Phật giáo Mật tông có thể được xếp thành 4 loại, tương ứng với 4 trình 
		độ của khả năng thiền tập du già: Hành động, Tư duy, Du già và Tối 
		thượng du già. Dạng thức cao nhất, Tối thượng du 
		già, có mục đích chấm dứt vòng sinh tử luân hồi và cả thân trung ấm, 
		giai đoạn trải qua giữa khi chết và tái sinh, và nhằm mục đích chuyển 
		hóa tam thân (sinh, tử và trung ấm) thành Phật. Phương pháp này thực 
		hiện qua một tiến trình tu tập thuần thục thiền định du già lấy mẫu từ 
		các tiến trình thực tập mô phỏng lại sự chết, vào thân trung ấm và tái 
		sinh, thực tập nhiều lần cho đến khi hành giả 
		đạt được sự kiểm soát thuần thục các tiến trình của sự chết này và thoát 
		ra khỏi sự kiềm chế của cái chết. 
		Vì tiến trình tu tập du già này đặt căn bản trên sự mô phỏng tái tạo cái 
		chết nên hành giả cần phải nắm rõ các giai đoạn tiến trình sự chết của 
		loài người, xảy ra như thế nào trong các giai đoạn thứ lớp của sự chết 
		và các nguyên nhân sinh lý đằng sau các giai đoạn này. Giáo lý mật tông 
		giảng giải các giai đoạn này dựa trên một lý thuyết phức tạp về khí hay 
		các dòng vận chuyển của năng lượng. Các dòng vận chuyển này có công năng 
		làm nền tảng cho các tầng lớp khác nhau của tâm thức Với sự sụp đổ dây 
		chuyền khả năng của các “khí” này, không còn làm nền tảng cho các tâm 
		thức được nữa thì các biến cố của sự chết - bên trong và bên ngoài thân 
		- được trải bày ra. Như thế, nghiên cứu về sự chết đối với hành giả Mật 
		tông tối thượng du già là nghiên cứu về các “khí” này và các tâm thức 
		tùy thuộc vào chúng. 
		Từ ngữ “khí” được tìm thấy trong các lý thuyết y học Phật giáo qua ba 
		thể dịch căn bản của cơ thể: khí, đởm và đàm.
[3] 
		Khi ba thể dịch này cân bằng, nó điều hành giúp cơ thể khoẻ mạnh; nhưng 
		khi mất cân bằng thì sinh ra bệnh và như thế gọi là tam hư (tiếng Tây 
		tạng là dosha). Thể dịch khí quan trọng nhất trong ba loại, vì nó điều 
		khiển hai loại kia. Khí được định nghĩa là ‘‘một thể nhẹ (theo trọng 
		lượng) và chuyển động’’,
[4] khí điều khiển các vận 
		hành của sự nuốt, nói, tiểu tiện, đại tiện, co duỗi tứ chi... Như thế, 
		định nghĩa của khí bao gồm từ thở hít không khí cho đến các dòng năng 
		lượng khí vi tế điều khiển các vận hành của cơ thể và làm nền tảng của 
		thần thức. 
		Trong lý thuyết y học Mật tông, khí được phân làm 5 loại:
[5]
		
		1. Khí trợ sinh: Khí này trụ nơi tim và dạng thô của khí này điều khiển 
		sự thở hít, ợ hơi, khạc nhổ...
		2. Khí chuyển thượng: Khí này trụ chính giữa lồng ngực, vận hành qua cổ 
		họng và miệng; nó điều khiển chính yếu lời nói, sự nuốt thức ăn và nước 
		bọt, và cũng điều khiển các khớp xương. 
		3. Khí toàn thân: Trụ ở chính giữa đảnh đầu, điều khiển động tác cúi gập 
		mình, co duỗi tứ chi, khép mở miệng và mí mắt. 
		4. Hỏa khí (còn gọi là khí hòa hợp): Trụ ở tầng thứ 3 của dạ dày. Khí 
		này di chuyển trong các cơ quan nội tạng như phổi, tim, gan, túi mật... 
		và di chuyển trong cả các kinh mạch của tứ chi. Hỏa khí điều khiển sự 
		tiêu hóa thức ăn, phân tách riêng các thức tinh lọc khỏi các thức phế 
		thải... 
		5. Khí chuyển hạ: Trụ tại bụng dưới và di chuyển trong tử cung (dạ con) 
		của người nữ, hoặc trong ống dẫn tinh của người nam, trong bọng đái, 
		trong đùi... Khí này điều khiển đóng mở đường tiểu tiện, đại tiện và 
		đường kinh nguyệt. 
		Qua thực tập Mật tông tối thượng du già, hành giả tìm cách làm cho các 
		khí dưới dạng thô và vi tế này hòa tan vào khí trợ sinh rất vi tế trụ 
		nơi tim. Phương pháp tu tập du già này có mục đích tái diễn các tiến 
		trình xảy ra của sự chết và đòi hỏi tập trung trên các kinh mạch phụ và 
		kinh mạch trung ương trong cơ thể. 
		Có 72.000 kinh mạch như thế, ba kinh mạch chính chạy từ trên trán vòng 
		qua đảnh đầu để đi dọc xuống cột xương sống lưng cho đến bộ phận sinh 
		dục. Các trung tâm xếp dọc theo ba kinh mạch trung ương là các luân xa 
		(với số lượng nan hoa hoặc cánh khác nhau). Có 7 luân xa nằm tại trán, 
		đảnh đầu, cổ họng, tim, đám rối dương (solar plexus), xương cụt của cột 
		sống lưng và tại bộ phận sinh dục. Tại các luân xa này, kinh mạch phải 
		và trái quấn bao vòng quanh kinh mạch trung ương, thắt chặt nó lại và 
		cũng làm giảm bớt hoặc ngăn chặn luồng khí chạy ngang qua. 
		Lúc lâm chung, khí lực làm nền tảng của tâm thức tan rã vào hai luồng 
		khí của kinh mạch phải và trái. Hai khí này sau đó lại tan rã vào khí 
		của kinh mạch trung ương, và từ đó các kinh mạch đang bị thắt chặt được 
		nới lỏng dần, nghĩa là kinh mạch ngoài bị xẹp xuống, vì thế kinh mạch 
		trung ương được nới lỏng để cho khí chuyển động tự do bên trong. Điều 
		này gây ra sự xuất hiện của tâm vi tế, gây hoảng sợ cho những người bình 
		thường vì họ cảm thấy như mình đang bị hủy diệt. Hành giả Tối thượng du 
		già thì trái lại, nương nhờ và sử dụng các trạng thái này để tiến tu 
		trên đường đạo. 
		Dọc theo đường kinh mạch trung ương có các giọt khí trắng và đỏ, làm căn 
		cứ cho năng lực sinh lý và tâm lý – giọt khí trắng phần lớn tụ trên đảnh 
		đầu, giọt khí đỏ thì tụ nhiều ở đám rối dương. Các giọt khí này xuất 
		phát từ các giọt khí trắng-đỏ trụ ở luân xa tim, kích thước bằng khoảng 
		hạt mù tạt lớn hay là cỡ hạt đậu Hòa Lan nhỏ. Các giọt khí này có phần 
		trên màu đỏ và phần dưới màu trắng. Các giọt khí trắng-đỏ này được gọi 
		là khí bất hoại, vì nó tồn tại cho đến lúc cuối của sự chết. Chính khí 
		trợ sinh rất vi tế nằm ở trong khí bất hoại này và lúc lâm chung, tất cả 
		các khí đều tan rã vào trong khí bất hoại, ngay lúc đó là ánh sáng tịnh 
		quang (ánh sáng trong suốt như ánh rạng đông) của sự chết hé rạng. 
		Các hiện tượng sinh lý của sự chết xoay quanh các thay đổi của khí, kinh 
		mạch và các giọt khí. Về phương diện tâm lý, vì các thức, theo thể loại 
		từ thô đến vi tế, tùy thuộc vào khí như người kỵ mã tùy thuộc vào con 
		ngựa mình cưỡi, cho nên khi các loại khí này tan rã hoặc mất đi khả năng 
		làm căn cứ của tâm thức, thì điều đó sẽ gây ra những thay đổi cơ bản 
		trong kinh nghiệm tâm thức. 
		Sự chết bắt đầu với các tiến trình tan rã tuần tự của các khí liên đới 
		với tứ đại – đất, nước, lửa và gió. Đất (địa đại) chỉ vào các phần tử 
		rắn của thân như là xương, và sự tan rã của khí liên đới đến địa đại có 
		nghĩa là khí này không còn có thể làm căn cứ của tâm thức. Kết quả sự 
		tan rã của địa đại là tiềm năng của khí liên đới đến nước lấn lướt mạnh 
		mẽ hơn lên. Nước (thủy đại) – là tất cả các thể lỏng trong thân – cũng 
		vận hành làm căn cứ của tâm thức như địa đại. Sự chấm dứt của năng lực 
		làm căn cứ cho tâm thức của một phần tử (đại) và làm cho năng lực ấy 
		trong một phần tử (đại) khác mạnh hơn, lấn lướt lên, gọi là sự ‘’tan 
		rã’’. Vì vậy, đó không phải giống như trường hợp ta mang đất hòa trộn 
		vào nước (xem trang 46). 
		Cùng lúc với sự tan rã của địa đại, bốn phần tử khác cũng tan rã (xem 
		biểu đồ 1), kèm theo là các dấu hiệu chết bên ngoài (nói chung có thể 
		thấy rõ bởi người xung quanh) và một dấu hiệu chết bên trong (là kinh 
		nghiệm xảy ra bên trong người chết). Cùng tiến trình tương tợ tái diễn 
		tuần tự cho 3 đại còn lại kia (xem các biểu đồ 2 đến 4), kèm theo các 
		dấu hiệu bên ngoài và bên trong tương ứng. 
		Biểu đồ 1: Chu kỳ 1 của sự tan rã đồng thời 
		
			
				| 
					
						| Phần tử tan rã |  
								| địa đại |  
								| sắc uẩn |  
								| đại viên cảnh trí căn bản (ý thức bình thường của ta nhận biết rõ nhiều 
		đối tượng cùng một lúc) |  
										| nhãn thức |  
										| màu sắc, hình dạng |  | 
												
									
										| Dấu hiệu chết bên ngoài |  
										| thân thể gầy ốm, tứ chi lỏng lẻo; cảm thấy bị nhận chìm xuống đất |  
								| thị lực trở nên mơ hồ và tối tăm |  
								| đôi mắt không còn nhắm mở được |  
						| bóng láng của thân giảm; sức lực tiêu mòn |  | 
					
						| Dấu hiệu chết bên trong |  
						| thấy xuất hiện các ảo tượng |  | 
		
		 Biểu đồ 2: 
		Chu kỳ 2 của sự tan rã đồng thời 
		
			
				| 
					
						| Phần tử tan rã |  
								| thủy đại |  
								| thọ uẩn (lạc thọ, khổ thọ và vô ký) |  
								| bình đẳng tánh trí căn bản (ý thức bình thường căn bản của ta nhận biết 
		các cảm giác lạc, khổ và vô ký) |  
										| nhĩ thức |  
										| âm thanh |  | 
												
									
										| Dấu hiệu chết bên ngoài |  
										| nước bọt, mồ hôi, nước tiểu, máu và các thể dịch khô cạn nhiều |  
								| thần thức không còn cảm thấy 3 loại cảm thọ liên hệ đến thọ uẩn |  
								| không còn nhận biết các cảm thọ của tâm thức |  
				| không còn nghe được âm thanh bên ngoài và bên trong cơ thể |  
						| không còn nghe tiếng ù ù trong tai |  | 
					
						| Dấu hiệu chết bên trong |  
						| thấy xuất hiện màn khói |  | 
		
	
		
	
		Biểu đồ 3: Chu kỳ 3 của sự tan rã đồng thời 
		
			
				| 
					
						| Phần tử tan rã |  
						| hỏa đại |  
						| tưởng uẩn |  
						| diệu quán sát trí căn bản (ý thức bình thường của ta nhận biết tên 
		riêng, mục đích... của các người thân) |  
						| tỷ thức |  
						| khứu giác |  | 
					
						| Dấu hiệu chết bên ngoài |  
						| không thể tiêu hóa đồ ăn, thức uống |  
						| thần thức không còn biết gì đến công việc của các người thân |  
						| thần thức không còn nhớ tên của các người thân |  
						| hơi hít vào yếu hẳn thở hắt ra mạnh và dài |  
						| không còn ngửi được |  | 
					
						| Dấu hiệu chết bên trong |  
						| thấy xuất hiện 
						đom đóm sáng hoặc tia lửa xẹt trong khói |  | 
		
	
		
		
		
 Biểu đồ 4: 
		Chu kỳ 4 của sự tan rã đồng thời 
		
			
				| 
					
						| Phần tử tan rã |  
						| phong đại |  
						| hành uẩn |  
						| Thành sở tác trí căn bản (ý thức bình thường của ta nhận biết các hoạt 
		động bên ngoài, mục đích...)
		ý thức về các hoạt động bên ngoài v.v... không còn nữa |  
						| thiệt thức |  
						| vị giác |  
						| các cảm quan của cơ thể và các đối tượng sờ nắm được |  | 
					
						| Dấu hiệu chết bên ngoài |  
						| mười loại khí đổ về tim; thở ra hít vào ngưng hẳn |  
						| không còn vận động gì được nữa |  
						| thần thức không còn nhớ tên của các người thân |  
						| lưỡi cứng và tê rụt lại, cuống lưỡi xanh xám |  
						| không còn cảm thấy mùi vị được nữa |  
						| xúc giác không còn cảm thấy được tính nhám hoặc trơn láng |  | 
					
						| Dấu hiệu chết bên trong |  
						| thấy xuất hiện ngọn đèn xèo xèo sắp tắt |  | 
		
	
		
		
	
		
		Biểu đồ 5: Chu kỳ 5 đến 8 của sự tan rã đồng thời 
		
			
				| Phần tử tan rã | Nguyên nhân xuất hiện | Dấu hiệu chết bên trong | 
			
				| Chu kỳ thứ 5 80 tâm sở
 | khí của kinh mạch trái và phải ở phía trên tim đổ về kinh mạch trung 
		ương trên đảnh đầu | đầu tiên thấy ngọn đèn cháy; sau thấy màn không trong suốt tràn ngập ánh 
		sáng trắng | 
			
				| Chu kỳ thứ 6 màn tâm thức trắng
 | khí của kinh mạch trái và phải ở phía dưới tim đổ xuống kinh mạch trung 
		ương ở căn cứ xương cùng | thấy màn không cực kỳ trong suốt tràn ngập ánh sáng đỏ | 
			
				| Chu kỳ thứ 7 màn tâm thức đỏ tăng dần
 | khí bên trên và bên dưới tụ lại tại tim; sau đó đi vào trong các giọt 
		khí ở tim | đầu tiên thấy màn không tràn ngập bóng tối dày đặc; sau thấy như bị ngất 
		lịm đi không biết gì nữa | 
			
				| Chu kỳ thứ 8 Màn tâm thức màu đen của định cận mãn
 | tất cả các khí tan rã vào trong khí trợ sinh cực vi tế trong các giọt 
		khí bất hoại ở tim | thấy màn không cực kỳ trong suốt không còn gợn chút màu trắng, đỏ và đen 
		– tâm thức tịnh quang của sự chết | 
		
		
	
		Khi chu kỳ 5 khởi đầu, tâm thức cũng bắt đầu tan rã, nghĩa là các tâm 
		thức thô ngưng lại và các tâm thức vi tế nổi lên. Đầu tiên, các tư tưởng 
		(tâm sở) ngừng – tan rã (theo một cách nói) vào màn tâm thức trắng (xem 
		biểu đồ 5). Tâm thức vi tế này, mang một màn rỗng không tràn ngập ánh 
		sáng màu trắng xuất hiện, không còn các tâm sở thô, nhưng vẫn còn chút 
		ít tính nhị nguyên (phân biệt ta và người). Sau đó, nó tan rã vào trong 
		màn “tâm thức đỏ tăng dần” vi tế hơn nữa, rồi lại tan vào màn tâm thức 
		đen. Ở điểm này, thần thức chỉ thấy xuất hiện một màn rỗng không tràn 
		ngập màu đen, cùng lúc, thần thức ngất lịm đi. Sau đó, tất cả biến đi và 
		chỉ còn để lại một màn rỗng không hoàn toàn bất nhị – tức là tâm thức 
		của ánh tịnh quang cực kỳ trong suốt – không gợn chút trắng, đỏ và đen. 
		Đó là sự chết. 
		Vì hơi thở bên ngoài (có thể dò thấy được qua lỗ mũi) đã ngưng từ lâu 
		trước đó, ở chu kỳ 4, nên đối với Mật tông, thời điểm của cái chết không 
		do nơi hơi thở vào hay ra mà là lúc người chết thấy tâm thức ánh tịnh 
		quang xuất hiện. Người chết thường trụ trong trạng thái rỗng không trong 
		suốt này khoảng 3 ngày, sau đó (nếu cơ thể chưa bị hủy hoại bởi bạo 
		bệnh), có các dấu hiệu bên ngoài là máu mủ tiết ra từ lỗ mũi và bộ phận 
		sinh dục, cho biết thần thức đã rời khỏi thân. Chỉ lúc đó mới là lúc an 
		toàn để di chuyển thi thể và làm ma chay. Trước đó, thần thức vẫn còn 
		trụ trong thân và bất cứ động chạm mạnh bạo nào cũng chỉ có tác dụng làm 
		trở ngại giai đoạn tối hậu của tiến trình chết, với hậu quả là thần thức 
		có thể phải đi đầu thai cảnh giới thấp. 
		Khi ánh tịnh quang ngừng, thần thức trải qua thêm một lần nữa 7 giai 
		đoạn tan rã, nhưng theo thứ tự ngược lại như sau: 
		1. Ánh tịnh quang 
		2. Màn (bầu trời) đen định cận mãn 
		3. Màn (bầu trời) đỏ tăng dần, rực rỡ 
		4. Màn (bầu trời) sắc trắng rực rỡ 
		5. Ngọn đèn sắp tắt 
		6. Đom đóm 
		7. Khói 
		8. Ảo tượng 
		Ngay khi tiến trình thứ tự ngược bắt đầu, người chết tái sinh vào trạng 
		thái trung ấm (bar-do), giữa hai kiếp sống, thọ một thân vi tế có thể đi 
		đến bất cứ nơi nào nó muốn, xuyên qua núi non vật chất để đi tìm một nơi 
		tái sinh thực sự. 
		Toàn thể kiếp sống của thân trung ấm có thể kéo dài từ một phút chốc cho 
		đến 7 ngày, tùy theo nó có tìm được nơi tái sinh thích hợp hay không. 
		Nếu không, thân trung ấm phải trải qua một cái ‘‘chết nhỏ’’ trải qua 8 
		giai đoạn chết đã nói trên, nhưng trong một khoảng thời gian rất ngắn. 
		Rồi nó lại trải qua 8 giai đoạn của tiến trình ngược và tái sinh trong 
		một thân trung ấm mới thứ hai. Nó chỉ có thể trải qua 7 lần thân trung 
		ấm như thế là tối đa, tổng cộng là 49 ngày. Trong khoảng thời gian đó, 
		một nơi đầu thai bắt buộc phải được tìm ra. 
		Ta có thể so sánh cái ‘’chết nhỏ’’ xảy ra giữa hai thân trung ấm hoặc 
		ngay trước khi đi đầu thai với 8 giai đoạn chết (từ sự xuất hiện của ảo 
		tượng cho đến tịnh quang) mà ta phải trải qua khi đi vào giấc ngủ. Tương 
		tợ, khi đi vào giấc mộng thì ta thường phải trải qua 8 giai đoạn của 
		tiến trình ngược trước khi giấc mộng bắt đầu; giấc mộng này chấm dứt 
		bằng 8 giai đoạn chết, tiếp theo bởi 8 giai đoạn tiến trình ngược. Đó là 
		những gì xảy ra khi ta chuyển từ giấc mộng này qua một giấc mộng khác 
		hay khi ta tỉnh ra khỏi giấc ngủ. 
		Những trạng thái tâm thức chuyển biến càng lúc càng vi tế lúc lâm chung, 
		hay càng lúc càng thô lúc tái sinh, đều phải trải qua sự ngất xỉu hay 
		qua những lúc cực điểm hoan lạc, cũng giống như các chuyển biến trước và 
		sau một giấc ngủ, một cơn mộng, nhưng tiến trình của các trạng thái mộng 
		này không trọn vẹn đầy đủ.
[6] Như thế có nghĩa là 
		các trạng thái trên không những biểu thị các trình độ vi tế làm nền móng 
		cho mỗi thời khắc tâm thức ta thành hình, mà còn diễn bày những trạng 
		thái tâm thức con người thường trải qua mà không nhận biết. Lý thuyết 
		này ngụ ý rằng tâm thức của đời sống bình thường chỉ liên hệ đến các 
		tầng lớp thô và nông cạn, không chú ý đến các trạng thái vi tế vốn là 
		nền tảng của cả tâm thức lẫn các màn tâm thức. Đó là trường hợp thiếu 
		hiểu biết về nguồn gốc cũng như về hậu cứ trú ẩn của tâm thức. Người 
		bình thường chỉ luôn luôn đồng nhất mình với các trạng thái tâm thức thô 
		và nông cạn đến nỗi cảm thấy sợ hãi bị hủy diệt khi phải đi vào các 
		trạng thái tâm thức vi tế. 
		Trong các giai đoạn tu tập Tự Khởi và Hoàn Tất của Mật Tông Tối Thượng 
		Du Già, các tiến trình không kiềm chế được của sự chết, trung ấm và tái 
		sinh cuối cùng sẽ được thanh tịnh hóa. Trạng thái vi tế nhất của tâm – 
		ánh tịnh quang – sẽ được sử dụng để làm nền tảng quán tưởng phát tâm từ 
		bi mà không tạo ra thêm các tâm thô nào nữa. Các thực chứng của quá 
		trình tu tập kể trên vượt hơn hẳn trình độ tu tập của những người chưa 
		phát được tâm từ bi, chưa nhập tánh Không và chưa học pháp môn Du Già 
		quán tưởng Hộ Phật* (là pháp môn thiền định quán tưởng để phát sinh từ 
		bi và trí tuệ tánh Không qua sự quán tưởng mình hóa thành vị Hộ Phật).
[7] 
		Tuy nhiên, nếu muốn, ta vẫn có thể thích ứng quan điểm về cuộc sống của 
		mình để học hỏi hiểu biết các trạng thái đã bàn ở trên. Chính trong 
		chiều hướng ý nguyện đó mà quyển sách này được chuyển dịch.