Trong sách này, chúng ta đã cùng nhau đi qua một quãng đường dài, bắt 
		đầu từ câu chuyện xảy ra trong một căn phòng khách sạn ở Dayton, Ohio, 
		Hoa Kỳ, khi ông Edgar Cayce dùng thần nhãn trong giấc thôi miên để lần 
		đầu tiên xác nhận rằng thuyết luân hồi là một điều có thật. 
		Câu chuyện ấy và những chuyện tương tự khác nối tiếp theo sau về vấn đề 
		luân hồi nhân quả có vẻ như chỉ là một nền tảng chưa đủ vững chắc để xây 
		dựng trên đó cả một tòa lâu đài tâm lý và triết học mà ta đã xét qua 
		những nét đại cương trong sách này. Tuy nhiên, xét về lịch sử khoa học 
		ta vẫn thường thấy những phát minh lớn lao làm đảo lộn cả một thế hệ 
		cũng dường như chỉ luôn bắt đầu từ những chuyện rất nhỏ nhặt. Một cái 
		đùi ếch bị điện giật và một mẩu bánh mì mốc meo dường như là những sự 
		vật quá nhỏ mọn không đủ để phát minh ra bình ắc-quy điện và thuốc trụ 
		sinh Penicilline, nhưng sự thật thì đó chính là những nguyên nhân đầu 
		tiên đưa đến hai sự phát minh kỳ diệu kể trên. Một ngọn đèn lồng đưa 
		lủng lẳng trong một nhà thờ cổ ở một làng nhỏ thuộc nước Ý đã đưa ông 
		Galilée đến việc phát minh ra một đồng hồ thiên văn. Một bồn nước tràn 
		đã giúp cho ông Archimede tìm ra một định luật quan trọng về sức đẩy của 
		nước. 
		Lịch sử đã đưa đến cho ta nhiều thí dụ tương tự. Chúng ta phải nhìn nhận 
		rằng sự thật có thể tìm ra được từ những khởi đầu giản dị tầm thường, và 
		chúng ta sẽ không ngạc nhiên mà thấy một người học thức ít oi, không tài 
		ba, thiếu văn hóa, khi rơi vào giấc ngủ thôi miên lại có thể đưa ra 
		những bằng chứng quan trọng để chứng minh cho một lý thuyết căn bản về 
		kiếp sống con người. 
		Bây giờ, chúng ta hãy tóm lại những gì đã được chứng minh qua những cuộc 
		soi kiếp của ông Cayce, ngoài những bằng chứng hiển nhiên khác về sự 
		thật của hiện tượng thần nhãn. 
		Có tất cả bảy điểm chính sau đây: 
		1. Sự phân tách tâm lý và diễn tả hoàn cảnh bên ngoài của những người 
		hoàn toàn xa lạ ở cách xa hàng trăm cây số; và trong hàng ngàn trường 
		hợp, đã được xác nhận là đúng với sự thật. 
		2. Sự tiên đoán về những thiên tư, khả năng và nhiều điểm khác của đương 
		sự đã được chứng thực trong nhiều năm về sau, không những đối với những 
		người lớn mà cả với những trẻ sơ sinh. 
		3. Những đặc điểm về tánh tình của đương sự được truy nguyên một cách 
		hợp lý từ những kinh nghiệm thâu thập ở các kiếp trước. 
		4. Những lời tiên đoán đưa ra trong giấc thôi miên của ông Cayce đều 
		chính xác và không hề trái ngược nhau, không những trên nguyên tắc đại 
		cương mà cả trong từng chi tiết nhỏ nhặt, trong hàng trăm cuộc soi kiếp 
		khác nhau vào những thời kỳ khác nhau. 
		5. Những tài liệu lịch sử chưa rõ ràng đã được kiểm chứng lại bằng cách 
		tra cứu các văn khố; tên tuổi của các nhân vật đã được tìm thấy tại 
		những địa điểm mà các cuộc soi kiếp nêu ra. 
		6. Những cuộc soi kiếp cùng những lời khuyên mà đương sự đã chấp nhận và 
		nghe theo đã giúp cho nhiều người thay đổi cuộc đời về phương diện tâm 
		lý, nghề nghiệp cũng như sức khỏe, thể chất. 
		7. Những lời khuyên nhủ và răn dạy có tính cách triết lý và tâm lý trong 
		các cuộc soi kiếp đều phù hợp với những đạo lý cổ truyền đã từng được 
		giảng dạy ở Ấn Độ từ nhiều thế kỷ trước. 
		Nói tóm lại, đó là bảy điều quan trọng chứng minh cho những cuộc soi 
		kiếp bằng thần nhãn của ông Cayce, và xác nhận sự thật về thuyết luân 
		hồi nhân quả. 
		Những người khắt khe có thể cho rằng bấy nhiêu đó chưa đủ là những bằng 
		chứng cụ thể và tuyệt đối chắc chắn, nhưng họ vẫn không thể phủ nhận 
		rằng chúng có một giá trị xác tín nhất định. 
		Xét cho cùng, vào những thời điểm đầu tiên khi khoa học chứng minh rằng 
		trái đất tròn, thì người ta cũng chỉ dựa vào sự lập luận là chính chứ 
		chưa thể tận mắt nhìn thấy hình tròn của trái đất như quả cam trong lòng 
		bàn tay. Tương tự, những hiểu biết nguyên tử cũng được hình thành ban 
		đầu từ sự suy luận chứ không ai có thể nhìn thấy tận mắt các hạt nguyên 
		tử. Tuy vậy, căn cứ trên niềm tin vào những sự suy luận đó, người ta mới 
		dần dần phát triển những kiến thức này, và đã có thể vạch ra những lộ 
		trình cụ thể đi vòng quanh trái đất, cũng như đã chế tạo thành công bom 
		nguyên tử và sử dụng năng lượng hạt nhân vào đời sống. 
		Những sự thật này không ai có thể phủ nhận được nữa! Như vậy, thật không 
		phải là một điều quá đáng khi nói rằng người ta nên bắt đầu có những 
		cuộc sưu tầm và nghiên cứu thật cụ thể về thuyết luân hồi nhân quả, với 
		khởi điểm ban đầu là kết quả những cuộc soi kiếp bằng thần nhãn của ông 
		Cayce. 
		Trong thực tế, cho dù thuyết nhân quả có được chứng minh cụ thể bằng 
		những bằng chứng khoa học hay không, điều đó cũng không quan trọng. Chỉ 
		cần chúng ta nhận hiểu và đặt niềm tin vào thuyết này, thì mọi tư tưởng, 
		hành vi của ta chắc chắn sẽ lập tức được thay đổi theo hướng ngày một 
		tốt đẹp hơn. Và điều này thì chắc chắn không một ai có thể phê phán hay 
		phản đối. Khi mỗi người đều sống với thuyết nhân quả, luôn cư xử và hành 
		động với sự cân nhắc về kết quả việc làm của mình, không chỉ trong hiện 
		tại mà cả trong tương lai lâu dài, thì điều chắc chắn là những sự tự xét 
		mình đó sẽ giúp cho xã hội ngày càng trở nên tốt đẹp và hoàn thiện hơn.
		
		
		
		[1] Ông tên thật là Claudius Ptolemaeus, sống 
		vào khoảng thế kỷ 2 ở Alexandria, Ai Cập. Ông là nhà thiên văn học đầu 
		tiên đề xướng lý thuyết về vũ trụ lấy trái đất làm trung tâm điểm và mặt 
		trời, mặt trăng cũng như các tinh tú đều quay chung quanh trái đất. Lý 
		thuyết sai lầm này tồn tại mãi đến thế kỷ 16.
		
		
[2] Tức Nicolaus Copernicus (1473-1543), nhà 
		thiên văn học nổi tiếng người Ba Lan, đã đề ra lý thuyết về vũ trụ lấy 
		mặt trời làm trung tâm điểm.
		
		
[3] Galileo (1564-1642), nhà vật lý và thiên văn 
		học Ý, đã chứng minh rằng quan điểm của Aristote về vật rơi tự do là sai 
		lầm. Ông cũng là người bị Giáo hội La Mã buộc tội vì ủng hộ quan điểm 
		của Copernicus, vốn đi ngược lại sự truyền dạy của Giáo hội. 
		
		
[4] Hertz: đơn vị đo tần số được gọi theo tên 
		của nhà vật lý người Đức Heinrich Rudolf Hertz, có nghĩa là chu kỳ trong 
		một giây đồng hồ. Một kilohertz (kHz) có nghĩa là một ngàn chu kỳ trong 
		một giây, megaherzt (MHz) là một triệu chu kỳ trong một giây và 
		gigaherzt (GHz) là một tỷ chu kỳ trong một giây. 
		
		
[5] Emanuel Swedenborg (1688-1772), nhà khoa học 
		người Thụy Điển, cũng là triết gia và một nhà thần học. 
		
		
[6] Joseph Banks Rhine (1895-1980), nhà tâm lý 
		học người Mỹ, sinh tại Waterloo, thuộc bang Pennsylvania, tốt nghiệp các 
		trường Đại học Chicago, Harvard và Duke. Ông là giáo sư dạy môn tâm lý 
		học ở trường Đại học Duke từ năm 1928 đến năm 1950.
		
		
[7] Franz Anton Mesmer (1734-1815), bác sĩ người 
		Áo, tốt nghiệp trường Đại học Vienne và là người đề xướng thuật khả năng 
		chữa bệnh bằng phương pháp thôi miên. Ông khám phá và mô tả một năng lực 
		bí ẩn của con người giống như từ trường, về sau được gọi là nhân điện và 
		đã được một số chuyên gia ứng dụng trong việc chữa bệnh. 
		
		
[8] Heinrich Schliemann, nhà khảo cổ người Đức, 
		sinh năm 1822 và mất năm 1890.
		
		
[9] Lafcadio Tessima Carlos Hearn (1850-1904), 
		là nhà văn Hy Lạp gốc Ireland, là người đóng góp quan trọng trong việc 
		giới thiệu nền văn hóa Nhật Bản với phương Tây. Ông sinh ra trên đảo 
		Levks thuộc Hy Lạp nhưng lớn lên ở Ireland, Anh quốc và Pháp. Năm 19 
		tuổi, ông di cư đến Hoa Kỳ rồi viết báo ở Cincinnati thuộc bang Ohio và 
		sau đó ở New Orleans thuộc Louisiana. 
		
		
[10] Thomas Edward Lawrence, cũng được gọi là 
		Lawrence of Arabia, sinh năm 1888 và mất năm 1935, là một nhà thám hiểm 
		người Anh, từng tham gia quân đội và cũng là một nhà văn nổi tiếng.
		
		
[11] 
		Carl Gustav Jung, nhà tâm lý học Thụy Điển sinh ngày 26 tháng 7 năm 1875 
		và mất ngày 6 tháng 6 năm 1961. Ông là một nhà tâm lý học nổi tiếng, đã 
		sáng lập một trong các trường phái mới của bộ môn tâm lý học. Ông vận 
		dụng và phát triển các kết quả nghiên cứu của Sigmund Freud, rồi sau đó 
		đi theo một hướng riêng của mình. Ông tốt nghiệp y khoa năm 1902 tại các 
		đại học Basel và Zurich, nhưng đồng thời cũng có kiến thức uyên bác về 
		các ngành sinh học, động vật học, nhân văn học và khảo cổ học. Ông đặc 
		biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa tâm lý học và đức tin trong tôn giáo.