế thường chỉ là tự dối gạt chính mình, để bảo vệ  cho việc làm sai trái của mình mà thôi. Vì hầu hết những người đưa ra lập luận  như thế nhưng khi nhìn thấy cảnh những con vật bị giết chết, bị hành hạ đau đớn,  cũng đều không thể dửng dưng vô sự, mà đều có sự động tâm thương xót tự trong  sâu thẳm của lòng mình. Sở dĩ như thế là vì sự sống vốn không hề có phân biệt,  cho dù là những con vật nhỏ hay lớn, sống trên cạn hay dưới nước, cũng đều biểu  lộ những phẩm tính hoàn toàn giống nhau đối với sự sống còn. Tất cả đều thực hiệnam  sống sợ chết, đều biết sợ hãi, đau đớn, mừng vui, yêu thương, oán giận... Như  thế thì dựa vào đâu để tự cho rằng chỉ có con người mới có quyền được sống? Hơn  nữa, nếu như trên thế giới này chỉ còn lại duy nhất loài người, liệu chúng ta  có vui sống được hay chăng?
  Thật ra, muốn thấu hiểu mọi ý nghĩa sâu xa của việc phóng sinh  cũng không phải là việc dễ dàng. Vì thế, các vị Tổ sư từ xưa nay đã có không ít  vị dành trọn cuộc đời để tuyên dương, giảng giải và khuyến khích mọi người cố gắng  làm việc phóng sinh. Trong tập sách này, chúng tôi ghi lại những lời dạy của  Pháp sư Viên Nhân, một bậc cao tăng thạc đức, người đã hết lòng cổ xúy cho việc  phóng sinh. Sự giảng giải của ngài, tuy nhiều chỗ đơn sơ mà không kém phần sâu  sắc, thể hiện rõ trí tuệ của một bậc cao tăng thực tu thực chứng, hy vọng có thể  qua đó mà giúp cho nhiều người hiểu sâu thêm về ý nghĩa và công đức của việc  phóng sinh. 
  Chúng tôi biên soạn sách này gồm hai phần, nhắm đến việc giảng dụ  từ những ý nghĩa căn bản nhất cho đến sâu xa, thâm thúy nhất của việc phóng  sinh. Vì thế, hy vọng là có thể phù hợp với nhu cầu tìm hiểu của đông đảo độc  giả, từ những người đã am hiểu phần nào cho đến cả những người sơ cơ chưa từng  nghe biết đến.
  Về phần giảng, ngoài những lời dạy của  Lão Pháp sư Viên Nhân, chúng tôi cũng dẫn thêm quan điểm, ý kiến cũng như lời dạy  của nhiều vị Tổ sư, các bậc danh tăng từ xưa nay, kể cả những vị đương đại.  Trong phần này, phần lớn tư liệu là do chư tăng ở Viện Chuyên tu (Đại Tòng Lâm)  cung cấp. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn và ghi nhận sự đóng góp quý báu của  quý thầy.
  Về phần dụ, chúng tôi ghi lại những  câu chuyện xưa nay minh họa cho ý nghĩa và kết quả của việc phóng sinh, chủ yếu  là cho thấy việc thực hành phóng sinh được phước báu ra sao, cũng như việc giết  hại sinh mạng phải chịu những quả báo như thế nào. Trong phần này, ngoài sự  giúp đỡ của quý thầy ở Viện Chuyên tu, chúng tôi cũng nhận được tập sưu tầm của  Sư cô Linh Lạc, do Sư cô Linh Bửu chuyển đến, và đặc biệt là chuyện kể của Đại  đức Thích Nhuận Châu ở Tịnh thất Từ Nghiêm (Đại Tòng Lâm). Chúng tôi xin chân  thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của quý thầy và quý sư cô trong việc thực hiện  tập sách này.
  Qua những lời giảng giải và những câu chuyện có xưa, có nay, hội đủ  các yếu tố cổ kim, chúng tôi hy vọng có thể giúp cho tất cả mọi người đều thấy  rõ được giá trị của việc cứu vật phóng sinh cũng như sự nguy hại của việc giết  hại sinh mạng mà sớm có một sự chuyển hướng tốt đẹp trong đời sống.
  Tâm nguyện duy nhất của chúng tôi khi thực hiện tập sách này là  mong sao có thể góp được một phần nhỏ bé trong việc khơi dậy lòng từ bi sẵn có  nơi tất cả mọi người, khiến cho ai ai cũng thực hành việc giới sát phóng sinh,  giúp cho loài vật sớm có được một cuộc sống an lành, không bị giết hại. 
  Trong quá trình thực hiện, chắc chắn không thể tránh khỏi ít nhiều  sai sót, kính mong các bậc tôn túc trưởng thượng rộng lòng chỉ bảo và quý vị độc  giả gần xa niệm tình tha thứ.