ĐÔI NÉT VỀ  SOẠN GIẢ 
Trong Phật giáo Tây Tạng,  Đại thủ  ấn (Mahamudra) tiêu biểu cho mức  độ  thành tựu cao nhất của Chân  đế.  Đó là sự  kết hợp bất khả phân ly giữa bi và trí, giữa tánh không và phương tiện. 
Tám mươi tư  vị  Thánh tăng trong tác phẩm này là những vị  đạo sư  tiêu biểu  đã tu tập  đến mức thành tựu. Họ  sống từ  khoảng thế  kỷ  8  đến thế  kỷ 12 tại  Ấn  Độ. 
Trong số  các bậc thầy vĩ  đại này, có những vị sống một lối sống vượt thoát ra khỏi tập tục truyền thống như  Tilopa, Naropa và Marpa. 
Sau nhiều năm dày công nghiên cứu, Keith Dowman  đã sưu tập và dịch ra Anh ngữ  những bài đạo ca và các truyền thuyết về  các vị  đạo sư  này. Nhờ  sự  hỗ  trợ  và chỉ  dẫn của các bậc thầy,  Keith Dowman cũng  đã viết chú giải về  cuộc  đời và cách tu tập, hành trì của các vị  đạo sư  này. 
Trong phần giới thiệu, Dowman  đã trình bày một số  ý niệm cơ  bản về  Đại thủ  ấn. Bằng một giọng văn sống  động, giàu  ảnh tượng, Keith Dowman  đã giải mã những  đoạn văn kỳ  bí của Mật tông, giúp độc giả  dễ  dàng hơn trong việc thâm nhập vào thế giới của huyền thuật. 
Keith Dowman đã có những tác phẩm thành công và giá trị  như: Thiên Nữ  (Sky-Dancer), Cuộc  đời bí ẩn và những bài  đạo ca của nữ  đạo sư  Yeshe Sogyel (The secret and songs of the Lady Yeshe Sogyel), Truyền thuyết về  Đại Thánh  Đường (The Legend of the Great Stupa)... 
Hiện nay tác giả  đang sống và tu tập tại Kathmandu thuộc quốc gia Nepal.
CÁC BẬC CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN 
 
Tập sách này trong nguyên ngữ Tây Tạng được  biên soạn từ quyển Truyền thuyết về 84 vị Thánh tăng (Grub thob  brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) do ngài Mondup Sherab ghi chép từ lời  kể của ngài Abhayadatta Sri (thế kỷ 12th) và quyển Tâm chứng của 84 vị  Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu rtogs pa’i snying po rdo rje’i lu)  của ngài Vira Prakash, đã được Keith Dowman và Bhaga Tulku  Pema Tenzin dịch sang Anh ngữ. Phần giới thiệu và các chú giải, nhận xét là  của Keith Dowman, hình minh họa là của H. R. Downs. Sách đã được phát  hành tại Hoa Kỳ vào năm 1985 (The State University of New York Press, Albany,  NY., 1985) với độ dày 454 trang. Sách cũng đã từng được dịch sang tiếng Đức vào  năm 1991 với nhan đề Die Meister der Mahamudra (Diederichs, Munchen,  1991).
  Bản dịch Việt ngữ được giới thiệu lần này  là của Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng, được dịch từ bản tiếng Anh Masters  of Mahamudra of the Eighty-four Buddhist Siddhas của Keith Dowman.
  
Kính dâng
  Một con người luôn luôn hoan hỷ tùy thuận  chúng sinh trong niềm an lạc; người mà mỗi lời nói ra là một sự khai thị thích  hợp với trình độ căn cơ của người nghe; người mà mọi cử chỉ, thái độ, oai nghi  đều là nguồn thông tin diễn đạt chân pháp; người mà biết rõ tâm mình và tâm kẻ  khác; người mà có khả năng truyền sự an lạc của mình đến các bằng hữu và khách  quen, khiến cho tất cả đều hoan hỷ đến cùng tột như lên đến được các vì sao để  hoà mình vào điệu múa của vũ trụ. Người đó chính là một vị Lạt-ma. Trước  hết tôi cung kính đảnh lễ một con người như thế. Con người kỳ diệu ấy là Lạt-ma  Kanjur. Ngài sinh ra ở miền đông Tây Tạng, trở thành một nhà sư bác học và  uyên áo thuộc tu viện Riwoche, tỉnh Amdo, Tây Tạng. Ngài kết thúc  cuộc đời như một kẻ di tản đến vùng Djeering nước Ấn Độ ở tuổi tám mươi  tư. Nguyện cầu cho những lời chú nguyện của Ngài trực truyền đến tâm chúng ta  và xin hồi hướng công đức này đến tất cả chúng hữu tình khiến họ thoát vòng  sinh tử luân hồi, đồng chứng vào pháp giới. 
 LỜI TỰA
  Mahamudra là một thuật ngữ để chỉ pháp tu  tối thượng của Mật tông nhằm đạt tới đạo quả vô thượng, tức Phật tính; tự  thân phảp môn này là cứu cánh rốt ráo. Theo nghĩa của từ nguyên, Maha là  to lớn, Mudra là dấu ấn. Như vậy, Mahamudra tức Đại thủ ấn. Đại thủ ấn vừa là phương tiện thiện xảo, vừa là cứu cánh rốt ráo. 
  Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này  là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ  thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12. Những thiền sư này đããhình thành và sáng tạo những  phương cách thiền định đặc thù để tự tu tập và giác ngộ. Về sau, các môn đồ của  họ cũng đã thành công khi áp dụng những phương cách thiền định này. Các bậc thiền  sư Đại thủ ấn khi ngộ được chân tính thì được gọi là Đại thành tựu giả (Mahasiddha). 
  Tác phẩm này được rút tỉa từ kinh văn Tây  Tạng, gọi là Truyền thuyết về tám mươi tư vị thánh tăng (Grub thob  brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) được đánh giá rất cao vì tính sử liệu và cụ  thể của các phương pháp tu tập mà những đại thiền sư này đã áp dụng và thành tựu. 
  Trước hết, về mặt lịch sử có một  số mẩu chuyện kể về các thiền sư kiệt xuất và có thật trong lịch sử Phật giáo  như các ngài Nagarjuna, Sahara, Luipa, Virupa... với  pháp lực, thần thông và trí tuệ xuất chúng của các ngài. Những mẩu chuyện thú vị  có tính cách giải trí này lại là một kiểu sách giáo khoa của các dòng tu Mật  tông Ấn Độ, được bậc thầy truyền lại cho các môn đồ từ thế kỷ này sang thế  kỷ khác. 
  Thứ hai, thông qua những truyền thuyết về  các đạo sư này, chúng ta có thể lãnh hội các mẩu chuyện đó như những phúng dụ (allegory)  mà trong đó các giai thoại (anectote) có những nét tương đồng và tính ẩn  dụ dùng làm phương tiện khai tâm cho môn đồ thuộc các dòng tu mật. Một số truyền  thuyết được thu gọn lại chỉ bao gồm các chi tiết về tiểu sử và các pháp thiền định. 
  Thứ ba, bởi vì các truyền thuyết này được  viết lại sau cái chết của vị đạo sư cuối cùng trong số 84 vị nên có những sai  sót về lỗi chính tả trong các bản sao lục và ở các di bản khắc gỗ. Dù vậy,  chúng ta vẫn có một lịch sử tương đối trọn vẹn về tám mươi tư vị thánh tăng kiệt  xuất này. 
  Thật vậy, chúng ta có tám mươi tư truyền  thuyết đáng tin cậy, tám mươi tư khuôn mẫu phương cách thiền định, tám mươi tư  nhân cách mà một số mang tính lịch sử và một số mang tính tiêu bản, sống ở Ấn Độ  trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12. 
  Tựa đề của tám mươi chương trong tác phẩm  này đều là tên của các vị thánh tăng. Dưới những tựa đề là các bài kệ gọi là Chứng  đạo ca (songs of realization) được dịch từ một tài liệu Tây Tạng, có  tên là Tâm chứng của tám mươi tư vị thánh tăng (Grub thob brgyad bcu  rtogs pai’i snying po rdo rge’i glu). Các đạo ca này do một học giả có tên Prakasa thu thập và biên soạn. Đây là những bài hát miêu tả bản chất chứng ngộ của các  bậc thầy và con đường mà họ đã đi qua để đạt đến đích. Tất cả đều được diễn đạt  bằng ngôn ngữ của Phật giáo và giàu hình ảnh của pháp môn Đại thủ ấn truyền thống. Bên dưới mỗi bài kệ là truyền thuyết về vị đạo sư và ở đoạn giữa  là phép hướng dẫn thiền định của đạo sư ấy. Các truyền thuyết này do một học giả  người Ấn Độ là Abhayadatta, kể lại cho một nhà sư Tây Tạng có tên Mondrup  Sherb vào thế kỷ thứ 12. 
  Phần giới thiệu tác phẩm này cũng là phần  giới thiệu và giải thích căn bản về Mật tông Phật Gìáo, có thể giúp cho  người đọc thâm nhập vào nội dung của tác phẩm và các phương cách thiền định của Đại thủ ấn, cũng như thâm nhập vào các ý niệm và thuật ngữ của pháp thiền  trong các truyền thuyết. Sau mỗi câu chuyện là lời bình dành cho những độc giả  có ý muốn xem các truyền thuyết là khuôn mẫu để tu tập, phương cách thiền định  trong Tantra gọi là Sadhana, tạm gọi là sự hành trì. 
  Sadhana có nghĩa là “sự nỗ lực và phép tu luyện  để tồn tại một cách có chủ đích” (the endeavour and method of  intentional existential praxis). Tài liệu trong phần này chủ yếu là định  nghĩa các từ ngữ và nói về ý nghĩa của giáo pháp được đề cập. Các tư liệu soạn  thảo được rút tỉa từ nhiều nguồn khác nhau: từ các kinh văn truyền khẩu ở Tây Tạng  do một Lạt-ma tái sinh của tu viện Arunachal Pradesh ở Ấn Độ, tên  là Bhaga Tulku thuộc dòng tu Nyingma; từ một học giả cư sĩ tên là Se Kusho Chompel Namgyel; từ các phương pháp thiền định tương tự được khẩu  truyền trong các dòng tu, đặc biệt là Đại thủ ấn do cố Lạt-ma Gyelwa  Karmapa và các lạt-ma khác của dòng Kahgyu; từ các giai đoạn  tu tập “phát sinh” và “thành tựu” được giảng dạy trong dòng Nyingma và giáo lý của Đại cứu kính (dzogchen); từ các Tantra gốc,  đặc biệt là của các dòng Mật giáo Samvara, Guhysamaja, Hevajra và Candamaharosama; từ các nghi thức thiền định của Kim cương Du-già  Thánh nữ (Vajra Yogini) trong nhiều hoá thân; và từ những đạo ca (doha) của các bậc thánh tăng. 
  Nhưng dù chúng ta có được những khẩu quyết  và lý thuyết, những nghiên cứu kinh viện và óc phân tích, cũng không thể dựa  vào đó để tu tập có kết quả, vì hầu hết các phương thức thiền quán trong Mật  tông đều được dạy một cách tóm lược và tùy căn cơ khác nhau của từng môn đồ. 
  Việc được pháp tu tập Mật tông, sự  điểm đạo để nhập vào đàn pháp (mandala) và việc truyền trao các  phương thức thiền định chỉ là những giai đoạn sơ cơ để hành giả có những bước  chuẩn bị cần thiết, trong đó có việc quán tưởng một hình ảnh (Im). Việc  nhận ra các thực thể tâm linh và kích xúc chúng được minh thị bằng những biểu  tượng phức tạp nơi hình ảnh của một vị Hộ thần (Deva), ví dụ như  việc nhận ra các trạng thái tỉnh giác khác nhau của tâm. Điều đó chỉ có thể thực  hiện trong thiền quán, nghĩa là trong những điều kiện tối ưu. Dó đó, phần bình  luận phản ánh những kinh nghiệm trong truyền thống tu thiền của các bậc đạo sư  mà bản thân người phê bình cũng đã có được sau 12 năm tu tập. 
  Các hành giả sơ cơ ở phương Tây tìm kiếm  bản chất của tâm qua trung gian của Tantra thường không gặp trở ngại về  khả năng tu tập, nhưng việc giải thích sai lệch ý nghĩa của các biểu tượng  thiêng liêng và ảnh tượng của vị thủ thần (Yidam) khiến họ không  thể thâm nhập vào chân nghĩa của các thuật ngữ và các ý niệm của Mật tông cũng như những vấn đề của thế giới luận (the realm of hermeneutics)  tạo ra cho họ những trở ngại lớn nhất.
  Do đó, việc nghiên cứu các bản dịch của  kinh văn Mật giáo mà không có lời bình giảng hay thiếu sự khẩu truyền của một bậc  thầy đã chứng ngộ chính bằng phương pháp kể trên sẽ tạo ra các kết quả trái ngược,  nếu không muốn nói là một mối nguy hiểm thật sự đối với sự lành mạnh.
  Phần minh chứng cho các luận giải và các  bản sao dịch được tìm thấy ở Tây Tạng và Ấn Độ trong thời kỳ giáo lý Mật  tông bắt đầu được truyền bá một cách rộng rãi và công khai, những phương thức  quan trọng của pháp môn này cũng được công bố lại bằng các phương ngữ (idioms)  của hai quốc gia đó.
  Ngôn ngữ trong phần giới thiệu và lời  bình đôi khi đề cập đến những ý niệm phương Tây khá xa lạ với các độc giả của  truyền thống Tây Tạng. Chẳng hạn, độc giả đã từng quen thuộc với phép đồng  lượng vị căn (homeopathy) mới có thể lãnh hội các phương pháp tu tập  của Mật Giáo thông qua lý thuyết được cô đọng bằng các ngạn ngữ gốc La-tinh với  nghĩa rộng của nó như “độc trị độc” (the poison is the panacea)  hay “liều lượng nhỏ, hiệu quả cao”, hoặc cụm từ “giao hợp nửa vời”  (coitus interruptus) rất quen thuộc với người phương Tây với nghĩa rộng  của cụm từ này, nó ám chỉ những nét tương đồng trong cách tu thiền định của Mật  Giáo. Đây là phương tiện để diễn đạt ý nghĩa.
  Ví dụ sau cùng là hình ảnh của một nhà sư  hay đạo sĩ đi xuyên tường, bay giữa hư không, hay ăn đất, ăn đá, không xa lạ gì  với cách nghĩ của người phương Đông, nhưng nghe chừng có vẻ rất khó chấp nhận đối  với những người phương Tây có đầu óc duy lý.
  Trong ý nghĩ của người phương Đông, tâm không đối kháng với vật. Một quan niệm như thế tất nhiên sẽ có hiệu quả  hơn trong việc giải thích công dụng của tâm. Tại sao những con người  sùng tín đạo Phật ở phương Tây lại phải chồng chất thêm vào đầu óc họ những  quan niệm của phương Đông và cách suy nghĩ rập khuôn, trong khi họ đã sẵn có đầy  đủ tư lương để đi vào cửa đạo? Nhưng bằng cách nào đi nữa, họ cũng phải từ bỏ  chính bản thân mình, nếu không muốn nói là trừ sạch chấp ngã, mới có thể đến chốn  đạo tràng.
  Do đó, mặc dù phương thức căn bản về giáo  pháp được áp dụng trong phần bình luận, vốn được truyền thừa trên 1.200 năm,  nhưng ở đây lời bình phẩm phản ánh những kinh nghiệm cá nhân bằng một thứ ngôn  ngữ dễ lãnh hội.
  Sau phần bình luận về phương thức thiền định  (sadhana) là phần sử liệu.
  Tất cả các tư liệu lịch sử có liên hệ xa  gần với một đạo sư (siddha) như địa vị trong dòng tu hay khoảng thời  gian trụ thế của ngài... được viết chung trong phần biên niên sử. Ngoài ra còn  có những truyền thuyết hay giai thoại về các đạo sư lỗi lạc được sưu tập từ các  nguồn khác, cũng được đưa vào phần này để làm sáng tỏ thêm vấn đề. Ở phần nào  không có đủ tài liệu tham khảo về một đạo sư, chúng tôi chỉ đề cập đến danh hiệu  của vị ấy mà thôi.
  Tên của các vị đạo sư trong tác phẩm này  có nguồn gốc Sanskrit và đã được xác minh qua cách phân tích từ nguyên để  thay cho Tạng ngữ và thổ ngữ Apabharamsa, và nhiều từ sai sót  trong một số tư liệu có liên quan đến nguồn gốc tiếng Tây Tạng đã được điều chỉnh.
  Thông thường một vị đạo sư có nhiều danh  hiệu khác nhau, nhưng do sự hiếm hoi về các tư liệu có giá trị lịch sử nên  chúng ta chỉ đạt được kết quả ở một mức độ nhất định nào đó trong việc giải quyết  tính chất đa diện của vấn đề lịch sử có liên hệ tới các đạo sư và thời đại của  các ngài.
  Ngoài việc kiểm tra tư liệu một cách toàn  diện và tái thẩm định các nguồn tư liệu phổ biến có nguồn gốc Tạng ngữ,  các khám phá mới cũng quan trọng không kém trước khi cây phả hệ có thể được xem  như một công cụ để xác định niên hiệu và mối quan hệ truyền thừa giữa các đạo  sư.
  Pháp hiệu của các đạo sư được lấy làm  tiêu đề cho tám mươi tư truyền thuyết, giúp cho người đọc dễ nhớ. Tuy nhiên,  cũng có một số pháp hiệu sai sót về mặt từ nguyên ngay trong nguyên tác hay do  vay mượn từ Tạng ngữ. Hậu tố “pa” đứng sau tên của các đạo sư là  rút gọn của Phạn ngữ “pada”. Đây là hình thức tôn vinh một bậc  thánh hay một đạo sư, hoặc để chỉ chung cho phái nam trong ngôn ngữ Tây Tạng. Để  xác định địa vị của một vị đạo sư, chủ yếu phải dựa trên căn bản phương pháp tu  tập của vị ấy, chứ không dựa vào địa vị trong tông phái.
  Ngoài ra, các danh hiệu Đại đạo sư hay Đại thành tựu giả (Mahasiddha) thật ra cũng có ý nghĩa như Đạo  sư mà thôi. Theo ngữ pháp của tiếng Sanskrit thì từ giống cái của Mahasiddha là Mahsiddh, nhưng các chi tiết ngữ pháp  như thế này không được dịch sang Tạng ngữ.
  Phần phụ lục gồm định nghĩa và chú giải  các Phạn ngữ sử dụng trong tác phẩm. Riêng các từ trong ngoặc vì chỉ sử  dụng một lần nên không được chú giải.
  Bởi vì các vị đạo sư đều dùng tiếng  Phạn (Sanskrit) hoặc thổ ngữ Prakit hay thổ ngữ Apabhramsa nên chúng tôi cho rằng Phạn ngữ là ngôn ngữ thích hợp trong việc mô tả  các thuật ngữ Phật giáo. Tuy nhiên, Tạng ngữ là ngôn ngữ được sử dụng để  ghi lại các truyền thuyết nên người viết cũng chua thêm vào sau các từ Sanskrit đề tiện đối chiếu.
  Các bức phác họa chân dung trong tác phẩm  là do họa sĩ Hugh R. Downs thực hiện, xuất phát từ những cảm hứng khi  ông ta nghiên cứu nền hội họa cổ truyền Tây Tạng mô tả các hành giả tu chứng.  Thông thường, khi tạo mẫu các họa sĩ có những nét vẽ góp ý nhưng phải giữ lại bố  cục của nguyên tác nhằm không làm mất đi ý nghĩa chính hay những nét đặc trưng  của tác phẩm.
  Trong công việc chuyển dịch các đặc điểm  lịch sử, chúng tôi mạn phép mở rộng phạm vi đề tài chứ không chỉ trình bày các  nguyên tắc vật lý siêu hình cố hữu trong khi mô tả hình tượng, do vậy có thể có  những nét vẽ được sửa đổi một cách tinh tế. Việc sửa đổi một vài nét nhỏ trong  hình ảnh của một số các đạo sư là để cho phù hợp với yêu cầu của những hệ phái  đặc biệt thuộc Mật tông. Chúng tôi cũng có một số nét thay đổi trong các  bức họa và phần này là trách nhiệm của họa sĩ Hugh R. Downs.
  Họa sĩ Hugh R. Downs từng theo học  môn hội họa truyền thống Tây Tạng dưới sự hướng dẫn của một nhà sư họa sĩ Du-già là Sherpa Au Lashe. Ông ta có kinh nghiệm trong việc diễn đạt các hình ảnh  được mô tả trong kinh văn Mật tông. Điều này đã được xác nhận qua tác phẩm “Nhịp  điệu làng Hy-mã” (Rhythms of a Hymalayan village), ấn hành năm 1980  tại San Fransisco, Hoa Kỳ.
  Phần trình bày của ông mô tả phong thái  uy nghi nhất của một đạo sư, lại nhấn mạnh vào yếu tố tu tập khổ hạnh, tính thẩm  mỹ và những nét an vui tinh tế trong phong thái của ngài. Phần chú thích bên dưới  các bức minh họa được trích dẫn từ các tác phẩm Tây Tạng nhưng không rõ nguồn gốc  nguyên thủy.
  Tôi mang ơn sự giúp đỡ của nhiều người để  có được những thuận duyên hoàn thành tác phẩm này trong thời gian mười năm, đặc  biệt là món nợ tích lũy nhiều năm đối với các Lạt-ma của tôi. Vì vậy, tất  cả công đức của việc thực hiện quyển sách này tôi xin cung kính hồi hướng đến  quý ngài.
  Tôi cũng vô cùng biết ơn Lạt-ma Kalzang đã giúp tôi trong việc ấn hành tác phẩm, ngài là người ban cho tôi nguồn cảm hứng;  ngài Chatral Rimpoche chủ biên, ngài Dujom Rimpoche đã ban phép  lành cho tác phẩm và cho phép tôi có thẩm quyền dịch thuật, ngài Bhga Tulku truyền  khẩu, các ngài Taklung Rimpoche và Sekusho Chomphel Namgyel đã  giúp tôi dịch những đoạn văn khó và tất cả những ai đã đóng góp phần hiểu biết  về truyền thống của các đạo sư.
  Tôi cũng chân thành cảm ơn Roger Dean, Donald Lehmkuhl, Noel Cobb, Peter Cooper (Ngawong  Tenzin), Peter Hansen quá cố, Georgie Downes, Keith Redman và đặc biệt là Meryl, vợ tôi, về những giúp đỡ thực tiễn, những đóng góp  cả công sức và tiền của cũng như sự yểm trợ tinh thần.
  Tôi cũng cảm tạ Tony Luthenherger, Fred Lane, Stuart Hammil và những người đã giúp tôi có những tiện  nghi sinh hoạt trong lúc di chuyển từ nơi này đến nơi khác, thư viện Mimi  Church về tư liệu các đạo sư.
  Cuối cùng tôi cảm tạ ý kiến đánh giá cao  của Michele Martin về giáo pháp và các phương thức tu tập trong tác phẩm,  cũng như những góp ý quý giá để tác phẩm được ấn hành một cách thuận lợi. Đó  chính là điều biết ơn nhất của tôi.
  KEITH  DOWNMAN 
  Chabahil  Ganeshantan 
  Kathmandu  - Nepal 
  Tháng Chạp – 1984