Những năm cuối đời nhà Đường, thiên hạ rất loạn lạc. Nào Hoàng Sào, nào 
		Lý Khắc Dụng v.v... dấy binh ở Trung Nguyên làm cho sinh linh lầm than 
		khốn khổ, người chết, người bị thương nằm ngổn ngang la liệt, thật là 
		một cảnh tượng thương tâm!
	  Thời ấy, dân chúng vùng Tô Châu, Hàng Châu bị nạn đao binh nhiễu hại nên 
		lúc nào cũng sống trong phập phồng lo sợ. Ở Lâm An (Triết Giang), có một 
		người tên là Tiền Lưu, là một người rất lương thiện chính trực, lại dũng 
		cảm nghĩa khí, tự mình luyện tập võ công thâm hậu, nhìn thấy hoàn cảnh 
		hỗn loạn, nhìn thấy dân chúng của cả vùng Tô Châu, Hàng Châu lúc nào 
		cũng nơm nớp lo sợ, sự an toàn không được bảo đảm, nên rất muốn khởi 
		binh để bảo vệ họ và để bảo toàn an ninh cho toàn vùng Đông Nam, tuy 
		nhiên ông sợ không trù bị được lương thực khí giới, lại sợ việc không 
		thành mà còn bị gán cho tội phạm thượng làm loạn. Vì thế ông do dự mãi 
		không dám quyết định.
	  Một hôm bỗng nhiên ông nằm mộng thấy Bồ Tát Quán Âm nói với ông rằng:
	  – Tiền Lưu, ông đừng lưỡng lự nữa, ông đã có ý muốn bảo toàn an ninh cho 
		dân chúng miền Đông Nam và có tâm muốn cứu dân thoát khỏi cảnh binh lửa, 
		thì đó là một thiện tâm hiếm có. Trời luôn luôn phù hộ người thiện nên 
		sẽ phù hộ cho ông trăm trận trăm thắng, ông hãy mau khởi binh đi!
	  Tiền Lưu bèn đem nỗi lo âu của mình bạch với Bồ Tát, Ngài trả lời:
	  – Ông đừng lo những chuyện đó, đừng rụt rè nhát gan, mà phải biết rằng 
		một người thôi mà cũng có thể có ngàn tay ngàn mắt. Không tin, ông hãy 
		xem ta.
	  Bồ Tát nói xong, Tiền Lưu thấy trước mặt mình là một vùng ánh sáng chói 
		lòa, rồi lại thấy kim thân Bồ Tát ngàn tay ngàn mắt, cao một trượng sáu 
		hiện ra trong vùng ánh sáng ấy. Ngài Quán Âm còn nói thêm để thuyết phục 
		ông:
	  – Tiền Lưu, ông phải biết, nếu vì người khác mà có ngàn tay ngàn mắt thì 
		sẽ lập được sự nghiệp thiên thu. Ông đừng chần chờ nữa, cứ dũng cảm mà 
		ra tay, tính mệnh của sinh tinh toàn vùng Đông Nam nay đã trói buộc vào 
		chỉ một mình ông mà thôi đó! Khởi binh thành công rồi, mong ông quy y 
		tin tưởng Phật Pháp, lấy từ bi làm tôn chỉ để lợi ích cho quần sinh. Nếu 
		được như thế thì hai mươi năm nữa, ông hãy đến núi Thiên Trúc tìm ta.
	  Tiền Lưu tỉnh dậy rồi thì rất kinh ngạc, tự nghĩ rằng:
	  – Bồ Tát đã chỉ dạy, lời Ngài nói chắc chắn không sai. 
	  Thế là ông lập kế khởi binh, chiêu tập các thanh niên tráng kiện dũng 
		cảm trong các xóm làng. Ông còn bảo người vẽ cho ông một tấm tranh Bồ 
		Tát Quán Âm ngàn tay ngàn mắt để treo trong nhà, và kể cho những thanh 
		niên dưới trướng nghe chuyện Bồ Tát Quán Âm đã ứng mộng bảo ông khởi 
		binh bảo vệ an ninh cho dân chúng ở miền Đông Nam.
	  Nghe nói chính Bồ Tát Quán Âm đã chỉ dạy, có Bồ Tát Quán Âm phù hộ, 
		người nào cũng phấn khởi và can đảm lên, tin tưởng bội phần, tham gia 
		nườm nượp, chẳng bao lâu đã tổ chức thành một đoàn quân hùng hậu. Dưới 
		sự chỉ huy của Tiền Lưu, quả nhiên đoàn quân hùng hậu này đánh tới đâu 
		thắng tới đó, lập kỳ công dồn dập, bảo vệ được nửa dải giang sơn miền 
		Đông Nam và mang lại cảnh thái bình an lạc cho trăm họ. Từ Thái thú Tô 
		Châu, Tiền Lưu đã lên ngôi Ngô Việt Vương, danh tiếng truyền đến ngàn 
		đời.
	  Tiền Lưu vẫn khắc ghi trong lòng lời dặn dò của Bồ Tát Quán Âm, tin kính 
		Phật thuần thành, một lòng hướng thiện, thương yêu bảo bọc dân như con 
		ruột, biến vùng Tô Châu Hàng Châu thành một dải đất phồn vinh thịnh 
		vượng, trăm họ an cư lạc nghiệp.
	  Hai mươi năm sau, Tiền Lưu nhớ đến lời dặn của Bồ Tát phải lên núi Thiên 
		Trúc tìm, bèn lên đó cố gắng tìm kiếm khắp nơi, nhưng biết Bồ Tát Quán 
		Âm sẽ hiển thánh ở nơi nào? Tìm tới tìm lui, đột nhiên ông nhìn thấy 
		trước mắt, trên một tảng đá cao, có một vị tăng đang ngồi ngay ngắn chăm 
		chú đọc một quyển kinh trong tay.
	  Tin chắc rằng đây chính là Bồ Tát hóa thân, ông vội vàng đến trước mặt 
		vị tăng nhân sụp xuống lạy, bạch rằng:
	  – Bồ Tát trên cao, trong hai mươi năm qua đệ tử đã tuân lời giáo huấn 
		của Bồ Tát, khởi binh dẹp loạn, tạo được công nghiệp. Nay dải đất Đông 
		Nam đã bình an, cuộc thế bắt đầu ổn định. Đệ tử đã mệt mỏi với cảnh phồn 
		hoa thế tục, quyết tâm nương cửa Phật, kính mong Bồ Tát phương tiện thâu 
		nạp đệ tử.
	  Vị tăng nhân kia vội bỏ cuốn kinh trong tay xuống, đỡ Tiền Lưu dậy, cung 
		kính trả lễ mà rằng:
	  – Đại vương, tôi không phải là Bồ Tát, ngài đã nhận lầm rồi. Bần tăng 
		tên là Nhất Không, hành cước lên núi đi ngang qua đây, đã gặp được Bồ 
		Tát tại đây, cũng chính Bồ Tát dạy tôi phải ở đây chờ đợi Đại Vương.
	  Tiền Lưu mừng rỡ hỏi:
	  – Bồ Tát đã đến thật rồi, vậy Bồ Tát đã dạy những gì?
	  Vị tăng nhân đáp:
	  – Hôm ấy ở đây cũng có một vị tăng nhân ngồi trên tảng đá này xem kinh. 
		Lúc ấy tôi không biết đó là Bồ Tát, đến hỏi thăm Ngài, thì Ngài bảo có 
		nhân duyên với bần tăng, muốn đem kinh “Đại Bi Tâm Đà La Ni” và kinh 
		“Đại Bi” truyền trao cho bần tăng. 
	  Ngài lại bảo hôm nay Đại vương sẽ đến nơi này, dạy bần tăng phải ở đây 
		chờ đợi, nếu gặp Đại vương thì phải chuyển lời của Ngài cho Đại vương 
		như sau: “Đại vương đã công thành danh toại, trăm họ tôn kính, nếu như 
		Đại vương có thể hoằng dương Phật Pháp thì ảnh hưởng sẽ rất lớn, mong 
		Đại vương tạo thêm công đức từ nay.” 
	  Hiện thời Bồ Tát sẽ không thâu nạp ngài vì chưa phải là lúc Đại vương 
		nương thân cửa Phật. Trong tương lai, khi cơ duyên đầy đủ thì Bồ Tát sẽ 
		đến độ ngài. 
	  Lúc đó bần tăng mới biết là được gặp Bồ Tát, vội vàng khấu đầu lễ bái 
		nhưng Bồ Tát đã ẩn thân rồi. Vì thế bần tăng vâng lời dạy của Bồ Tát, 
		cung kính ở đây chờ Đại vương đến.
	  Tiền Lưu nghe thế, vui mừng không bút nào kể xiết.
	  – Bồ Tát đã quan tâm đến đệ tử như thế, lại một lần nữa chỉ bày đường đi 
		nước bước, đệ thử thật là tri ân vô tận. Bồ Tát đã chỉ dạy rồi thì tôi 
		sẽ tuân mệnh của Ngài và quyết tâm hoằng dương Phật Pháp một cách sâu 
		rộng. Nhất Không đại sư, đại sư và tôi gặp nhau nơi đây thì đó cũng là 
		nhân duyên giữa hai chúng ta. Để kỷ niệm Bồ Tát thị hiện trên núi này, 
		tôi muốn lập một cái Am Xem Kinh ở đây. Tôi muốn thỉnh đại sư trụ trì am 
		này, không biết đại sư có đồng ý hay không? Nếu đại sư đồng ý, kính xin 
		đại sư ở lại nơi đây.
	  Pháp Sư Nhất Không nói:
	  – Đại vương tuân lời chỉ dạy của Bồ Tát mà hoằng dương Phật Pháp, muốn 
		bần tăng trụ trì đại nghiệp thiên thu này, thật là một vinh hạnh lớn cho 
		bần tăng, vậy bần tăng quyết sẽ giúp sức cho đại sư.
	  Ngô Việt Vương Tiền Lưu trở về Lâm An, không lâu sau, hạ lệnh xuất ra 
		một khoản tiền, kêu gọi thợ đến núi Thiên Trúc xây một cái am trì kinh 
		ngay chỗ mà Bồ Tát đã hiển thánh, dưới sự điều khiển của Pháp sư Nhất 
		Không. Vài tháng sau, một cái am hùng vĩ tráng lệ được dựng lên một cách 
		đồ sộ. 
	  Trong am có pháp tượng trang nghiêm của Bồ Tát Quán Âm ngồi xếp bằng xem 
		kinh, tòa sen của Ngài là lấy tảng đá trắng chỗ Ngài đã từng ngồi lên mà 
		khắc thành. Đó là tượng “Trì Kinh Quán Âm”, hay còn được gọi là “Độc 
		Kinh Quán Âm”.
	  Ngoài việc xây “Am Xem Kinh” nói trên, Ngô Việt Vương Tiền Lưu còn hoằng 
		dương Phật Pháp một cách rộng rãi ở vùng Tô Châu, Hàng Châu, đâu đâu 
		cũng trùng tu lại các chùa chiền lớn nhỏ, tính ra cũng hơn trăm cái.
	  Dân chúng nhờ ông bảo bọc mà được sống cảnh an cư lạc nghiệp nên rất ủng 
		hộ và yêu mến ông. Ngô Việt Vương tin Phật nên trăm họ ai ai cũng tin 
		Phật, vì thế ở vùng Tô Châu, Hàng Châu tỷ số Phật tử cao hơn những chỗ 
		khác. Phật giáo hưng thịnh ở Tô Châu, Hàng Châu chính là bắt đầu từ cuối 
		đời Đường vậy.