Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Phật ở trên núi Kỳ-xà-quật,
[2] gần thành Vương Xá, cùng với chúng đại tỳ-kheo sáu mươi hai ngàn vị, chúng Đại Bồ Tát tám mươi ức và chúng ưu-bà-tắc của nước Ma-già-đà
[3] có sáu mươi ức trăm ngàn người.
[4]
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi an cư, đến lúc sắp nhập Niết-bàn, liền nhập tam-muội Như pháp.
[5] Khi Phật đã nhập tam-muội, thế giới đại thiên
[6] được trang nghiêm khắp nơi, treo phướn lọng bằng lụa, thiết lập lò hương báu, có hương thơm xông ướp và hoa sen ngàn cánh tung rải khắp nơi.
Khi ấy, thế giới đại thiên này có trăm ngàn ức chư thiên, các vị Phạm thiên vương cùng trăm ngàn ức quyến thuộc cùng đến chỗ Phật; cúi đầu áp mặt đảnh lễ sát chân Phật, chắp tay cung kính hướng Phật rồi lui ra đứng sang một bên.
Lại có trăm ngàn ức chư thiên cõi trời Tịnh cư,
[7] thiên vương Tự Tại, thiên vương Đại Tự Tại, Long vương,
[8] vua Dạ-xoa,
[9] vua A-tu-la,
[10] vua Ca-lâu-la,
[11] vua Khẩn-na-la,
[12] vua Ma-hầu-la-già, mỗi vị đều dẫn theo trăm ngàn ức quyến thuộc cùng đến chỗ Phật; cúi đầu áp mặt đảnh lễ sát chân Phật, chắp tay cung kính hướng Phật rồi lui ra đứng sang một bên.
Bấy giờ, các vị Đại Bồ Tát đại uy đức trong khắp mười phương nhiều như cát sông Hằng cùng đến chỗ Phật; cúi đầu áp mặt đảnh lễ sát chân Phật, chắp tay cung kính hướng Phật rồi lui ra đứng sang một bên.
Khi ấy, khắp thế giới đại thiên này, thậm chí lên đến tận cõi trời Hữu Đỉnh,
[13] tất cả chúng sanh đều đến tập hội, đại chúng đông đúc tràn khắp không còn chỗ trống.
Lúc đó, lại có thêm các vị đại oai lực trong hàng chư thiên, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà,
[14] a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già
[15]… cũng đều đến tập hội.
Bấy giờ, đức Thế Tôn chánh niệm hiện tiền, từ tam-muội khởi thân đứng dậy, nhìn qua khắp thảy đại chúng rồi giống như sư tử chúa vươn mình ba lần. Sau đó, từ giữa khuôn mặt Phật hiện ra tướng lưỡi rộng dài,
[16] che trùm khắp thế giới đại thiên. Đức Như Lai hiện thần thông rồi, lại nhìn khắp đại chúng. Khi ấy, hết thảy đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay đảnh lễ Phật rồi đứng im lặng.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Di-lặc:
[17] “Này Di-lặc! Không bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập Niết-bàn, nếu ông còn có mối nghi nào về các pháp, khi ta còn tại thế chính là lúc nên thưa hỏi, đừng để sau khi Phật diệt độ rồi phải hối tiếc.”
Đại Bồ Tát Di-lặc bạch Phật: “Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Phật đã tự biết rõ lúc thích hợp. Chư Phật Như Lai đối với tất cả các pháp đều thông đạt rốt ráo, kính nguyện thuyết giảng để pháp nhãn
[18] này trụ thế lâu dài.”
Lúc đó, trong hội có vị thiên tử Đại Tự Tại cùng với tám mươi ức quyến thuộc là thiên chúng cõi trời Tịnh cư vây quanh, cùng đảnh lễ dưới chân Phật rồi chắp tay cung kính thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Có pháp môn Đại thừa Phương quảng Tổng trì, trong quá khứ vô lượng chư Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri
[19]… đã từng tuyên thuyết. Kính nguyện đức Thế Tôn hôm nay lại giảng rộng để làm lợi ích, an vui cho vô số chư thiên, nhân loại, có thể khiến cho Phật pháp được trụ thế lâu dài.”
Khi ấy, đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Thiên tử Đại Tự Tại biết Phật đã nhận lời, vui mừng phấn khích, chắp tay đảnh lễ rồi lui ra đứng sang một bên.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Di-lặc: “Này Di-lặc! Pháp môn Đại thừa Phương quảng Tổng trì
[20] này không chỉ riêng ta thuyết dạy, mà vô số chư Phật trong quá khứ, tương lai cũng như hiện tại khắp mười phương thế giới cũng thường thuyết dạy. Nếu chúng sinh nào đối với những lời Phật dạy mà nói rằng không phải do Phật dạy, lại hủy báng giáo pháp và chư tăng, thì kẻ hủy báng đó sẽ phải đọa vào các cảnh giới xấu ác,
[21] chịu những nỗi khổ nơi địa ngục.”
Khi ấy, đức Phật lại bảo Đại Bồ Tát Di-lặc: “Nếu có thiện nam, thiện nữ nào phát tâm Bồ-đề,
[22] đối với kinh điển Đại thừa Phương quảng Tổng trì này thọ trì, tụng đọc, lại vì người khác giảng nói, nên biết rằng người đó sẽ không bị đọa vào các cảnh giới xấu ác.”
Rồi đức Thế Tôn hỏi ngài Di-lặc: “Này Di-lặc! Từ đêm ta thành Phật cho đến nay khi sắp nhập Niết-bàn Vô dư,
[23] trong khoảng thời gian đó, với thân, khẩu, ý của Phật đã làm, đã nói, đã nhớ nghĩ suy xét, có khi nào để mất chánh niệm mà tạo thành nghiệp xấu ác chăng?”
Bồ Tát Di-lặc thưa: “Bạch Thế Tôn, không hề có vậy.”
Đức Phật dạy: “Này Di-lặc! Như lời ông vừa nói, ta từ khi thành đạo cho đến lúc Niết-bàn, những gì nói ra hay thuyết dạy trong khoảng thời gian đó đều là chân thật, không hư dối. Nếu có kẻ ngu không hiểu được những điều Như Lai phương tiện thuyết dạy, lại nói rằng ‘Pháp này là như thế này; pháp này không phải như thế này’, rồi hủy báng chánh pháp cũng như Phật và Bồ Tát, ta nói rằng những kẻ ấy đang hướng đến địa ngục.”
Đức Phật dạy: “Di-lặc! Sau khi ta diệt độ, trong đời xấu ác có năm sự uế trược,
[24] nếu có những tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thật không phải Bồ Tát mà tự xưng Bồ Tát, đó là những kẻ ngoại đạo. Trong quá khứ họ đã từng cúng dường chư Phật, nhờ sức phát nguyện nên ngày nay được xuất gia trong giới luật và chánh pháp của Phật; nhưng họ đi đến đâu cũng chỉ tham cầu được nhiều bè đảng, nhiều danh tiếng lợi ích, buông thả phóng túng theo việc xấu xa nhơ nhớp, vất bỏ niềm tin Phật pháp, làm nhiều việc xấu ác, không tự kiềm chế, không tự điều phục, tham cầu các mối lợi, đối với các pháp môn và tam-muội Xuất sinh, tam-muội Kiên cố, hết thảy đều xa lánh, hoàn toàn không hiểu biết; dựa vào chỗ thân thuộc mà dối gạt nói rằng mình có hiểu biết, sống trong sự dua nịnh, lời nói với việc làm trái nghịch nhau.
“Này Di-lặc! Đạo Bồ-đề của ta bình đẳng với tất cả chúng sinh, trụ yên trong tâm đại bi, khéo dùng phương tiện không quên chánh niệm. Đức Như Lai trụ yên trong năng lực vô đẳng đẳng
[25] mà thuyết pháp không có chướng ngại.
“Nếu có chúng sinh nói rằng: ‘Những kinh điển đức Phật vì hàng Thanh văn thuyết dạy thì Bồ Tát không nên học tập, không nên nghe nhận, đó không phải là chánh pháp, không phải là chánh đạo; các pháp của Duyên giác cũng không nên học.’
“Lại nói rằng: ‘Pháp của các Bồ Tát tu hành, hàng Thanh văn cũng không nên học, không nên nghe nhận; pháp của Duyên giác cũng vậy.’
“Lại nói rằng: ‘Các Bồ Tát thuyết giảng điều gì, hàng Thanh văn, Duyên giác không nên nghe nhận.’
“Những người như vậy, lời nói và việc làm của họ trái nghịch nhau, không phù hợp theo kinh điển; đối với những lời thuyết dạy chân thật, pháp giải thoát chân chánh mà không thể tin nhận, nếu y theo pháp của họ ắt không được sinh lên cõi trời, huống chi là giải thoát?
“Này Di-lặc! Ta nay thuyết pháp tùy theo lòng tin của chúng sanh mà điều phục, số nhiều như cát sông Hằng.
“Này Di-lặc! Ta nay muốn đến mười phương thế giới, tùy thuận thuyết pháp làm lợi ích chúng sinh, không phải vì những kẻ thật không phải Bồ Tát mà làm ra vẻ Bồ Tát, cũng không vì những kẻ độc ác, dối trá, ít lắng nghe học hỏi.
“Trong pháp của ta, nếu có người lập thuyết phân chia,
[26] nói rằng: ‘Những điều này Bồ Tát nên học; những điều kia Bồ Tát không nên học.’ [Do phân chia như vậy rồi] hủy báng Phật, Pháp, Tăng, người đó sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục, qua hàng trăm ngàn kiếp không thể thoát ra. Ví như thoát ra được rồi cũng phải sinh vào nhà nghèo khốn. Cho đến về sau tuy được thụ ký, cũng sẽ thành Chánh giác trong đời xấu ác có năm sự uế trược, giống như ta ngày nay ở trong chốn sinh tử, cõi đời xấu ác có năm sự uế trược này mà thành Phật đạo. Do nhân duyên đó, ông nên lắng nghe, nên tin hiểu, nếu làm theo kẻ xấu ác thì sẽ chịu kết quả như vậy.
“Này Di-lặc! Ta nhớ vào đời quá khứ cách nay vô số kiếp, thuở ấy có đức Phật hiệu Vô Cấu Diệm Xưng Khởi Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn ra đời. Đức Phật ấy sống thọ đến tám vạn na-do-tha tuổi, vì chúng sinh thuyết pháp.
“Lúc bấy giờ, trong phạm vi giáo hóa của đức Như Lai Vô Cấu Diệm Xưng Khởi Vương có một tỳ-kheo tên Tịnh Mạng, là vị đại pháp sư có thể nhận hiểu, ghi nhớ tổng quát được mười bốn ức bộ kinh với sáu trăm muôn bộ kinh Đại thừa. Ngài thuyết pháp lời lẽ thanh nhã, tài biện luận không ngăn ngại, làm lợi ích vô lượng vô biên chúng sinh; chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, làm cho thành tựu hoan hỷ.
[27]
“Khi ấy, đức Như Lai Vô Cấu Diệm Xưng Khởi Vương sắp nhập Niết-bàn liền bảo tỳ-kheo Tịnh Mạng: ‘Trong đời vị lai, ông nên giữ gìn bảo vệ pháp nhãn chân chánh của ta.’
“Tỳ-kheo Tịnh Mạng vâng lời dạy, sau khi Phật diệt độ, trong ngàn muôn năm giữ gìn lưu thông pháp tạng sâu kín của chư Phật, đối với pháp môn Phương quảng Tổng trì này thọ trì tụng đọc, hiểu sâu nghĩa lý, tùy theo tâm nguyện ưa thích của chúng sinh trong tám muôn thành thị ở thế giới đó mà rộng thuyết.
“Khi ấy, có một thành lớn tên là Bạt-đà, trong thành có tám mươi ức gia đình, tỳ-kheo Tịnh Mạng đến đó tùy theo chỗ ưa thích của họ mà thuyết pháp, giúp cho tám mươi ức người khởi sinh niềm tin thanh tịnh, trong đó có một ức người trụ nơi đạo Bồ-đề,
[28] bảy mươi chín ức người trụ nơi pháp Thanh văn mà được điều phục. Bấy giờ, Pháp sư Tịnh Mạng với mười ngàn chúng tỳ-kheo cùng rời thành ấy đi tu hạnh Bồ-đề.
“Bấy giờ, trong thành Bạt-đà lại có tỳ-kheo tên Đạt-ma, thọ trì được một ngàn bộ trong số những kinh Đại thừa Phương quảng chính điển, chứng được Tứ thiền, chỉ dùng pháp Không của kinh Phương quảng để giáo hóa hết thảy chúng sinh trong thành, không có khả năng dùng phương tiện khéo léo tùy theo chỗ ưa muốn của mỗi người để thuyết giảng.
“Tỳ-kheo ấy nói rằng: ‘Hết thảy các pháp đều rỗng không tịch tịnh, như lời ta nói mới chân thật là Phật thuyết dạy. Những gì tỳ-kheo Tịnh Mạng kia thuyết giảng là xen tạp, uế nhiễm không thanh tịnh. Ông tỳ-kheo đó thật không sống thanh tịnh mà xưng là Tịnh Mạng.
[29] Vì sao vậy? Ông tỳ-kheo đó nhận hoa [từ người khác] không mang cúng dường mà tự để dùng, cho đến hương thoa, hương bột cũng đều như vậy. Tỳ-kheo Tịnh Mạng thật ngu si không có trí tuệ, không thể biết rằng ta đây đã từ lâu tu hạnh thanh tịnh. Ông ấy còn nhỏ tuổi, lại xuất gia chưa lâu, tự cao ngạo mạn, không có niềm tin, thường buông thả phóng túng. Những người không hiểu biết gì mới cho rằng tỳ-kheo Tịnh Mạng là tỳ-kheo giữ giới.’
“Khi ấy, tỳ-kheo Đạt-ma dùng tâm xấu ác mà hủy báng người thọ trì chánh pháp, nên sau khi chết phải đọa vào địa ngục, trải qua bảy mươi kiếp chịu đủ các nỗi khổ. Hết bảy mươi kiếp đó rồi lại sinh làm thân súc sinh; sau đó sáu mươi kiếp mới gặp được Phật Hương Bảo Quang, ở trong pháp Phật ấy phát tâm Bồ-đề, nhưng chín muôn đời sau vẫn phải sinh làm thân súc sinh. Qua chín muôn đời rồi được sinh làm người, phải chịu sáu muôn đời nghèo khốn hèn hạ, lại thường không có lưỡi.
“Còn tỳ-kheo Tịnh Mạng, đối với các pháp khởi sinh niềm tin thanh tịnh, vì người khác thuyết pháp, nên về sau được gặp sáu mươi ba na-do-tha đức Phật, thường làm pháp sư, có đủ năm pháp thần thông, thường khuyến thỉnh chư Phật chuyển diệu pháp luân.
“Này Di-lặc! Nay ông nên biết rằng, tỳ-kheo Tịnh Mạng trong quá khứ đó nào phải ai xa lạ, đừng tưởng là xa lạ, nay chính là đức Phật A-di-đà.
“Này Di-lặc! Nay ông nên biết rằng, tỳ-kheo Đạt-ma trong quá khứ đó nào phải ai xa lạ, đừng tưởng là xa lạ, nay chính là ta đây. Vì trong quá khứ ta ngu si không trí tuệ, hủy báng tỳ-kheo Tịnh Mạng
[30] nên phải chịu khổ như vậy. Ta vì nghiệp nhân duyên như vậy nên phải ở trong đời xấu ác có năm sự uế trược mà thành bậc Chánh đẳng Chánh giác.
[31]
“Do vậy, này Di-lặc! Nếu có Bồ Tát nào đối với các pháp của Phật mà lập thuyết phân chia, do nhân duyên đó về sau sẽ thành tựu quả Phật trong đời xấu ác có năm sự uế trược; trong cõi Phật ấy có các loại ma, thường gây chướng nạn khi người thuyết pháp.”
Lúc bấy giờ, đại chúng nghe Phật thuyết như vậy rồi, hết thảy đều bi thương rơi lệ, cùng thưa rằng: “Chúng con nguyện đối với Phật pháp không lập thuyết phân chia như tỳ-kheo Đạt-ma.”
Lúc ấy, trong pháp hội có trăm vị Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối phải sát đất, bi thương rơi lệ. Khi đó, đức Thế Tôn đã biết nhưng vẫn hỏi: “Thiện nam tử! Các ông vì sao bi thương như vậy?”
Khi ấy, các vị Bồ Tát đồng thanh thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con tự xét thấy mình hẳn cũng có các nghiệp xấu ác che chướng như vậy.”
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói: “Đúng vậy, đúng vậy! Trong đời quá khứ các ông cũng từng ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, xuất gia tu đạo trong giáo pháp Phật ấy. Sau khi Phật Nhiên Đăng diệt độ, có tỳ-kheo tên là Trí Tích, các ông thuở ấy đã hủy báng vị tỳ-kheo này; do nhân ấy nên từ đó về sau không được gặp Phật, không thể phát tâm Bồ-đề, không đạt được các đà-la-ni và các tam-muội. Về sau, các ông mới cùng [với ta] an trú trong đạo Bồ-đề.
[32]
“Này các thiện nam tử! Ở chỗ đức Phật cuối cùng trong Hiền kiếp này, các ông đều sẽ đạt được pháp nhẫn Vô sinh, sau đó lại trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp tu hành đạo Bồ Tát, rồi sẽ thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Cho nên, này thiện nam tử, nếu Bồ Tát nhìn thấy Bồ Tát khác, không nên khởi tâm phân chia khác biệt; nên quán tưởng như đang thấy tháp thờ, như đang thấy Phật. Bồ Tát khi nhìn các Bồ Tát khác đừng khởi ý niệm khác, cho rằng ‘người ấy không phải Phật’. Nếu khởi ý niệm khác như vậy là tự làm tổn hại chính mình;
[33] nên ghi nhớ việc không khởi ý niệm khác, cùng nhau hòa hợp: ‘Nay ta quán tưởng Bồ Tát mới phát tâm không phải Phật thì chính là đã lừa dối vô số a-tăng-kỳ chư Phật mười phương trong hiện tại.’
“Thiện nam tử, các Bồ Tát tương lai trong đời xấu ác có năm sự uế trược mà đạt được đà-la-ni, tam-muội, [trở thành pháp sư], hết thảy đều nhờ oai lực Phật. Cho nên, nếu có người hủy báng các pháp sư ấy thì không khác gì hủy báng Phật.
“Thiện nam tử! Sau khi Phật diệt độ, nếu có vị pháp sư khéo tùy theo chỗ ưa muốn của người khác mà thuyết pháp, có thể khiến cho Bồ Tát học pháp Đại thừa và đại chúng phát tâm mảy may hoan hỷ,
[34] cho đến chỉ nhất thời xúc động rơi một giọt lệ, nên biết đều là sức thần của Phật.
“Có kẻ ngu si, thật không phải Bồ Tát mà giả mạo xưng là Bồ Tát, chê bai vị Bồ Tát chân thật cùng pháp tu hành của vị ấy, lại nói rằng: ‘Ông ấy mà biết gì? Ông ấy mà hiểu gì?’ Này Di-lặc! Nhớ lại thuở quá khứ khi còn học đạo Bồ Tát trong cõi Diêm-phù-đề, ta quý trọng chánh pháp nên vì một câu kinh, một bài kệ mà xả bỏ mọi thứ yêu thích như đầu, mắt, vợ con cho đến bỏ cả ngôi vua. Vì sao vậy? Vì để cầu pháp. Như kẻ ngu si kia thì chỉ vì danh tiếng, mê đắm lợi dưỡng, ỷ vào chút năng lực nhỏ nhoi mà không đến chỗ người truyền dạy pháp của Như Lai để nghe nhận Chánh pháp.
“Này Di-lặc! Nếu đôi bên hòa hợp nhau thì có thể vững chãi giữ gìn lưu thông pháp Phật; nếu đôi bên tranh chấp nhau thì Chánh pháp không thể vận hành.
“Di-lặc! Ông có thể thấy, kẻ hủy báng chánh pháp tạo tội nghiệp rất lớn như vậy, đọa vào ba đường ác thật khó thoát ra.
“Lại nữa, này Di-lặc! Khi ta vừa thành Phật, dùng trí tuệ nhiệm mầu rộng vì chúng sinh tuyên thuyết Chánh pháp. Nếu có kẻ ngu si đối với lời Phật dạy không tin nhận, giống như tỳ-kheo Đạt-ma kia, thì tuy tụng đọc ngàn bộ kinh Đại thừa, giảng giải cho người khác, chứng được Tứ thiền, nhưng vì hủy báng tỳ-kheo Tịnh Mạng
[35] nên phải chịu khổ não lớn lao trong bảy mươi kiếp. Huống chi như kẻ ngu si hèn kém kia, thật không hiểu biết gì lại nói rằng: ‘Ta là pháp sư, hiểu rõ pháp Đại thừa, có thể truyền rộng’; hủy báng vị pháp sư chân chánh, nói rằng vị ấy không hiểu biết gì, cũng tức là hủy báng Phật pháp, tự mình kiêu ngạo.
“Nếu kẻ ngu đó đối với pháp Đại thừa của Phật mà hủy báng, dù chỉ một bài kệ bốn câu, nên biết nghiệp như thế nhất định phải đọa địa ngục. Vì sao vậy? Vì hủy báng Phật pháp và pháp sư. Do nhân duyên đó phải thường sinh trong các cảnh giới xấu ác, mãi mãi không được gặp Phật. Vì kẻ ấy từng hủy báng Phật, Pháp, Tăng, nên đối với người mới phát tâm Bồ-đề cũng có thể gây chướng ngại, khiến cho thối thất Chánh đạo.
“Nên biết rằng, người đó tự tô trát lên thân mình bằng tội nghiệp lớn lao, nên trong vô số kiếp tự thân phải đọa trong địa ngục chịu quả báo khổ não cực kỳ; vì dùng ánh mắt xấu ác nhìn người phát tâm Bồ-đề nên chịu quả báo đời sau không có mắt; vì dùng miệng lưỡi xấu ác hủy báng người phát tâm Bồ-đề nên chịu quả báo đời sau không có lưỡi.
“Di-lặc! Ta chưa từng thấy có pháp xấu ác nào nặng hơn là tội phá hoại sự phát tâm Bồ-đề. Do tội ấy đã phải đọa vào các cảnh giới xấu ác, huống chi còn hủy báng các Bồ Tát khác?
“Nếu Bồ Tát nào có thể vì chúng sinh thuyết giảng chân thật, không khởi sinh đoạn kiến hay thường kiến,
[36] nên nói rằng chúng sinh nhất định là có, nhất định là không, cũng không chấp chặt vào các pháp có không. Này Di-lặc! Bồ Tát tu học nên trụ yên như vậy. Bồ Tát trụ yên như vậy làm thanh tịnh các nghiệp lành, đối với các pháp tu tập đều không bám chấp vướng mắc. Nếu chúng sinh nào khởi sinh bám chấp vướng mắc, nên biết rằng người ấy sẽ sinh vào đời xấu ác có năm sự uế trược.
“Lại nếu có Bồ Tát khéo tùy căn tánh ham muốn, có thể vì chúng sanh thuyết giảng đủ các pháp khác nhau. Di-lặc! Vị Bồ Tát như vậy cũng phải tu hành trọn đủ sáu ba-la-mật mới có thể thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Kẻ ngu si kia tin vào chỗ bám chấp của mình, nói rằng: ‘Bồ Tát chỉ học Bát-nhã ba-la-mật, đừng học các ba-la-mật khác, vì Bát-nhã ba-la-mật là thù thắng nhất.’ Nói như vậy không đúng. Vì sao vậy? Này Di-lặc, thuở xưa vua Ca-thi-ca
[37] khi học đạo Bồ Tát từng xả bỏ những thứ yêu thích như thân thể, đầu, mắt, tủy não… lẽ nào lúc ấy vua không có trí tuệ?”
Bồ Tát Di-lặc bạch Phật: “Thế Tôn! Theo đúng lời Phật dạy thì như vậy là có trí tuệ.”
Đức Phật bảo Bồ Tát Di-lặc: “Từ xưa đến nay ta trải qua vô số kiếp tu hành trọn đủ sáu ba-la-mật. Nếu không tu hành trọn đủ sáu ba-la-mật thì không bao giờ thành tựu Vô thượng Bồ-đề.”
Bồ Tát Di-lặc thưa: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy!”
Phật bảo Di-lặc: “Như lời ông nói đó, ta thuở xưa trong sáu mươi kiếp đã từng tu hành bố thí ba-la-mật, trì giới ba-la-mật, nhẫn nhục ba-la-mật, tinh tấn ba-la-mật, thiền định ba-la-mật, trí tuệ ba-la-mật; mỗi pháp đều tu trong sáu mươi kiếp. Kẻ ngu si kia lại nói xằng bậy rằng: ‘Chỉ tu một pháp Bát-nhã ba-la-mật được thành tựu Bồ-đề.’ Không thể có việc đó. Kẻ ấy ôm giữ tri kiến về pháp Không, lại nói ra lời không thanh tịnh như vậy; khi nói như vậy là các nghiệp thân, khẩu, ý đều trái nghịch với pháp. Tuy nhận hiểu pháp Không, giảng nói cho người khác, nhưng tự mình đối với pháp Không lại chẳng thực hành đúng như lời Phật dạy. Vì không thực hành nên còn cách xa nghĩa Không, ôm lòng ganh ghét đố kỵ, tham đắm bám chấp lợi dưỡng như với người thân thuộc.
“Này Di-lặc! Thuở xưa ta làm Chuyển luân vương, xả bỏ các món trân bảo, đầu, mắt, tay, chân… mà còn chưa thành tựu Vô thượng Bồ-đề, huống chi kẻ ngu si kia vì sự ăn uống mà đi qua từng nhà thuyết giảng, chỉ biết khen ngợi pháp Không? Lại bảo riêng lời mình nói là đạo Bồ-đề, là hạnh Bồ Tát; riêng pháp này là đúng, các pháp khác đều sai. Lại nói: ‘Như chỗ nhận hiểu của ta, vô số pháp sư đều chứng biết.’ Kẻ ấy vì danh vọng nên tự khen năng lực của mình, ganh ghét những người hiểu biết sáng suốt.
“Này Di-lặc! Ta thấy tâm kẻ ấy toàn mưu cầu lợi dưỡng để tự nuôi sống, tuy có hạnh lành trải qua trăm kiếp cũng không được đôi chút tâm pháp nhẫn, huống chi là thành tựu Vô thượng Bồ-đề?
“Này Di-lặc! Ta không vì người dối trá, tâm ý và lời nói trái nghịch nhau mà thuyết dạy Bồ-đề.
“Ta không vì người ganh ghét đố kỵ mà thuyết dạy Bồ-đề.
“Ta không vì người kiêu mạn không cung kính mà thuyết dạy Bồ-đề.
“Ta không vì người không có lòng tin mà thuyết dạy Bồ-đề.
“Ta không vì người chưa được điều phục mà thuyết dạy Bồ-đề.
“Ta không vì người tà dâm mà thuyết dạy Bồ-đề.
“Ta không vì người tự cho mình đúng kẻ khác sai mà thuyết dạy Bồ-đề.
“Này Di-lặc! Kẻ ngu si ấy vì tự cao kiêu mạn nên tự cho mình hơn Phật, hủy báng kinh điển Đại thừa do Phật thuyết dạy, nói rằng đó là thuyết của Thanh văn Tiểu thừa.”
Khi ấy, Đức Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề:
[38] “Không nên vì người có tri kiến phân biệt nhị nguyên
[39] mà nói pháp Bát-nhã ba-la-mật.”
Tu-bồ-đề bạch Phật: “Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Theo lời Phật dạy là đúng như vậy.”
Phật dạy: “Như vậy, này Tu-bồ-đề! Người bố thí với tâm không vướng mắc gọi là Bồ-đề.”
Tu-bồ-đề thưa: “Đúng vậy, bạch Thế Tôn!”
Phật dạy: “Tu-bồ-đề! Người bố thí không tự khen mình chê người khác gọi là Bồ-đề.
Tu-bồ-đề thưa: “Đúng vậy, bạch Thế Tôn!”
Phật dạy: “Này Tu-bồ-đề! Ông hãy xem, nếu kẻ ngu si chấp có tự ngã và quan niệm về ngã,
[40] không biết hổ thẹn,
[41] luyến ái thân thuộc, tham cầu mạng sống, thích nhận của người khác, nên biết rằng kẻ đó chuyên tạo nghiệp xấu ác.”
Đức Phật lại bảo Bồ Tát Di-lặc: “Này Di-lặc! Bồ Tát đối với tất cả các pháp, đối với hết thảy các pháp của hàng Bồ Tát đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với hết thảy các pháp của hàng Duyên giác cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với hết thảy các pháp của hàng Thanh văn cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với hết thảy các pháp của phàm phu cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với hết thảy các pháp phiền não cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với hết thảy các pháp dứt mất cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với những điều khó tinh tấn cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với những việc thị phi cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với sự tạo tác hay không tạo tác cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với những điều lo sợ hay không lo sợ cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với những việc có hoặc không cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với tâm hay chẳng phải tâm cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với sự nhận biết hay không nhận biết cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với nghiệp hay chẳng phải nghiệp cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với việc thiện hay bất thiện cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với sự an ổn hay không an ổn cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với sự giải thoát hay không giải thoát cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với việc tu tập hay không tu tập cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với việc đúng pháp hay chẳng đúng pháp cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với sự tĩnh lặng hay tán loạn cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với sự giả dối hay chân thật cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với việc có lòng tin hay không có lòng tin cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với niệm hiền thiện hay niệm bất thiện cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Đối với sự trụ yên hoặc không trụ yên cũng đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Như vậy, Bồ Tát đối với hết thảy các pháp đừng sinh tâm khiếp sợ.
“Này Di-lặc! Ta thuở xưa tu các pháp không sợ sệt như vậy nên thành tựu Chánh giác, có thể rõ biết hết thảy cảnh giới trong tâm chúng sinh, nhưng đối với chỗ rõ biết đó không khởi sinh tướng rõ biết. Ta dùng chỗ chứng biết đó mà tùy căn cơ giảng thuyết, có thể khiến cho các Bồ Tát nghe pháp đạt được ấn Quang minh đà-la-ni; nhờ được pháp ấn này nên vĩnh viễn không còn thối chuyển. Nếu đối với pháp này không rõ biết như thật, lời giảng thuyết không khéo léo linh hoạt thì không bao giờ thành tựu Vô thượng Bồ-đề.
“Di-lặc! Khi ta vì chúng sinh trong bốn cõi thiên hạ
[42] thuyết giảng pháp này, nhờ sức thần của Phật nên mỗi chúng sanh đều thấy như đức Như Lai Thích-ca vì riêng mình thuyết pháp. Như thế dần lên cho đến cõi trời A-ca-ni-trá,
[43] các chúng sinh trên đó cũng cho rằng: ‘Đức Như Lai riêng vì ta thuyết giảng.’ Từ một cõi bốn thiên hạ như vậy, cho đến khắp thế giới đại thiên cũng đều như vậy, mỗi chúng sinh đều tự nghĩ: ‘Đức Như Lai Thích-ca chỉ sinh ở cõi ta, chỉ riêng vì ta chuyển Đại pháp luân.’
[44]
“Này Di-lặc! Ta dùng sức phương tiện lớn lao như thế, có thể ở trong vô lượng vô biên thế giới, thường vào sáng sớm quán sát khắp các chúng sinh, có những ai đáng được hóa độ để vì họ thuyết pháp; buổi trưa và buổi chiều luôn dùng pháp nhãn bình đẳng quán sát chúng sinh, vì chúng sanh thuyết hết thảy các pháp ở thế giới của họ. Như thế, trong vô số cảnh giới chư Phật có các chúng sinh, Bồ Tát đang tu học nên tu như vậy.
“Nếu kẻ ngu si kia đối với những lời Phật dạy lại hủy báng chánh pháp, sai lầm bám chấp chỗ hiểu biết của mình cho là chân thật. Nếu hủy báng chánh pháp ắt là không tin Phật; do nghiệp xấu ác này phải đọa vào địa ngục, chịu đủ mọi thứ khổ não, vĩnh viễn không được nghe chánh pháp.
“Lại nữa, Di-lặc! Ông nên thọ trì giáo pháp sâu kín của Như Lai, dùng phương tiện khéo léo rộng vì người khác giảng thuyết.”
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ Tát Phước Quang Bình Đẳng, Bồ Tát Vô Nghi Hoặc, Bồ Tát Định Phát Tâm, Bồ Tát Diệu Tâm Khai Ý, Bồ Tát Quang Minh, Bồ Tát Hoan Hỷ Vương, Bồ Tát Vô Úy, Bồ Tát Tâm Niệm Biến Đáo Vô Biên Phật Sát, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Hương Tượng, Bồ Tát Diệt Nhất Thiết Ác Nghiệp, Bồ Tát Trụ Định, Bồ Tát Bách Thiên Công Đức Trang Nghiêm, Bồ Tát Diệu Âm Viễn Văn, Bồ Tát Nhất Thiết Trí Bất Vong, Bồ Tát Đại Danh Viễn Chấn Bảo Tràng Trang Nghiêm, Bồ Tát Cầu Nhất Thiết Pháp, Bồ Tát Trụ Phật Cảnh Giới, Bồ Tát Nguyệt Quang Trang Nghiêm, Bồ Tát Nhất Thiết Thế Gian Đại Chúng Trang Nghiêm… những vị Đại Bồ Tát như thế cùng bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy, đúng vậy! Đúng thật như lời dạy của bậc thánh. Chúng con đi về phương đông vượt qua các cõi Phật nhiều như số cát của sáu mươi con sông Hằng, đến chỗ các đức Phật, cung kính lễ bái nơi hết thảy mọi cõi Phật, chỉ thấy duy nhất đức Như Lai Thích-ca xuất hiện ở đời. Chúng con trong bảy ngày đi khắp mười phương, cũng chỉ thấy đức Như Lai Thích-ca xuất hiện ở đời, không thấy Phật nào khác. Đi khắp mọi nơi rồi mới quay về cõi này để nghe và thọ nhận chánh pháp.”
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Nay ông hãy quán sát kỹ, trí tuệ Như Lai không thể nghĩ bàn, cảnh giới Như Lai cũng không thể nghĩ bàn. Pháp vô đẳng đẳng như thế là pháp Như Lai, kẻ ngu si kia lại nói rằng: ‘Chỉ riêng pháp Bát-nhã ba-la-mật là hạnh Như Lai, là hạnh Bồ Tát, là hạnh cam lộ.’ Người nói như thế là trái nghịch với chánh pháp.
“Vì sao vậy? Pháp hành của Bồ Tát rất khó trọn đủ. Thực hành không bám chấp là hạnh Bồ Tát; thực hành ngã và vô ngã là hạnh Bồ Tát; thực hành pháp không là hạnh Bồ Tát; thực hành vô tướng là hạnh Bồ Tát…
“Văn-thù-sư-lợi! Những pháp thực hành như thế là hạnh Bồ Tát. Bồ Tát đang tu học nên thọ trì như vậy. Như kẻ ngu si kia ôm lòng tà kiến, nên biết rằng kẻ ấy không hiểu được pháp của ta.
“Văn-thù-sư-lợi! Bồ Tát các ông nên giữ gìn thân miệng, đối với các pháp bất thiện đừng buông thả phóng túng; giữ tâm kiên cố khiến cho không thối chuyển. Vì chúng sinh thuyết pháp trọn đủ, cũng nên tự thân mình trụ yên trong chánh pháp.
“Ta từ lâu xa a-tăng-kỳ kiếp đã thành tựu trọn đủ Vô thượng Bồ-đề, dùng phương tiện khéo léo thuyết giảng rộng rãi, khiến cho chúng sinh được xa lìa các cảnh giới xấu ác.
“Văn-thù-sư-lợi! Nếu có kẻ ngu si hủy báng Chánh pháp vi diệu tức là hủy báng Phật, cũng là hủy báng Tăng.
“Lại có kẻ nói: ‘Pháp này là đúng; pháp kia là sai.’ Người nói như vậy cũng gọi là hủy báng pháp.
“Lại có kẻ nói: ‘Pháp này là vì Bồ Tát thuyết; pháp kia là vì Thanh văn thuyết.’ Người nói như vậy cũng gọi là hủy báng pháp.
“Lại có kẻ nói: ‘Điều này Bồ Tát nên học; điều này Bồ Tát không nên học.’ Người nói như vậy cũng gọi là hủy báng pháp.
“Lại có kẻ nói: ‘Phật quá khứ đã diệt, Phật vị lai chưa đến, Phật hiện tại không trụ, chỉ riêng ta đạt được pháp đà-la-ni.’ Người nói như vậy cũng gọi là hủy báng pháp. Do hủy báng pháp nên nói rằng mình đạt được đà-la-ni, đó là pháp không thanh tịnh.
“Đối với vị pháp sư chân chánh mà hủy báng sự tu hành của vị ấy.
“Hủy báng pháp sư là tuy có trí tuệ hiểu biết nhưng không làm theo đúng pháp;
“Lại hủy báng pháp sư là thực hành trái nghịch với đạo;
“Lại hủy báng pháp sư là thân không trì giới;
“Lại hủy báng pháp sư là tâm không trí tuệ;
“Lại hủy báng pháp sư là ý không hiểu rõ sáng suốt;
“Lại hủy báng pháp sư là nói năng không có biện tài;
“Lại đối với những điều Như Lai giảng thuyết, tự mình trong lòng không tin nhận, nói rằng: ‘Kinh này đúng, kinh này sai; kệ này có trong kinh, kệ này không có trong kinh; pháp này đáng tin, pháp này không đáng tin.’
“Thấy người thuyết giảng chánh pháp lại sai lầm đưa ra luận thuyết khác, đối với người đến nghe chánh pháp thì gây chướng ngại.
“Lại nói rằng: ‘Đây là thực hành, đây không phải thực hành; đây là thành tựu, đây không phải thành tựu; đây là hợp thời, đây là không hợp thời.’ Những lời nói như thế đều gọi là hủy báng pháp.
“Lại nữa, Văn-thù-sư-lợi! Nếu Thanh văn thuyết pháp, hoặc Bồ Tát thuyết pháp, nên biết rằng đều là do sức hộ niệm từ oai thần của Như Lai, khiến cho các Bồ Tát, Thanh văn… thuyết pháp như vậy.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Như kẻ ngu si kia, đối với Phật hiện đang tại thế mà còn sinh tâm hủy báng, huống chi sau khi Phật diệt độ thì những pháp sư thọ trì pháp Phật làm sao không bị hủy báng? Vì sao vậy? Vì đó là quyến thuộc của ma. Nên biết rằng những kẻ phỉ báng ấy sẽ phải đọa vào các cảnh giới xấu ác.
“Như kẻ ngu si kia tham cầu lợi dưỡng để nuôi sống thân quyến, đối với chánh pháp của Như Lai trong lòng không hề tin tưởng, lại còn phá hoại giáo pháp của Như Lai. Thân quyến của kẻ ngu si ấy mang tâm bè phái, đến nhà các bà-la-môn, trưởng giả để nói lời khen ngợi kẻ ngu si kia: ‘Người ấy đối với ý nghĩa giáo pháp có thể rõ biết nhận hiểu; người ấy rõ biết căn cơ, ý muốn người khác để tùy theo đó khéo léo thuyết giảng.’ Họ nhận tài vật do người khác tin tưởng cúng dường mà không chút hổ thẹn. Do tội hủy báng chánh pháp nên chính kẻ ngu ấy và thân quyến đều phải đọa vào địa ngục.
“Văn-thù-sư-lợi! Ta chẳng bao giờ vì những người không có niềm tin mà thuyết giảng hạnh Bồ Tát;
“Ta cũng không vì những người có đời sống gia đình còn tham lam vướng mắc mà thuyết giảng pháp thanh tịnh;
“Ta không vì những người có quan điểm phân biệt
[45] mà thuyết giảng pháp giải thoát.
“Ta không vì những người có quan điểm cực đoan
[46] mà thuyết giảng pháp thoát khổ;
“Ta không vì những người ưa thích đời sống thế tục mà thuyết giảng pháp thanh tịnh chân thật.
[47]
“Này Văn-thù-sư-lợi! Ta đối với các pháp môn nhiều như cát sông Hằng, dùng tâm không vướng mắc mà vì người thuyết giảng; lại cũng đối với các pháp môn nhiều như cát sông Hằng, dùng tâm vướng mắc mà vì chúng sinh thuyết giảng.
“Nếu có chúng sinh ưa thích lẽ không, ta vì họ thuyết giảng pháp không;
“Nếu có chúng sinh ưa thích trí tuệ, ta vì họ thuyết giảng pháp trí tuệ;
“Nếu có chúng sinh ưa thích không hình tướng, ta vì họ thuyết giảng pháp không hình tướng;
“Nếu có chúng sinh ưa thích có hình tướng, ta vì họ thuyết giảng pháp có hình tướng;
“Nếu có chúng sinh ưa thích tâm từ mẫn, ta vì họ nói pháp từ mẫn;
“Nếu có chúng sinh ưa thích thuyết nhân duyên, ta vì họ nói pháp nhân duyên;
“Nếu có chúng sinh ưa thích thuyết không nhân duyên, ta vì họ nói pháp không có nhân duyên.
[“Đối với tất cả chúng sanh, ta thuyết dạy rằng:] ‘Đây là pháp có oai nghi, đây là pháp không oai nghi; đây là pháp không, đây là pháp có; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi; đây là pháp nhiếp thọ, đây là pháp che đậy; đây là pháp phàm phu, đây là pháp thánh nhân; đây là pháp hình sắc, đây là pháp bất thiện; đây là pháp của người ngu si, đây là pháp an định…’”
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Các pháp như thế đều là đạo Bát-nhã ba-la-mật. Những lời nói ra của kẻ ngu si kia không y theo giáo pháp thanh tịnh chân thật của Như Lai, hủy báng chánh pháp của Phật.”
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Theo lời Phật dạy, kẻ ngu si như thế do trước đây đã gần gũi bạn xấu ác, nên đời này mới tự thân khởi sinh sự hủy báng [Chánh pháp]. Như vậy, bạch Thế Tôn, phải nhờ nơi nhân duyên gì mới có thể tránh được tội lỗi này?”
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Ta thuở xưa trong suốt bảy năm, ngày đêm sáu thời
[48] sám hối những tội nghiệp nặng nề đã tạo ra từ thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
[49] Từ đó về sau mới được thanh tịnh; trải qua mười kiếp nữa thì đạt được pháp nhẫn.
[50]
“Này Văn-thù-sư-lợi! Nên biết rằng kinh này là thuộc Bồ Tát thừa,
[51] có thể giúp người chưa giác ngộ đạt được giác ngộ. Nếu nghe thuyết giảng kinh này mà không tin nhận, thì do nhân hủy báng đó sẽ phải đọa vào những cảnh giới xấu ác. Các Bồ Tát ở đây phải thọ nhận sáng suốt giáo pháp của ta, về sau mới có thể vì người khác mà thuyết giảng. Thọ trì như vậy có thể xa lìa các cảnh giới xấu ác.”
Đức Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi: “Có bốn pháp bình đẳng, Bồ Tát nên học. Những gì là bốn? Thứ nhất là Bồ Tát bình đẳng đối với tất cả chúng sinh; thứ hai là bình đẳng đối với hết thảy các pháp; thứ ba là bình đẳng đối với quả vị Bồ-đề; thứ tư là bình đẳng khi thuyết pháp.
“Như vậy là bốn pháp bình đẳng, Bồ Tát nên rõ biết. Bồ Tát rõ biết rồi mới vì chúng sinh thuyết giảng. Nếu có người tin nhận thì xa lìa được các cảnh giới xấu ác; nếu người không tin thì sẽ phải đọa vào cảnh giới xấu ác. Nếu thiện nam, thiện nữ nào trụ yên trong bốn pháp này, nên biết rằng người ấy sẽ không đọa vào các cảnh giới xấu ác.
“Lại có bốn pháp nữa. Thế nào là bốn? Thứ nhất là đối với chúng sinh tâm không thối chuyển;
[52] thứ hai là đối với các pháp sư không khinh chê hủy báng; thứ ba là đối với các bậc có trí tuệ không sinh tâm báng bổ; thứ tư là đối với lời dạy của các đức Như Lai thường khởi tâm tôn trọng. Bốn pháp như thế, nếu thiện nam, thiện nữ nào có thể khéo tu học thì không bao giờ phải đọa vào các cảnh giới xấu ác.
“Lại nữa, Văn-thù-sư-lợi! Ví như có Bồ Tát dùng bảy món báu
[53] tràn đầy trong các cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, mỗi ngày đều cung kính cúng dường lên chư Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng; lại có người thiện nam hoặc thiện nữ có thể đối với kinh điển Đại thừa Phương quảng vi diệu như thế này, thậm chí chỉ một câu kinh hay một bài kệ, tụng đọc ba lần, sẽ đạt được công đức nhiều hơn công đức cúng dường kia.
“Nếu có người trì tụng kinh này, công đức đạt được còn gấp nhiều lần hơn thế nữa; ví như có người tu hành đủ sáu pháp ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, thì công đức đạt được cũng không thể sánh bằng.
“Văn-thù-sư-lợi! Như kinh điển này, danh xưng và ý nghĩa đều rộng lớn không gì so sánh được, Đại Bồ Tát các ông nên khéo tu học, thọ trì, tụng đọc, rộng vì chúng sinh phân biệt giảng nói.”
Lúc bấy giờ, tất cả đại chúng cho đến các vị Đại Bồ Tát đến từ mười phương đều cùng nhau bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, đúng vậy! Như lời Phật đã dạy, chúng con xin thọ trì.”
Khi giáo pháp này được thuyết giảng, các vị Bồ Tát nhiều như số cát của ba mươi con sông Hằng đạt được pháp nhẫn vô sinh; các vị Bồ Tát nhiều như số cát của bảy mươi con sông Hằng đạt được địa vị không còn thối chuyển đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; lại có hết thảy đại chúng trong sáu mươi ba ức trăm ngàn na-do-tha thế giới đại thiên được nghe Phật thuyết dạy sinh tâm hoan hỷ, trong tám mươi kiếp sẽ vượt qua dòng sinh tử, lại đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không còn thối chuyển, trải qua sáu mươi ba kiếp nữa sẽ thành tựu trọn vẹn quả Vô thượng Bồ-đề.
Các Bồ Tát ấy cùng hết thảy đại chúng, chư thiên, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân, nghe Phật thuyết dạy đều hết sức vui mừng, kính lễ vâng làm theo.
________________________________
CHÚ THÍCH
[1] Bản dịch tương đương của kinh này là Phật thuyết kinh Tế chư phương đẳng học (佛說濟諸方等學經) do ngài Trúc Pháp Hộ (竺法護) dịch, hiện còn trong Đại Chánh tạng, Tập 9, kinh số 274.
[2] Núi Kỳ-xà-quật (H. 耆闍崛山, S. Gṛdhrakūṭa), tên núi nằm ở phía đông bắc thành Vương Xá, thủ đô nước Ma-kiệt-đà, cũng được gọi là núi Linh Thứu (靈鷲山) hay Linh sơn (靈山).
[3] Ma-già-đà (摩伽陀), tức Ma-yết-đà (H. 摩揭陀, S. Magadha), cũng phiên âm là Ma-kiệt-đà (摩竭陀), là một vương quốc ở miền Trung Ấn, đặt kinh đô ở thành Vương Xá dưới sự cai trị của vua Tần-bà-sa-la.
[4] Những con số ở đây nên được hiểu như để biểu trưng cho số lượng rất nhiều, không mang ý nghĩa thông kê chính xác.
[5] Nguyên bản là “入如法三昧 - nhập Như pháp tam-muội”, đúng là nêu tên một pháp tam-muội, nhưng chưa tìm thấy tên tam-muội này ở kinh điển nào khác. Tam-muội (H. 三昧, S. samādhi) là tên gọi để chỉ chúng các pháp thiền định.
[6] Nguyên bản là “三千大千世界 - tam thiên đại thiên thế giới” nhưng không phải chỉ 3.000 thế giới mà chỉ là một thế giới đại thiên duy nhất. Chữ “tam thiên” được dùng để chỉ cấu trúc hình thành của một đại thiên thế giới là “ba lần ngàn”, vì cứ 1.000 tiểu thế giới là 1 tiểu thiên thế giới; 1.000 tiểu thiên thế giới là 1 trung thiên thế giới; 1.000 trung thiên thế giới là 1 đại thiên thế giới. Cách dịch trước đây thành “ba ngàn đại thiên thế giới” thật ra là một cách diễn đạt không chính xác.
[7] Cõi trời Tịnh cư, tức Ngũ Tịnh cư thiên (H. 五淨居天, S. Śuddhāvāsa), là 5 tầng trời nằm trong Tứ thiền thiên thuộc Sắc giới, bao gồm Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiện kiến thiên, Thiện hiện thiên và Sắc cứu cánh thiên.
[8] Long vương (H. 龍王, S. nāgarāja), chúa loài rồng, một trong 8 bộ chúng, bao gồm: chư thiên, loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la và ma-hầu-la-già.
[9] Dạ-xoa (H. 夜叉, S. yakṣa), một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là dược-xoa (藥叉), là loài quỷ hung dữ, có thể ở trên mặt đất hoặc giữa không trung, có thể dùng uy thế làm hại con người nhưng cũng có khi theo bảo hộ Phật pháp, người tu tập Phật pháp.
[10] A-tu-la (H. 阿修羅, S. asura), một trong 8 bộ chúng, được gọi là phi thiên vì có thần thông như chư thiên nhưng kém về phước đức. A-tu-la là loài nhiều sân hận, thường gây chiến tranh với chư thiên. A-tu-la được xếp vào một trong lục đạo, bao gồm: trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
[11] Ca-lâu-la (H. 迦樓羅, S. garuḍa), một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là ca-lâu-la điểu (迦樓羅鳥) hay kim sí điểu (金翅鳥) vì là loài chim lớn có cánh màu vàng. Do nghiệp lực nên loài này lấy loài rồng làm thức ăn.
[12] Khẩn-na-la (H. 緊那羅, S. kiṃnara), là một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là nhạc thần, được xem là thần phục vụ âm nhạc cho Thiên đế.
[13] Cõi trời Hữu Đỉnh (H. 有頂天, S. Akaniṣṭha-deva), tên phiên âm là A-ca-ni-trá, cũng gọi là Sắc cứu cánh thiên (色究竟天), là tầng trời cao nhất thuộc Sắc giới.
[14] Càn-thát-bà (H. 乾闥婆, S. gandharva), là một trong 8 bộ chúng, chỉ dùng hương thơm làm thức ăn nên được gọi là hương thần, cùng với khẩn-na-la phục vụ âm nhạc cho Thiên đế.
[15] Ma-hầu-la-già (H. 摩睺羅伽, S. mahoraga), Hán dịch là đại mãng thần (大蟒神), là loài rắn thần rất lớn, được xếp vào một trong 8 bộ chúng.
[16] Tướng lưỡi rộng dài, tức quảng trường thiệt tướng (H. 廣長舌相, S. prabhūta-jihvatā), là một trong 32 tướng tốt của Phật, do đã trải qua vô số kiếp chỉ nói lời chân thật. Vì thế, tướng này cũng là biểu hiện cho việc chư Phật không nói lời hư dối, chỉ nói ra những lời chân thật.
[17] Bồ Tát Di-lặc (H. 彌勒菩薩, S. Maitreya), Hán dịch là Từ Thị (慈氏), cũng có tên là A-dật-đa (H. 阿逸多, S. Ajita), Hán dịch là Vô Năng Thắng (無能勝), là vị Bồ Tát được đức Phật Thích-ca Mâu-ni thụ ký sẽ thành Phật tiếp theo ngài. Trước khi đản sinh thành Phật, Bồ Tát Di-lặc hiện đang thuyết pháp ở cung trời Đâu-suất (兜率天). Bản kinh này sử dụng xen kẽ 2 danh xưng Di-lặc và A-dật-đa. Để giúp độc giả dễ nhận hiểu, chúng tôi sẽ chuyển dịch thống nhất bằng tên gọi Di-lặc.
[18] Pháp nhãn (H. 法眼, S. dharma-cakṣu), là cách nhận hiểu, nhìn nhận các pháp thế gian đúng theo chánh pháp, không sai lệch. Do vậy, đây là cách nói khác nhưng cũng có nghĩa là để chánh pháp được trụ thế lâu dài.
[19] Ở đây lược nói về Thập hiệu (十號) của chư Phật, nói đầy đủ là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
[20] Đại thừa Phương quảng Tổng trì (大乘方廣總持): trong tên gọi này, Đại thừa và Phương quảng đều được dùng chung trong nhiều tên kinh Đại thừa, dùng để phân biệt với hệ thống các kinh Tiểu thừa. Riêng chữ “tổng trì” (總持) là Hán dịch từ chữ đà-la-ni (H. 陀羅尼, S. dhāraṇī), mang nghĩa là thâu tóm, nắm giữ được tất cả. Trong Giáo tông thì “tổng trì” có nghĩa là năng lực nhận hiểu, ghi nhớ được tổng quát về giáo nghĩa; còn trong Mật tông thì đà-la-ni được gọi là chân ngôn hay thần chú vì có khả năng giúp ghi nhớ hoặc chuyển tải được năng lực tinh yếu của một pháp môn. Ở đây, tổng trì được dùng theo nghĩa của Giáo tông.
[21] Các cảnh giới xấu ác: kinh văn thường dùng ác đạo (惡道) hay ác thú (惡趣), đều chỉ chung các cảnh giới xấu ác, chúng sanh phải chịu nhiều khổ đau, bao gồm địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, đôi khi cũng bao gồm cả a-tu-la.
[22] Phát tâm Bồ-đề: là cách nói tắt của “phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”, tức là phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phát tâm này là phát tâm cầu quả vị Phật để cứu độ hết thảy chúng sanh, không phải vì sự giải thoát cho riêng mình. Đây là bước khởi đầu quan trọng của người tu tập theo Đại thừa.
[23] Niết-bàn Vô dư (H. 無餘涅槃, S. nirupadhiśeṣa-nirvāṇa), cũng gọi là Niết-bàn Vô dư y (無餘依涅槃), chỉ trạng thái Niết-bàn không còn phụ thuộc vào thân do năm uẩn tạo thành, tức là đã dứt trừ hết thảy mọi phiền não, nghiệp quả. Niết-bàn Vô dư là trạng thái Niết-bàn rốt ráo của chư Phật, khác với Niết-bàn chưa rốt ráo gọi là Niết-bàn Hữu dư (有餘涅槃).
[24] Năm sự uế trược, tức 5 sự uế trược, không thanh tịnh, gọi chung là ngũ trược (H. 五濁, S. pañca kaṣāyāḥ), bao gồm: 1. Kiếp trược (H. 劫濁, S. kalpa-kaṣāya), là những uế nhiễm nói chung của kiếp sống như bệnh tật, nạn đói, chiến tranh, thiên tai, môi trường ô nhiễm…; 2. Phiền não trược (H. 煩惱濁; S. kleśa-kaṣāya), là những uế nhiễm do phiền não khởi sinh, như tham dục, sân hận…; 3. Chúng sinh trược (H. 眾生濁, S. sattva-kaṣāya), là những uế nhiễm của chúng sanh do tập khí như xấu ác, không tin nhân quả, thường tạo ác nghiệp… ; 4. Kiến trược (H. 見濁, S. dṛṣṭi-kaṣāya), là những uế nhiễm trong nhận thức, hiểu biết của chúng sanh, tức là các tà kiến, hiểu biết sai trái…; 5. Mạng trược (H. 命濁, S. āyus-kaṣāya), là sự uế nhiễm về mạng sống, tức là tuổi thọ ngắn ngủi, không chắc chắn, có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào.
[25] Vô đẳng đẳng (H. 無等等, S. asamasama): dùng để mô tả chung về năng lực, công đức, trí tuệ… của chư Phật. Vì là vượt hơn tất cả, không ai có thể so sánh được nên gọi là vô đẳng; vì là giữa Phật với Phật thì bình đẳng như nhau nên gọi là vô đẳng đẳng.
[26] Nguyên bản là “ tác nhị thuyết - 作二說”, tức là đưa ra các luận thuyết phân biệt khác nhau.
[27] Nguyên bản là “示教利喜 - thị giáo lợi hỷ”, chỉ 4 giai đoạn tuần tự giáo hóa. Thị là chỉ bày, làm cho thấy biết, nhận hiểu; giáo là dạy dỗ, giảng giải phương pháp tu tập; lợi là nói lúc người tu tập đã đạt được lợi ích lớn lao từ sự tu tập, nên có ý nghĩa khuyến khích tiếp tục chuyên cần; hỷ là nói lúc người tu tập thành tựu nên đạt được niềm vui chân thật, tự chứng nghiệm được chánh pháp.
[28] Nguyên bản nói “住菩提道 - trụ Bồ-đề đạo”, tức là phát tâm Bồ-đề, tin theo Đại thừa, để phân biệt với những người tin nhận giáo pháp Thanh văn.
[29] Vì chữ “Tịnh Mạng” (淨命) có nghĩa là “sống đời thanh tịnh”, nên vị này dựa theo đó mà chê bai rằng tỳ-kheo Tịnh Mạng sống không thanh tịnh, không đúng như tên gọi.
[30] Nguyên bản là “毀謗他故 - hủy báng tha cố”, trong ngữ cảnh này không phải chỉ người khác mà là chỉ cho tỳ-kheo Tịnh Mạng đã nói ở trước.
[31] Nguyên bản là “等正覺 - Đẳng Chánh Giác”, cũng tức là Chánh đẳng Chánh giác, chỉ quả vị Phật.
[32] Nguyên bản đoạn này là: “後共汝等同時安住 菩提之 道。 - hậu cộng nhữ đẳng đồng thời an trụ Bồ-đề chi đạo” (sau cùng với các ông đồng thời trụ yên trong đạo Bồ-đề.) Ở đây nói “cùng với các ông” nhưng khó hiểu vì không nói ai cùng với các ông. Tham khảo đoạn tương đương trong bản dịch Phật thuyết kinh Tế chư Phương đẳng học (佛說濟諸方等學經) thì chép rằng: “諸族姓子前世之時亦與我俱同發道意。- Chư tộc tánh tử tiền thế chi thời diệc dữ ngã câu đồng phát đạo ý.) (ĐCT, T9, kinh số 274, tr.376b, d.15-16) Dựa theo câu này thì “đồng phát đạo ý” là thay cho “đồng thời an trụ Bồ-đề chi đạo”, và như vậy người “cùng với các ông” trong câu này nói “dữ ngã” (cùng với ta) tức là tiền thân đức Phật Thích-ca vào thuở ấy.
[33] Nguyên bản là “自侵欺- tự xâm khi”, nghĩa là tự xâm hại, xem thường chính mình. Tham khảo kinh Tế chư phương đẳng học nói là “自毀損 - tự hủy tổn” (tự làm tổn hại chính mình) có vẻ như phù hợp với ngữ cảnh kinh văn hơn.
[34] Nguyên bản là “發一毛歡喜之心 - phát nhất mao hoan hỷ chi tâm” (phát tâm hoan hỷ như một sợi lông), ý nói chỉ là mảy may, rất nhỏ nhoi.
[35] Nguyên bản là “báng tha” (謗他) nhưng không phải nói “hủy báng người khác”, mà đang nhắc lại trường hợp cụ thể trong câu chuyện trước, tức là hủy báng tỳ-kheo Tịnh Mạng, do vậy mới nhắc lại việc chịu khổ trong 70 kiếp.
[36] Nguyên bản là “不起斷常 - bất khởi đoạn thường”, chỉ việc sinh khởi 2 quan niệm cực đoan sai lầm, hoặc cho rằng sau khi chết là hết (đoạn kiến), hoặc cho rằng bản ngã này thường tồn vĩnh viễn (thường kiến).
[37] Vua Ca-thi-ca (迦尸迦王), là một tiền thân của đức Phật Thích-ca khi còn tu hành đạo Bồ Tát.
[38] Tu-bồ-đề (H. 須菩提, S. Subhūti), Hán dịch là Thiện Hiện (善現) hoặc Không Sanh (空生), một trong 10 đại đệ tử của Phật, được Phật khen ngợi là người thấu hiểu về nghĩa Không giỏi nhất, gọi là Đệ nhất Giải không (解空第一).
[39] Nguyên bản dùng “二見人 - nhị kiến nhân”, chỉ người có quan điểm phân biệt theo cách nhìn nhị nguyên, luôn thấy có tốt xấu, cao thấp, đoạn thường v.v… không nhận biết được thật tướng của tất cả các pháp đều là không, không có tự tánh riêng.
[40] Nguyên bản là “我我見 - ngã, ngã kiến”, tức là chấp có một tự ngã, từ đó khởi sinh quan niệm về ngã.
[41] Nguyên bản là “無慚無愧 - vô tàm vô quý”, không có sự xấu hổ và tự thẹn. Tàm (H. 慚, S. hrī) là tự nhận biết việc mình làm là xấu ác nên xấu hổ; quý (H. 愧, S. apatrāpya) là khi người khác biết việc mình làm là xấu ác nên hổ thẹn.
[42] Tứ thiên hạ (四天下): bốn cõi thiên hạ. Theo thế giới quan trong kinh luận Phật giáo, thế giới này có 4 cõi thiên hạ là Uất-đan-việt châu nằm về phương bắc, Diêm-phù-đề châu nằm về phương nam, Ngưu-hóa châu nằm về phương tây, Phất-bà-đề châu nằm về phương đông.
[43] Cõi trời A-ca-ni-trá (H. 阿迦尼吒天, S. Akaniṣṭha-deva), tức là cõi trời Hữu đỉnh, cao nhất trong cõi Sắc giới, cũng tức là cao nhất trong cả thế giới Ta-bà, vì trên nữa là cõi Vô sắc thì không có hình sắc.
[44] Chuyển Đại pháp luân (轉大法輪): chỉ việc đức Phật thuyết pháp Đại thừa. Khi Phật thuyết pháp lần đầu ở thành Ba-la-nại, giảng pháp Tiểu thừa thì gọi là Chuyển Pháp luân. Pháp luân nghĩa là “bánh xe pháp”, chuyển pháp luân là làm cho bánh xe quay, được dùng để ví dụ cho việc đức Phật thuyết giảng giáo pháp, làm cho Chánh pháp vận hành.
[45] Nguyên bản dùng “二見 - nhị kiến”, chỉ quan điểm phân biệt chấp thường hoặc chấp đoạn, chấp có hoặc chấp không. Những người có quan điểm phân biệt này không nhìn nhận thực tại đúng thật mà phụ thuộc vào định kiến đã có của mình.
[46] Nguyên bản dùng “一見 - nhất kiến”, chỉ quan điểm cứng nhắc nghiêng về một bên, do đó là cực đoan, luôn cho rằng chỉ có niềm tin của mình là duy nhất đúng đắn.
[47] Đoạn này đức Phật nêu rõ việc không thuyết pháp với những người nghe không thích hợp, vì Phật rõ biết pháp đó không thích hợp với căn cơ, ý muốn của người nghe cho nên họ sẽ khó tiếp nhận.
[48] Ngày đêm sáu thời: theo cách phân chia thời gian ngày xưa, một ngày 24 giờ được chia thành 6 thời.
[49] Việc sám hối mà đức Phật nói ở đây liên quan đến câu chuyện tiền thân của ngài là tỳ-kheo Đạt-ma đã phạm tội hủy báng.
[50] Pháp nhẫn (法忍): là nói tắt của vô sanh pháp nhẫn (無生法忍), chỉ trạng thái của người tu tập nhờ thấy rõ được tất cả các pháp đều không sinh ra, không diệt mất nên có thể nhẫn chịu được tất cả những điều trái ý.
[51] Bồ Tát thừa (菩薩乘): cũng tức là Đại thừa, khác với Thanh văn thừa và Duyên giác thừa là thuộc về Tiểu thừa.
[52] Vì Bồ Tát phát tâm Bồ-đề là để cứu độ tất cả chúng sanh, nên việc không thối chuyển ở đây là nói không thối chuyển tâm nguyện độ sinh.
[53] Bảy món báu: bao gồm vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não.