Một trăm năm sau khi đức Phật nhật Niết-bàn, vị vua trị vì nước Ấn Độ 
		tên là A Dục. Vua A Dục tính tình vô cùng tàn bạo, thích tự tay giết 
		người, và lấy chuyện giết người làm niềm vui.
	  Ngày nào vua A Dục cũng phải giết người mới vui, ban đầu ông chỉ giết 
		những tội phạm trong tù, về sau số tội nhân không còn bao nhiêu và cuối 
		cùng, không còn ai cho ông giết nữa. Nhưng ông lại quen thói giết người 
		rồi, nên phải quay sang bắt người vô tội đem ra giết. 
	  Vua quen giết người nên thấy đó là chuyện thường, nhưng dân chúng thì sợ 
		hãi đến cực độ. Có một vị đại thần thấy thế không chịu đựng được nữa nên 
		đã dâng kiến nghị lên tâu rằng:
	  – Đại vương, mỗi ngày đại vương lấy việc tự tay giết người làm trò vui, 
		nhưng ảnh hưởng của việc này đối với nhân tâm hiện tại đã không tốt, đối 
		với hậu thế cũng không tốt. Nếu đại vương thích chuyện giết chóc, chúng 
		thần có thể tìm một người hiếu sát làm chuyện ấy thay thế cho đại vương, 
		để đại vương khỏi bị mang tiếng sát nhân, chẳng hay đại vương thấy thế 
		nào?
	  Vua A Dục thấy giải pháp này rất hay nên chấp thuận, bảo họ đi tìm một 
		người như thế. Các vị đại thần đi tìm khắp nơi một kẻ khát máu về làm 
		đao phủ thủ, nhưng không ai bằng lòng nhận lãnh làm việc này. 
	  Về sau, tại một địa phương hẻo lánh, họ tìm được một người tên là Kỳ Lệ, 
		đây là một người tính tình cực kỳ hung ác bạo ngược, tàn khốc không ai 
		bì kịp.
	  Người này sinh sống bằng nghề săn thú, chuyên môn dùng tên độc bắn chết 
		thú vật, lại còn thích giết người, nên ai ai cũng xa lánh chẳng dám đến 
		gần. Kỳ Lệ đến thành Hoa Thị là thủ đô của vua A Dục, vua gặp người sắp 
		thay thế mình thì rất hài lòng. 
	  Kỳ Lệ xin vua A Dục xây cho mình một tòa nhà thật lớn dùng làm pháp 
		trường, trong đó bày biện đủ các thứ khí cụ để giết người. Trong pháp 
		trường, họ còn đặt ra các phương pháp khác nhau để tra tấn giết chóc, và 
		quyết định rằng hễ có người đặt chân vào tòa nhà này rồi thì không có 
		ngày trở ra, vì thế tòa nhà này có tên là “địa ngục nhân gian”.
	  Tại một vùng duyên hải, có một cặp vợ chồng sinh được một đứa con trai, 
		vì họ sống ở ven biển nên đặt tên cho con là Vị Hải.
	  Về sau nhà này bị giặc cướp tấn công, hai vợ chồng chẳng may mất mạng, 
		chỉ còn lại Vị Hải tuổi còn nhỏ mà đã mất cả cha lẫn mẹ, không biết làm 
		sao mà sống. May có một vị tỳ-kheo đi ngang chỗ ấy, thấy thế bèn đem Vị 
		Hải về cho xuất gia.
	  Vị Hải theo sư phụ xuất gia làm sa-di, rất ngoan ngoãn tinh tiến tu 
		hành. Một hôm, chú đến thành Hoa Thị khất thực, thấy một tòa nhà cao 
		lớn, muốn khất thực hóa duyên nên mới tiến vào bên trong. Chú không thấy 
		bóng dáng một người nào mà chỉ thấy hai bên bày biện những khí cụ giết 
		người rất ghê rợn, chú lấy làm quái dị, vội vàng tìm đường thối lui, 
		nhưng bỗng nhiên người giữ cửa tiến tới cản đường:
	  – Ê! Chú sa-di kia! Chú không biết quy luật ở đây sao? Tòa nhà này có 
		tên là Địa ngục nhân gian, do Đại vương Vô Ưu
[12] 
	  sai chủ nhân của ta là ông Kỳ Lệ về đây trấn thủ. Ai vào đây rồi đều 
		không được trở ra nữa!
	  Lúc ấy Kỳ Lệ nghe có tiếng người cũng bước ra, ngăn không cho Vị Hải tìm 
		đường trốn thoát:
	  – Số của mi xui xẻo, thôi thì hãy ngoan ngoãn chờ chết đi!
	  Vị Hải biết rằng lý luận với những kẻ không còn nhân tính này không ích 
		lợi gì, nên nói:
	  – Tôi không hề sợ chết, nhưng nghĩ mình tu hành chưa chứng được quả vị, 
		thật là đáng tiếc. Bây giờ tôi chỉ xin các ông kỳ hạn cho tôi một tháng 
		nữa thôi, cho phép tôi gia công tu hành, sau đó tôi sẽ để cho các ông 
		tùy ý xử tử.
	  – Xin gia hạn ngày chết, mi thật là vọng tưởng! Nhưng thôi được, ta niệm 
		tình mi nhỏ tuổi, nhưng một tháng lâu quá. Ta chỉ gia hạn cho mi bảy 
		ngày nữa thôi!
	  Vị Hải chỉ còn có bảy ngày nữa để sống, chú bèn lui vào một góc nhà gia 
		công tu hành, hy vọng trong thời hạn bảy ngày ngắn ngủi đó có thể giác 
		ngộ và chứng quả.
	  Nhưng giác ngộ chứng quả không phải là chuyện dễ dàng, mà thời gian thì 
		cứ thế mà từng ngày từng ngày trôi qua. Hôm nay đã qua tới ngày thứ bảy 
		rồi, Vị Hải chỉ còn có ngày hôm nay để sống nữa thôi, ngày mai sẽ phải 
		chịu xử tử hình. Thế mà hiện bây giờ vọng niệm còn rối bời trong tâm 
		chú, còn giác ngộ và chứng quả thì chẳng thấy tăm hơi đâu cả!
	  Chiều tối đến, “địa ngục nhân gian” có thêm một người khách, đó là một 
		thiếu nữ bị kết tội không trinh tiết.
	  Vị Hải nhìn thấy tên Kỳ Lệ lòng lang dạ thú dùng chùy sắt đập vào đầu, 
		vào mặt cô gái, cô gái bị đánh đến lòi cả mắt ra ngoài. Bỗng nhiên chú 
		khởi tâm thương xót, và đối với thế gian thì lại khởi tâm yếm ly muốn xả 
		bỏ. Chú chợt nhớ lại lời dạy của đức Phật “sắc thân con người do ngũ ấm 
		hợp thành, rất mong manh và không có thật”. Chú nhìn lại cô thiếu nữ nọ, 
		bị đánh thêm một cái nữa là trong khoảnh khắc hồn lìa khỏi xác.
	  Thân người thì không có gì chắc chắn, thế gian thì đầy khổ não, nếu 
		không phải là một thánh nhân giải thoát thì không có cách nào tránh khỏi 
		khổ đau. Vị Hải lại nỗ lực quan sát thêm nữa, đêm càng lúc càng đen 
		nhưng tâm của chú thì càng lúc càng sáng. Chú chứng được sơ quả Tu Đà 
		Hoàn, gia công tinh tiến thêm, chứng được nhị quả, tam quả và cuối cùng 
		thành tựu được đại quả A-la-hán. Lúc đó, bình mình của ngày thứ tám đã 
		bắt đầu ló dạng. 
	  Kỳ Lệ bước tới trước mặt Vị Hải nói:
	  – Bảy ngày đã qua rồi, hôm nay là ngày thứ tám, mi hãy chuẩn bị chờ 
		chết.
	  Vị Hải trả lời rất điềm nhiên:
	  – Tốt lắm! Tốt lắm! Đêm đen của ta đã qua, ánh sáng của ta đã đến. Ngày 
		tốt đến rồi thì ông cứ việc tùy ý mà xử tử!
	  Kỳ Lệ ném Vị Hải vào trong một cái nồi bằng đồng, trong lòng nồi chứa 
		đầy nước phân, nước tiểu dơ bẩn, phía dưới thì đốt củi khô. Lửa cháy đỏ 
		hừng hực, ánh lửa rực lên một góc trời. Lửa đốt thật lâu nhưng nước cứ 
		tiếp tục lạnh ngắt, cả cái nồi đồng cũng chẳng nóng lên chút nào. 
	  Kỳ Lệ cho châm thêm lửa mà vẫn chẳng thấy nhiệt độ tăng lên, hắn nổi cáu 
		quát tháo người châm lửa là đồ vô dụng, rồi tự tay ném thêm vào lò rất 
		nhiều củi gỗ, và còn thêm than và dầu. Lửa bùng to hơn, nhưng nước trong 
		nồi vẫn mát rượi. Hắn đưa mắt nhìn xem Vị Hải đã chết chưa, thì thật là 
		không thể tưởng tượng được! Nước dơ bẩn ô uế kia đã biến thành thanh 
		tịnh từ bao giờ, trên mặt nước còn nổi lên những đóa hoa sen, còn Vị Hải 
		thì ngồi kết già trên một đóa sen ngàn cánh. 
	  Bốn phía rực lên ánh sáng rực rỡ, nhưng không phải là một thứ ánh sáng 
		tầm thường, mà là ánh sáng màu hoàng kim làm chói mắt người nhìn. Tên Kỳ 
		Lệ hung ác ấy không biết phải làm gì hơn là đem chuyện này lên tâu với 
		vua A Dục.
	  Vua A Dục nghe chuyện, thấy đây là một sự kiện kỳ lạ nên đem thật nhiều 
		đại thần tùy tùng đến xem thực hư ra sao. Thấy sự thật rồi, vua A Dục 
		bỗng khởi lên một lòng tôn kính hy hữu, quỳ xuống đất xấu hổ mà nói:
	  – Đại Đức! Xin hãy tha thứ cho bọn chúng con dốt nát, bây giờ được thấy 
		ngài như thế này con rất là xấu hổ! Tất cả những thứ này đều do con gây 
		tội, xin ngài từ bi tha thứ cho chúng con, cứu độ cho tất cả chúng con!
	  Vị Hải nói:
	  – Tốt lắm! Tốt lắm! Lúc đức Phật còn tại thế đã thọ ký cho ông rồi! Đức 
		Phật có nói, một trăm năm sau khi Ngài nhập diệt, sẽ có một vị vua tên A 
		Dục là đại hộ pháp của Phật giáo, truyền bá pháp âm và dựng tháp, tạo 
		phúc.
	  Vua A Dục nghe nói cách đây một trăm năm mà đức Phật đã biết sẽ có mình 
		rồi, lại càng tăng thêm lòng tin, và xin quy y Tam Bảo. Bao nhiêu tâm ý 
		ác độc đã tan biến hết, vua A Dục biết sám hối một cách chân thành nên 
		được cứu độ.
	  Vị Hải rất vui mừng vì đã làm được một việc công đức cho chúng sinh, vua 
		A Dục cũng rất vui mừng vì đã tìm được chỗ quy y chân chính. Lúc vua A 
		Dục lên tiếng thỉnh Vị Hải về cung với mình thì tên Kỳ Lệ bạo tàn, thấy 
		vua A Dục sửa soạn lui về thành vội vàng tiến lên cản đường:
	  – Đại vương! Chính ngài là người đưa ra quy luật là chỗ này chỉ có thể 
		vào chứ không thể ra. Bây giờ ngài cũng không được phép đi ra, xin ngài 
		ở lại chịu tội.
	  Vua A Dục nghe thế giật mình kinh hoàng, nhưng ông tự trấn tĩnh lại 
		ngay, hỏi rằng:
	  – Mi là người vào đây trước, hay ta là người tới trước?
	  – Thần là người vào đây trước!
	  – Nếu mi là người vào đây trước thì mi sẽ bị trị tội trước!
	  Đám đại thần tùy tùng của vua bèn tóm ngay Kỳ Lệ ném vào lửa cho chết 
		cháy, và dở tháo, hủy diệt luôn căn nhà “địa ngục nhân gian” ấy.
	  Từ đó trở đi, vua A Dục dùng chính sách nhân từ trị dân, dựng tháp cúng 
		dường, gieo rắc Pháp Phật ở nước ngoài, dân chúng do đó được sống những 
		chuỗi ngày an lạc.
	  Sám hối là con đường đưa đến sự cứu độ. Người bằng lòng sám hối là người 
		được sống một cuộc đời mới. Như vua A Dục vốn là một người hung ác, thế 
		mà chịu sám hối sửa lỗi, trong một niệm đã trở thành một người thiện 
		lành.
	  Sửa lỗi và sám hối thật là một pháp môn đại công đức, đáng tôn quý lắm 
		vậy!