Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh [地藏菩薩本願經] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh [地藏菩薩本願經] »» Bản Việt dịch quyển số 1

» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Việt dịch (2) » Việt dịch (3) » English version (1) » English version (2) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.7 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.77 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@rongmotamhon.net
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 |
Việt dịch: Nguyên Thuận

Đại Tạng Kinh Việt Nam
(Download file MP3 -34.69Mb
Font chữ:


PHẨM 1: THẦN THÔNG TẠI CUNG TRỜI TAM THẬP TAM

TÔI NGHE NHƯ VẦY:
Một thuở nọ, Đức Phật lên Cung trời Tam Thập Tam để thuyết Pháp cho mẫu thân.
Lúc bấy giờ, bất khả thuyết bất khả thuyết, tất cả chư Phật cùng chư đại Bồ-tát từ vô lượng thế giới trong mười phương đều đến hội họp và tán thán Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni có thể ở đời ác năm trược, mà hiện sức đại trí tuệ thần thông chẳng thể nghĩ bàn để điều phục chúng sanh cang cường, khiến cho họ biết pháp nào khổ, pháp nào vui. Sau đó, mỗi vị đều sai thị giả đến vấn an Thế Tôn.
Khi ấy Đức Như Lai mỉm cười và phóng ra tỷ ức vầng mây hào quang lớn.
Như là:
- vầng mây hào quang đại viên mãn,
- vầng mây hào quang đại từ bi,
- vầng mây hào quang đại trí tuệ,
- vầng mây hào quang Đại Trí Độ,
- vầng mây hào quang đại chánh định,
- vầng mây hào quang đại cát tường,
- vầng mây hào quang đại phước đức,
- vầng mây hào quang đại công đức,
- vầng mây hào quang đại quy y,
- vầng mây hào quang đại tán thán.
Sau khi phóng ra bất khả thuyết vầng mây hào quang như thế, Ngài lại phát ra muôn loại âm thanh vi diệu.
Như là:
- tiếng Bố Thí Độ,
- tiếng Trì Giới Độ,
- tiếng Nhẫn Nhục Độ,
- tiếng Tinh Tấn Độ,
- tiếng Thiền Định Độ,
- tiếng Trí Tuệ Độ;
- tiếng từ bi,
- tiếng hỷ xả,
- tiếng giải thoát,
- tiếng vô lậu,
- tiếng trí tuệ,
- tiếng trí tuệ lớn,
- tiếng sư tử hống,
- tiếng sư tử hống lớn,
- tiếng mây sấm,
- tiếng mây sấm lớn.
Sau khi phát ra bất khả thuyết bất khả thuyết âm thanh như thế, có vô lượng ức thiên long quỷ thần từ Thế giới Kham Nhẫn và các cõi nước phương khác cũng đến tụ tập tại Cung trời Tam Thập Tam.
Như là:
- trời Tứ Thiên Vương,
- trời Tam Thập Tam,
- trời Thiện Thời,
- trời Hỷ Túc,
- trời Hóa Lạc,
- trời Tha Hóa Tự Tại;
- trời Phạm Chúng,
- trời Phạm Phụ,
- trời Đại Phạm;
- trời Thiểu Quang,
- trời Vô Lượng Quang,
- trời Quang Âm;
- trời Thiểu Tịnh,
- trời Vô Lượng Tịnh,
- trời Biến Tịnh;
- trời Phước Sanh,
- trời Phước Ái,
- trời Quảng Quả,
- trời Vô Tưởng,
- trời Vô Phiền,
- trời Vô Nhiệt,
- trời Thiện Kiến,
- trời Thiện Hiện,
- trời Sắc Cứu Cánh,
- trời Đại Tự Tại;
- Cho đến trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ;
Tất cả thiên chúng, long chúng, và các chúng quỷ thần đều đến hội họp.
Lại có những vị thần ở cõi nước phương khác cùng Thế giới Kham Nhẫn.
Như là:
- thần biển,
- thần sông,
- thần kênh rạch,
- thần cây,
- thần núi,
- thần đất,
- thần ao suối,
- thần lúa mạ hạt giống,
- thần ngày,
- thần đêm,
- thần hư không,
- thần trên trời,
- thần ăn uống,
- thần thảo mộc.
Các vị thần như thế đều đến hội họp.
Lại có những đại quỷ vương ở cõi nước phương khác cùng Thế giới Kham Nhẫn.
Như là:
- Ác Mục Quỷ Vương,
- Đạm Huyết Quỷ Vương,
- Đạm Tinh Khí Quỷ Vương,
- Đạm Thai Noãn Quỷ Vương,
- Hành Bệnh Quỷ Vương,
- Nhiếp Độc Quỷ Vương,
- Từ Tâm Quỷ Vương,
- Phước Lợi Quỷ Vương,
- Đại Ái Kính Quỷ Vương.
Các vị quỷ vương như thế đều đến hội họp.


Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni bảo Diệu Cát Tường Pháp Vương Tử Đại Bồ-tát rằng:
"Ông hãy quán sát hết thảy chư Phật Bồ-tát cùng thiên long quỷ thần ở thế giới này, thế giới khác, quốc độ này, quốc độ khác, nay đã đến hội họp tại Cung trời Tam Thập Tam như thế. Ông biết số ấy là bao nhiêu chăng?"
Ngài Diệu Cát Tường bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Dù con dùng thần lực tính đếm trong ngàn kiếp thì cũng không thể biết được."
Phật bảo ngài Diệu Cát Tường:
"Cho dù Ta dùng Phật nhãn để quán sát mà vẫn còn không tính xuể. Đây đều là do Địa Tạng Bồ-tát từ kiếp xa xưa đến nay đã độ, đang độ, sẽ độ, đã thành tựu, đang thành tựu, hoặc sẽ thành tựu."
Ngài Diệu Cát Tường bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Từ thuở quá khứ xa xưa, con đã tu thiện căn và chứng đắc trí tuệ vô ngại. Khi nghe Phật nói, con lập tức tín thọ. Còn hàng tiểu Quả Thanh Văn, thiên long bát bộ cùng những chúng sanh ở đời vị lai, tuy nghe lời thành thật của Như Lai, nhưng chắc chắn sẽ sanh lòng hoài nghi. Cho dù họ có lễ kính và thọ trì đi nữa, nhưng vẫn không tránh khỏi việc phỉ báng.
Kính mong Thế Tôn hãy rộng nói về lúc ở Nhân Địa, Địa Tạng Đại Bồ-tát đã tu hạnh gì và lập nguyện gì mà có thể thành tựu những việc chẳng thể nghĩ bàn?"
Phật bảo ngài Diệu Cát Tường:
"Ví như mỗi cỏ cây, lùm rừng, lúa gai, trúc lau, núi, đá, và vi trần trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, mỗi vật làm thành một sông Hằng. Rồi mỗi hạt cát trong mỗi sông Hằng làm thành một thế giới, và mỗi vi trần trong mỗi thế giới đó làm thành một kiếp. Rồi mỗi vi trần chứa trong mỗi kiếp ấy làm hết thành một kiếp nữa. Thời gian Địa Tạng Bồ-tát đã chứng Địa Thứ Mười đến nay còn gấp ngàn lần nhiều hơn số thí dụ trên. Hà huống là khi Địa Tạng Bồ-tát còn đang ở bậc Thanh Văn và Độc Giác.
Này Diệu Cát Tường! Uy thần và thệ nguyện của vị Bồ-tát đó không thể nghĩ bàn. Vào đời vị lai, nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào nghe được danh hiệu của vị Bồ-tát này, rồi tán thán, chiêm ngưỡng, đảnh lễ, hoặc xưng danh hiệu, hay cúng dường, cho đến tô vẽ, khắc chạm, đắp sơn hình tượng, thì người ấy sẽ được sanh lên trời Tam Thập Tam 100 lần và vĩnh viễn không đọa đường ác.

Này Diệu Cát Tường! Vào thuở quá khứ xa xưa bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp về trước, Địa Tạng Đại Bồ-tát này đây là con trai của một ông đại trưởng giả. Lúc ấy có một Đức Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai. Khi thấy tướng hảo với ngàn phước trang nghiêm của Phật, trưởng giả tử hỏi Đức Phật kia đã tu hạnh nguyện gì mà được tướng hảo đó.
Lúc ấy Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai bảo trưởng giả tử rằng:
'Nếu muốn chứng được thân tướng này thì phải trải qua một thời gian lâu dài để độ thoát hết thảy chúng sanh thọ khổ.'
Này Diệu Cát Tường! Lúc đó, trưởng giả tử do nhân ấy mà phát nguyện rằng:
'Từ nay cho đến hết vị lai không thể tính kể số kiếp, con sẽ vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà rộng thiết lập phương tiện, khiến cho họ thảy đều giải thoát, rồi sau đó con mới tự mình thành Phật Đạo.'
Từ khi lập đại nguyện ở trước Đức Phật kia đến nay đã trải qua tỷ ức nayuta bất khả thuyết kiếp mà ngài vẫn còn làm một vị Bồ-tát.

Lại vào thuở quá khứ vô số kiếp chẳng thể nghĩ bàn, lúc ấy trong đời có Đức Phật, hiệu là Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Thọ mạng của Đức Phật kia là bốn tỷ ức vô số kiếp.
Trong thời Tượng Pháp có một người con gái thuộc dòng dõi Phạm Chí và nhiều đời tích phước sâu dày, mọi người đều kính mến, và đi đứng nằm ngồi có chư thiên hộ vệ. Tuy nhiên, người mẹ của cô lại tin theo tà đạo và thường khinh chê Tam Bảo.
Thuở ấy thánh nữ dùng đủ mọi phương tiện để khuyến dụ mẫu thân, hầu khiến cho bà sanh chánh kiến. Thế nhưng, mẹ của cô chưa hoàn toàn tin hẳn thì chẳng bao lâu mạng chung và thần hồn đọa Địa ngục Vô Gián.
Khi ấy, Phạm Chí nữ biết mẹ khi còn sống không tin nhân quả, nên chắc phải theo nghiệp mà sanh vào đường ác. Và thế là, cô bán nhà cửa và mua nhiều hương hoa với những đồ lễ cúng, rồi làm đại cúng dường ở trước các tháp tự của Phật. Trong một ngôi chùa kia, cô trông thấy hình tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai được đắp vẽ uy dung và đoan nghiêm.
Khi đó, Phạm Chí nữ chiêm ngưỡng và đảnh lễ Tôn dung, cô sanh tâm kính ngưỡng bội phần, rồi tự nghĩ thầm:
'Đức Phật gọi là bậc Đại Giác và đầy đủ tất cả trí tuệ. Nếu Ngài còn tại thế, thì sau khi mẹ mình mất, giả như mình đến thưa hỏi Phật, tất sẽ biết được nơi mẹ đã thác sanh.'
Khi đó, Phạm Chí nữ mủi lòng khóc hồi lâu và chiêm ngưỡng quyến luyến Như Lai.
Bỗng nhiên cô nghe trên không trung có tiếng bảo rằng:
'Này thánh nữ đang khóc kia, thôi đừng quá bi ai! Ta nay sẽ chỉ cho biết chỗ thác sanh của mẹ con.'
Phạm Chí nữ chắp tay và hướng lên không trung mà bạch rằng:
'Chẳng hay đức thần nào đã giải vơi lòng âu lo của tôi như thế? Từ khi mẫu thân của tôi mất đến nay, tôi ngày đêm thương nhớ, song vẫn không biết đâu để hỏi cho rõ nơi cõi giới mà mẹ tôi đã sanh về.'
Bấy giờ trên không trung lại có tiếng bảo thánh nữ:
'Ta là Đức Phật quá khứ Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà con đang chiêm ngưỡng và đảnh lễ. Bởi thấy con thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sanh nên Ta đến chỉ bảo.'
Khi nghe tiếng ấy xong, Phạm Chí nữ liền nhảy choàng lên nên té xuống và khiến cho các khớp tay chân đều tổn thương; những người bên cạnh liền đỡ thánh nữ lên.
Một hồi lâu sau cô mới tỉnh dậy và thưa với hư không rằng:
'Cúi mong Đức Phật từ bi thương xót, xin hãy mau nói cho con biết chỗ thác sanh của mẹ con. Nay thân tâm của con sắp chết mất.'
Khi ấy Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai bảo thánh nữ rằng:
'Sau khi cúng dường xong, con hãy sớm trở về nhà, rồi ngồi ngay thẳng và tư duy đến danh hiệu của Ta, thời sẽ liền biết chỗ thác sanh của mẹ con.'
Sau khi lễ Phật xong, Phạm Chí nữ lập tức trở về nhà.
Vì thương nhớ mẹ nên thánh nữ ngồi ngay thẳng và niệm danh hiệu của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Trải qua suốt một ngày một đêm, hốt nhiên cô chợt thấy mình đến một bờ biển. Nước trong biển đó sôi sùng sục và có nhiều thú dữ toàn thân bằng sắt. Chúng bay qua chạy lại và rong đuổi trên biển. Cô trông thấy hàng tỷ kẻ nam người nữ chìm nổi trong biển và bị các thú dữ tranh nhau bắt ăn thịt.
Cô lại thấy quỷ tiệp tật với nhiều hình thù khác nhau. Hoặc nhiều tay, nhiều chân, nhiều đầu, nhiều mắt, miệng răng chìa ra ngoài, bén nhọn như kiếm. Chúng lùa đuổi các tội nhân đến gần thú dữ, hay tự chúng chụp lấy và bẻ đầu cuộn chân thành muôn loại hình tướng đến chẳng dám nhìn lâu.
Khi đó, Phạm Chí nữ do sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ.
Lúc ấy có một quỷ vương đi đến, tên là Vô Độc, cúi đầu nghênh tiếp và bạch thánh nữ rằng:
'Lành thay, Bồ tát! Do duyên sự gì mà ngài đến chốn này?'
Phạm Chí nữ liền hỏi quỷ vương rằng:
'Đây là nơi nào?'
Vô Độc đáp rằng:
'Nơi này là núi Đại Thiết Vi, ở phía tây của tầng biển thứ nhất.'
Thánh nữ hỏi rằng:
'Tôi nghe nói trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có thật chăng?'
Vô Độc đáp rằng:
'Thật có địa ngục!'
Thánh nữ hỏi rằng:
'Nay tôi làm thế nào mà đến được chốn địa ngục?'
Vô Độc đáp rằng:
'Nếu không phải do sức uy thần, thì phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều này, quyết không có cách nào khác đến được.'
Thánh nữ lại hỏi rằng:
'Vì nhân duyên gì mà nước ở đây sôi sùng sục và có nhiều người tội cùng các thú dữ như thế?'
Vô Độc đáp rằng:
'Đây là những chúng sanh làm ác ở châu Thắng Kim vừa mới chết. Bởi vì đã hơn 49 ngày mà không có ai kế tự để làm công đức, hầu cứu vớt khổ nạn cho họ. Lúc sanh thời, họ lại không làm được nhân lành nào hết. Cho nên bây giờ họ cứ theo bổn nghiệp mà chiêu cảm địa ngục. Tự nhiên, họ phải đi qua biển này trước.
Về phía đông của biển này 100.000 yojana, lại có một cái biển. Những sự thống khổ ở đó còn gấp bội chốn này. Phía đông của biển ấy, lại có một cái biển nữa. Những sự thống khổ ở đó càng trội hơn.
Do nhân làm ác của ba nghiệp mà chiêu cảm và gọi chung là biển nghiệp, chính là chốn này vậy!'
Thánh nữ lại hỏi Vô Độc Quỷ Vương:
'Thế còn địa ngục ở đâu?'
Vô Độc đáp rằng:
'Ở trong ba cái biển ấy đều là đại địa ngục. Chúng nhiều đến số trăm ngàn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thì có 18, bậc kế có 500, tất cả đều hết sức thống khổ và độc ác khôn lường. Bậc kế nữa có đến ngàn trăm và cũng thống khổ vô lượng.'
Thánh nữ lại hỏi đại quỷ vương:
'Thân mẫu tôi mới mất gần đây, nhưng tôi không biết thần hồn của bà ấy đã đi về đâu.'
Quỷ vương hỏi thánh nữ:
'Thân mẫu của Bồ-tát khi còn sống quen làm những nghiệp gì?'
Thánh nữ đáp rằng:
'Thân mẫu tôi tà kiến và khinh chê Tam Bảo. Hoặc có lúc tạm tin nhưng rồi chẳng kính. Mặc dầu mới mất đây, song tôi vẫn không biết nơi bà ấy đã sanh về?'
Vô Độc hỏi rằng:
'Thân mẫu của Bồ-tát tên họ là gì?'
Thánh nữ đáp rằng:
'Thân phụ và thân mẫu tôi đều thuộc dòng dõi Phạm Chí. Thân phụ tôi tên là Śīla Thiện Hiện, còn thân mẫu tên là Duyệt-đế-lợi.'
Vô Độc chắp tay và thưa với Bồ-tát rằng:
'Xin Thánh giả hãy trở về bổn xứ và chớ thương nhớ lưu luyến. Tội nữ Duyệt-đế-lợi sanh lên trời đến nay đã ba ngày rồi. Nghe nói nhờ có con hiếu thuận, vì mẹ mà cúng dường tu phước và bố thí chùa tháp thờ Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Chẳng phải chỉ thân mẫu của Bồ-tát được thoát khỏi địa ngục, mà trong ngày đó, các tội nhân vô gián cũng được an lạc và thảy đồng vãng sanh.'
Khi nói xong, quỷ vương chắp tay rồi cáo lui.
Như mộng chợt tỉnh, Phạm Chí nữ biết rõ việc đã xảy ra, và liền ở trước tháp tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà lập hoằng thệ nguyện:
'Từ nay cho đến tận kiếp ở vị lai, con nguyện sẽ vì những chúng sanh tội khổ mà dùng đủ mọi phương tiện để khiến họ đều được giải thoát.'"
Phật bảo ngài Diệu Cát Tường:
"Vô Độc Quỷ Vương thuở đó, nay chính là Tài Thủ Bồ-tát; còn Phạm Chí nữ, nay là Địa Tạng Bồ-tát."

PHẨM 2: PHÂN THÂN HỘI HỌP

Lúc bấy giờ, phân thân của Địa Tạng Bồ-tát ở những nơi có địa ngục từ tỷ ức chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn, chẳng thể lường, chẳng thể nói, vô lượng vô số thế giới đều đến tụ tập tại Cung trời Tam Thập Tam. Do thần lực của Như Lai nên mỗi phân thân từ phương xứ của mình và cũng có ngàn vạn ức nayuta các chúng sanh đã được giải thoát ra khỏi nghiệp đạo, họ đều cùng cầm theo hương hoa đi đến cúng dường Phật. Những chúng sanh đồng đến kia đều do Địa Tạng Bồ-tát giáo hóa và vĩnh viễn sẽ không thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Các chúng sanh ấy từ kiếp xa xưa đến nay đã lưu chuyển trong vòng sanh tử và chịu khổ trong sáu đường không chút tạm ngưng. Nhờ lòng từ bi rộng lớn và thệ nguyện thâm sâu của Địa Tạng Bồ-tát nên ai cũng đều chứng Quả. Lòng họ hân hoan khi đến trời Tam Thập Tam và chiêm ngưỡng Đức Như Lai, mắt không muốn rời một thoáng.
Lúc bấy giờ Thế Tôn nhấc cánh tay sắc vàng mà xoa lên đỉnh đầu phân thân của Địa Tạng Đại Bồ-tát đã đến từ tỷ ức chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn, chẳng thể lường, chẳng thể nói, vô lượng vô số thế giới.
Rồi Ngài nói lời như vầy:
"Ta ở trong đời ác năm trược giáo hóa các chúng sanh cang cường như thế, làm cho tâm họ điều phục, bỏ tà quy chánh. Nhưng trong mười thì có một hoặc hai vẫn còn bám theo các tập khí ác. Ta cũng phân ra trăm ngàn ức thân và dùng đủ mọi phương tiện.
Những ai có thiện căn lanh lợi thì khi nghe liền tín thọ. Những ai có gieo trồng nhân lành thì cần khuyên bảo mới thành tựu. Những ai có căn tánh ám độn thì phải giáo hóa rất lâu mới quay về. Những ai có nghiệp thâm trọng thì chẳng hề sanh lòng kính ngưỡng.
Ta phân thân độ thoát những hạng chúng sanh như vậy, mỗi mỗi đều sai khác.
- Hoặc hiện thân nam tử.
- Hoặc hiện thân nữ nhân.
- Hoặc hiện thân trời rồng.
- Hoặc hiện thân quỷ thần.
- Hoặc hiện thân núi rừng, dòng nước, đồng bằng, sông hồ, khe suối, giếng nước mà làm lợi ích người và khiến đều độ thoát.
- Hoặc hiện thân thiên đế.
- Hoặc hiện thân trời Phạm Vương.
- Hoặc hiện thân vua Chuyển Luân.
- Hoặc hiện thân cư sĩ.
- Hoặc hiện thân quốc vương.
- Hoặc hiện thân tể tướng.
- Hoặc hiện thân quan thần.
- Hoặc hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh Tín Nam, hay Thanh Tín Nữ.
Cho đến các thân Thanh Văn, Ứng Chân, Độc Giác, và Bồ-tát mà dùng để hóa độ, chớ chẳng phải chỉ dùng độc nhất thân Phật hiện ra trước họ đâu.
Ông quán sát Ta đã trải qua bao kiếp khổ nhọc để độ thoát những chúng sanh cang cường mắc tội khổ và khó giáo hóa như vậy. Những ai chưa được điều phục thì tùy theo nghiệp mà ứng theo quả báo.
Nếu khi họ bị đọa đường ác để chịu thống khổ thì ông nên nhớ nghĩ đến Ta. Nay tại Cung trời Tam Thập Tam, Ta ân cần phó chúc: hãy khiến cho chúng sanh ở Thế giới Kham Nhẫn, từ đây cho đến lúc Đức Từ Thị xuất hiện ở thế gian, thảy đều làm cho họ giải thoát, vĩnh viễn xa lìa các ách khổ, và sẽ gặp Phật thọ ký."


Lúc bấy giờ, hết thảy phân thân của Địa Tạng Bồ-tát trong các thế giới hợp nhập thành một hình và rơi lệ thương luyến.
Sau đó ngài thưa với Phật rằng:
"Từ kiếp xa xưa đến nay, con nhờ Đức Phật tiếp dẫn nên mới được thần lực không thể nghĩ bàn và đầy đủ đại trí tuệ. Phân thân của con biến khắp tỷ ức Hằng Hà sa thế giới. Trong mỗi thế giới lại hóa hiện tỷ ức thân. Mỗi thân hóa độ tỷ ức người, khiến họ quy y, cung kính Tam Bảo, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, và đạt đến tịch diệt an vui.
Những chúng sanh nào ở trong Phật Pháp, dù chỉ làm việc lành chừng bằng một sợi lông, một giọt nước, một hạt cát, một hạt bụi, hoặc nhỏ như sợi lông tơ, thì con dần dần sẽ độ thoát và làm cho họ được lợi ích lớn. Kính mong Thế Tôn chớ vì những chúng sanh tạo nghiệp ác đời sau mà lo lắng nữa."
Và như thế, ngài bạch với Đức Phật đến ba lần.
"Kính mong Thế Tôn chớ vì những chúng sanh tạo nghiệp ác đời sau mà lo lắng nữa."
Lúc bấy giờ Đức Phật ngợi khen Địa Tạng Bồ-tát rằng:
"Lành thay, lành thay! Ta sẽ hỗ trợ điều ông vui làm để ông có thể thành tựu các thệ nguyện rộng lớn đã phát từ kiếp xa xưa đến nay. Khi việc rộng độ chúng sanh hoàn tất, ông sẽ liền thành Phật."

PHẨM 3: QUÁN CHÚNG SANH NGHIỆP DUYÊN

Lúc bấy giờ Phật mẫu là Phu nhân Đại Huyễn, chắp tay cung kính và hỏi Địa Tạng Bồ-tát rằng:
"Thưa Thánh giả! Chúng sanh ở châu Thắng Kim tạo các nghiệp sai khác và thọ quả báo ứng, việc ấy như thế nào?"
Ngài Địa Tạng đáp rằng:
"Trong ngàn vạn thế giới cùng các quốc độ, hoặc có địa ngục, hoặc không địa ngục, hoặc có người nữ, hoặc không người nữ, hoặc có Phật Pháp, hoặc không Phật Pháp, cho đến Thanh Văn, Độc Giác cũng đều như thế. Cho nên tội báo ở địa ngục cũng chẳng giống nhau."
Phu nhân Đại Huyễn lại thưa với Bồ-tát rằng:
"Nay tôi muốn nghe về tội báo chiêu cảm ở đường ác của châu Thắng Kim."
Ngài Địa Tạng đáp rằng:
"Thánh mẫu! Xin hãy lắng nghe và thọ trì, tôi sẽ nói sơ về việc đó."
Phật mẫu bạch rằng:
"Kính mong Thánh giả hãy nói!"


Lúc bấy giờ Địa Tạng Bồ-tát nói với Thánh mẫu rằng:
"Danh hiệu của những tội báo ở Nam châu Thắng Kim là như vầy:
Nếu có chúng sanh nào bất hiếu với cha mẹ hoặc thậm chí giết hại, thì sẽ đọa Địa ngục Vô Gián cho đến ngàn vạn ức kiếp cũng không có kỳ hạn ra khỏi.
Nếu có chúng sanh nào làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, hoặc không tôn kính Kinh Điển, thì cũng sẽ đọa Địa ngục Vô Gián cho đến ngàn vạn ức kiếp cũng không có kỳ hạn ra khỏi.
Nếu có chúng sanh nào xâm chiếm, làm tổn hại Thường Trụ, ô nhục Tăng Ni, hoặc tình tứ hành dâm trong tự viện, hoặc giết hoặc hại, những kẻ như thế sẽ đọa Địa ngục Vô Gián cho đến ngàn vạn ức kiếp cũng không có kỳ hạn ra khỏi.
Nếu có chúng sanh nào giả làm Sa-môn nhưng tâm chẳng phải Sa-môn, phá hoại, lạm dụng Thường Trụ, dối gạt hàng cư sĩ, vi phạm giới luật, hoặc tạo đủ mọi nghiệp ác, những kẻ như thế sẽ đọa Địa ngục Vô Gián cho đến ngàn vạn ức kiếp cũng không có kỳ hạn ra khỏi.
Nếu có chúng sanh nào trộm cắp tài vật, lúa gạo, thức ăn nước uống, và y phục của Thường Trụ, cho đến các đồ vật không cho mà lấy, thì sẽ đọa Địa ngục Vô Gián cho đến ngàn vạn ức kiếp cũng không có kỳ hạn ra khỏi."
Ngài Địa Tạng nói rằng:
"Thánh mẫu! Nếu có chúng sanh nào phạm các tội như thế thì sẽ đọa Địa ngục Vô Gián, cầu mong tạm ngưng nỗi thống khổ trong một niệm cũng chẳng được."


Phu nhân Đại Huyễn lại bạch với Địa Tạng Bồ-tát rằng:
"Vì sao gọi là Địa ngục Vô Gián?"
Ngài Địa Tạng nói rằng:
"Thánh mẫu! Trong dãy núi Đại Thiết Vi có những địa ngục. Địa ngục lớn có 18. Bậc kế có 500. Mỗi ngục có tên gọi riêng. Bậc kế nữa có đến ngàn trăm. Tên gọi cũng đều khác. Còn Địa ngục Vô Gián thì ở bên trong ngục thành với chu vi là 80.000 dặm. Thành đó toàn bằng sắt và cao 10.000 dặm. Trên thành có lửa cháy, không hở trống một chỗ nào. Ở trong thành ấy, các ngục nối liền với nhau và danh hiệu đều sai khác.
Duy chỉ có độc nhất một ngục tên là Vô Gián. Ngục đó chu vi là 18.000 dặm. Ngục tường cao 1.000 dặm và đều làm bằng sắt. Lửa từ trên bắn xuống, lửa ở dưới bốc lên. Trên tường có rắn sắt và chó sắt phun ra lửa, đuổi bắt chạy qua lại.
Trong ngục có một cái giường, đầy khắp 10.000 dặm. Một người thọ tội thì tự thấy thân mình nằm chật cả giường. Ngàn vạn người thọ tội thì cũng tự thấy thân mỗi người nằm chật trên giường. Do các nghiệp chiêu cảm nên thọ báo như vậy.
Lại có những tội nhân phải chịu các sự thống khổ. Họ bị trăm ngàn quỷ tiệp tật cùng ác quỷ, với miệng răng như kiếm, mắt như điện chớp, và chúng dùng móng tay bằng đồng mà tha kéo người tội.
Lại có quỷ tiệp tật cầm cây kích sắt lớn đâm vào thân người tội, hoặc trúng miệng mũi, hoặc trúng bụng lưng. Sau đó, chúng quăng tội nhân lên không trung rồi dùng cây kích hứng lấy, hoặc để họ trên giường.
Lại có chim ưng sắt ăn mắt người tội.
Lại có rắn sắt siết cổ tội nhân. Chân tay và khắp khớp xương bị cây đinh dài đóng vào. Lưỡi bị kéo ra để cày bừa. Ruột bị moi ra và chém đứt. Miệng bị đổ nước đồng nung. Toàn thân bị sắt nóng quấn quanh. Muôn ngàn lần chết đi sống lại. Nghiệp cảm như thế, trải qua ức kiếp cũng đừng mong ra khỏi.
Khi thế giới này hư hoại thì sanh nhờ qua thế giới khác. Khi thế giới đó hư hoại thì thứ tự chuyển gửi phương khác. Khi phương khác hư hoại thì xoay vần chuyển gửi. Sau khi thế giới này đến kiếp thành thì sanh về trở lại. Tội báo của vô gián, việc ấy là như vậy.


Lại có năm việc nghiệp cảm nên gọi là vô gián. Những gì là năm?
1. Ngày đêm thọ tội đến trọn số kiếp, không lúc nào gián đoạn, cho nên gọi là vô gián.
2. Một người cũng chật cả ngục mà nhiều người cũng đầy khắp, cho nên gọi là vô gián.
3. Có những tội khí, như chỉa, gậy; chim ưng, rắn, sói, chó; giã, mài, cưa, đục, chém, chặt, chảo dầu sôi; lưới sắt, dây sắt; lừa sắt, ngựa sắt; miếng da sống quấn trên đầu; sắt nóng tạt vào thân; đói nuốt viên sắt; khát uống nước sắt. Quanh năm đến suốt nayuta kiếp, khổ sở liên tục, không chút gián đoạn, cho nên gọi là vô gián.
4. Chẳng kể kẻ nam người nữ, mọi rợ man di, già trẻ sang hèn, hoặc rồng