Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Ưu Bà Tắc Giới Kinh [優婆塞戒經] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Ưu Bà Tắc Giới Kinh [優婆塞戒經] »» Bản Việt dịch quyển số 3


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » English version (1) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.67 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.84 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Tại Gia Bồ Tát Giới

Kinh này có 7 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
Việt dịch: Thích Pháp Chánh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

13. Thâu Phục Đệ Tử
G2. Hóa độ, thâu nhiếp chúng sinh
H1. Thiện Sinh hỏi
Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn, Bồ tát sau khi đầy đủ hai pháp trang nghiêm, làm sao thâu phục đệ tử của mình?”
H2. Đức Như Lai trả lời
I1. Nêu rõ tổng quát, dùng pháp Tứ nhiếp thâu phục đệ tử
- Thiện nam tử! Bồ tát nên dùng pháp Tứ nhiếp thâu phục, khiến cho họ xa rời điều ác, tăng trưởng pháp lành. Một lòng dạy dỗ, xem họ như đứa con một của mình mà không cầu sự trả ơn, không vì tiếng tăm, không vì lợi dưỡng, cũng không cầu sự vui cho chính mình.
I2. Tùy có đức hay không mà thu phục đệ tử có lợi hay hại
Thiện nam tử! Bồ tát nếu không dùng những pháp như trên mà thâu phục đệ tử thì đó là người tệ ác, là Bồ tát giả danh, không phải Bồ tát thực nghĩa, là chiên đà la, là người nhơ bẩn, phá hoại Phật pháp. Chư Phật mười phương sẽ không thương tưởng những người như vậy. Thiện nam tử! Bồ tát phải nên tùy lúc mà dạy dỗ khuyên răn. Tùy lúc, nghĩa là lúc đệ tử khởi tâm tham, sân, si. Lúc họ khởi tâm tham, nên dạy họ những phương pháp đối trị, giúp cho họ trừ diệt tâm tham. Trừ diệt sân, si cũng giống như thế. Kế đó dạy họ học Mười hai phần giáo, thiền định, tam muội, phân biệt nghĩa lý thâm sâu, điều phục thân tâm, dạy họ tu pháp Lục niệm, không được buông lung. Khi đệ tử bệnh phải chăm sóc cho họ, mà không sinh tâm chán ghét. Nhẫn chịu những lời mắng nhiếc, hủy báng, nhục mạ, cùng sự thống khổ của thân tâm. Giả sử đệ tử bị khổ nạn, phải cứu vớt làm họ hết khổ, tiêu trừ tâm tệ ác
nghi ngờ của họ. Khéo biết căn tính của đệ tử là lợi căn, trung căn hay độn căn. Dạy đệ tử độn căn khiến cho họ sinh lòng tin đối với Phật pháp, dạy đệ tử trung căn khiến cho họ thấm nhuần Phật pháp, dạy đệ tử lợi căn khiến cho họ được giải thoát. Nếu Bồ tát siêng năng dạy dỗ đệ tử như vậy gọi là Bồ tát thực nghĩa, là người lành, là hoa Phân đà lợi, là hương tượng trong loài người, là đại thuyền sư.
Thiện nam tử! Chẳng thà thọ ác giới, trong một ngày giết vô lượng chúng sinh, quyết không nuôi dưỡng đệ tử ác mà mình không thể dạy dỗ. Vì sao? Phạm giới ác chỉ liên lụy đến riêng mình, nuôi đệ tử ác mà không dạy dỗ, có thể khiến cho vô lượng chúng sinh làm ác, có thể khiến cho chúng sinh hủy báng vô lượng pháp lành vi diệu, phá hòa hợp Tăng, khiến cho nhiều chúng sinh phạm tội ngũ nghịch, do đó, còn tệ hại hơn tội ác luật nghi.
I3. Nêu rõ riêng biệt sự thâu nhiếp đệ tử của hàng tại gia và xuất gia
J1. Nêu rõ tổng quát xuất gia tại gia
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng, một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia có hai loại đệ tử: một là xuất gia, hai là tại gia. Bồ tát tại gia chỉ có một loại đệ tử tại gia.
J2. Nêu rõ riêng biệt xuất gia, tại gia
K1. Xuất gia giáo hóa hai chúng
L1. Giáo hóa đệ tử xuất gia
Bồ tát xuất gia dạy đệ tử xuất gia Mười hai phần giáo, tùy chỗ phạm tội, dạy họ sám hối. Lại dạy họ tám loại trí tuệ: Một là trí biết pháp, hai là trí biết nghĩa, ba là trí biết thời, bốn là trí biết đủ, năm là trí biết chính mình, sáu là trí biết người khác, bảy là trí biết căn cơ chúng sinh, tám là trí khéo phân biệt. Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát nếu có thể dạy dỗ, điều phục đệ tử xuất gia như thế, cả thầy lẫn trò đều
được vô lượng lợi ích. Thầy trò như thế có thể hưng long Tam bảo. Vì sao? Vì đệ tử đó biết tám trí rồi, có thể siêng năng cúng dường sư trưởng, hòa thượng, bậc trưởng lão có đức hạnh, biết nghe lời lành, siêng năng đọc tụng, lại hay giảng nói Phật pháp, tâm không phóng túng, điều phục chúng sinh, thường hay chăm sóc những người bệnh khổ, bố thí cho người bần cùng, thiếu thốn.
L2. Giáo hóa đệ tử tại gia
Thiện nam tử! Bồ tát xuất gia nếu có đệ tử tại gia cũng nên dạy pháp không phóng dật. Không phóng dật tức là tu hành Chánh pháp, cúng dường cha mẹ, cùng các bậc sư trưởng, hòa thượng, trưởng lão, những bậc có đức hạnh, cùng đem đến sự an vui cho họ. Đem tâm chí thành thọ giới, không dám hủy phạm. Nhận vật của người gởi, không được chuyên quyền. Có thể nhận chịu sự hung hăng của người khác.
Không bao giờ nói lời ác cùng lời vô nghĩa. Thương xót chúng sinh. Đối với quốc vương, trưởng giả, quan lớn, thường sinh tâm cung kính, sợ sệt. Có thể điều phục vợ con, quyến thuộc, phân biệt người thân, kẻ thù. Không khinh thường chúng sinh, trừ diệt sự kiêu mạn, không gần bạn ác, ăn uống có chừng mực, giảm trừ lòng tham, ít muốn biết đủ, không lân la đến chỗ tranh cãi, ngay lúc vui đùa cũng không nói lời ác. Như vậy gọi là pháp không phóng dật. Bồ tát xuất gia nếu nuôi đệ tử tại gia, trước nên dạy dỗ, răn nhắc pháp không phóng dật, thường cùng với đệ tử chia xẻ nỗi vui buồn. Nếu đệ tử tại gia nghèo khổ thiếu thốn, ngoại trừ sáu vật của người xuất gia ra, nếu họ cần dùng vật gì, đều nên cung cấp cho họ mà không sẻn tiếc. Nếu họ có bệnh tật, nên đi tìm những vật mà họ cần dùng. Lúc săn sóc bệnh cho họ, không nên sinh tâm nhàm chán. Nếu Bồ tát tự mình không có của, nên đi khắp nơi tìm kiếm; nếu tìm không được, nên
mượn vật Tam bảo. Sau khi lành bệnh, người đệ tử tại gia phải trả lại gấp mười lần, như pháp của nước Xá Vệ của vua Ba Tư Nặc. Nếu người đệ tử tại gia không thể trả được, nên bảo họ rằng: “Ông nay mượn của Tam bảo rất nhiều, nếu không thể trả được, ông phải nên siêng năng tu tập quả Tu đà hoàn cho đến quả A la hán, hoặc phát tâm Bồ đề, hoặc dạy được mọi người sinh lòng tin trong sạch đối với Phật pháp, hoặc diệt trừ được ác kiến sâu nặng của họ.” Nếu Bồ tát xuất gia dạy đệ tử tại gia những sự việc như thế, cả hai thầy trò đều sẽ được vô lượng lợi ích.
K2. Tại gia giáo hóa một chúng
L1. Sư trưởng giáo hóa đệ tử
Thiện nam tử! Bồ tát tại gia nếu nuôi dưỡng đệ tử tại gia, trước tiên cũng nên dạy pháp không phóng dật. Không phóng dật có nghĩa là cúng dường cha mẹ, sư trưởng, hòa thượng, người già cả, người có đức hạnh; lại cũng cung cấp cho anh
em, bạn bè, quyến thuộc, người sắp đi xa, hoặc người nơi xa đến. Khi ăn, nên đem thức ăn đến phân phát đầy đủ cho kẻ tôi tớ, sau đó tự mình thọ dụng. Lại làm cho họ tin tưởng Tam bảo, chia xẻ sự khổ vui với họ. Không bao giờ tự hưởng một mình. Tùy thời ban thưởng cho họ, không để họ đói lạnh. Không bao giờ đánh chưởi, hoặc dùng roi gậy làm họ khổ sở. Nên dùng lời mềm dịu mà dạy dỗ khuyên răn. Nếu họ có bệnh, phải nên săn sóc. Những gì mà họ cần, nên đi tìm cho. Phải dạy cho họ những việc thế gian. Khi họ lập gia thất, nên đi tìm chỗ xứng đáng, đừng chọn chỗ thấp hèn. Dạy cho họ năm bộ kinh của Đức Như Lai. Thấy người ly tán, nên làm cho họ hòa hợp. Đã hòa hợp xong, nên làm cho họ tăng trưởng lòng thiện. Đối với tất cả người xuất gia, trong đạo cũng như ngoài đạo, tùy ý cúng dường, không nên lựa chọn. Vì sao? Trước nên dùng pháp bố thí dẫn dụ, sau đó mới điều phục họ. Đem sáu pháp hòa kính mà khuyến dụ họ. Nếu
đệ tử vì cầu tiền của mà kinh doanh, làm ruộng, hay làm việc cho chính phủ, Bồ tát dạy họ phải nên chuyên tâm làm cho đúng pháp. Đã được tiền của, phải dạy họ giữ tiền đúng cách, ham thích bố thí, tu tập phước đức. Thấy đệ tử làm đúng như lời dạy, tâm sinh hoan hỷ. Đây gọi là pháp không phóng dật. Bồ tát tại gia nếu có thể dạy dỗ đệ tử tại gia như thế, thầy trò đều được vô lượng lợi ích.
L2. Nhà vua giáo hóa dân chúng
Thiện nam tử! Nếu Bồ tát tại gia được thế lực làm vua nước lớn nên bảo hộ dân chúng, coi như con một. Dạy họ xa lìa việc ác, tu tập pháp lành. Thấy người làm ác, tuy trừng phạt khiển trách, nhưng không sát hại họ. Thâu thuế dân chúng, chỉ thâu một phần tài sản của họ. Thấy người sân giận, dạy họ tu pháp nhẫn nhục và không buông lung. Đem lời nhỏ nhẹ dạy dỗ dân chúng, lại khéo phân biệt
người lành người dữ. Không tùy tiện tra hỏi người có tội. Nếu có tiền của, tùy khả năng mà phân phát cho nhân dân. Tùy sức đọc tụng năm bộ kinh. Khéo giữ gìn thân mạng, của cải. Có thể dạy dỗ chúng sinh, không cho làm ác. Thấy người nghèo khổ, sinh lòng thương xót. Đối với lãnh thổ của mình, thường tu pháp biết đủ. Quyết định không tin lời sàm tấu, hoặc hủy báng. Không dùng điều phi pháp bóc lột nhân dân. Như pháp bảo vệ quốc gia, xa lìa bảy điều ác: một là không cờ bạc, hai là không săn bắn, ba là không rượu chè, bốn là không háo sắc, năm là không nói lời thô, sáu là không nói lời đâm thọc, bảy là không bóc lột tài sản nhân dân. Thường hay cúng dường những bậc xuất gia. Có thể làm cho người trong nước đối với nhà cầm quyền khởi tâm cung kính. Tin tưởng nhân quả. Thấy người hơn mình, không sinh lòng ghen ghét. Thấy mình hơn người, cũng không sinh lòng kiêu mạn. Hay nghĩ việc trả ơn. Thọ ơn nhỏ, đền ơn lớn. Có
thể điều phục sáu căn, làm sạch ba nghiệp. Khen ngợi người lành, khiển trách người ác. Trước khi nói lời gì đều suy nghĩ kỹ. Lời nói nhỏ nhẹ. Nếu tự mình không đủ thế lực, có thể lệ thuộc người khác một cách đúng pháp. Lúc chiếm nước người, không dùng bốn thứ binh. Khi chúng sinh sợ hãi, có thể cứu hộ. Thường dùng pháp Tứ nhiếp thâu phục chúng sinh. Khéo phân biệt tất cả pháp tướng. Đối với người không tin, dùng lời dịu dàng mà nhiếp phục họ.
I4. Kết luận Bồ tát tại gia thù thắng
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia nuôi dạy hai loại đệ tử không có gì khó, Bồ tát tại gia nuôi dạy đệ tử tại gia, đây mới thực khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.
14. Thọ Giới
D4. Thọ trì giới hạnh
E1. Thọ giới
F1. Thiện Sinh hỏi
Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Bồ tát tại gia làm thế nào để thọ được giới Ưu bà tắc?”
F2. Thế Tôn trả lời
G1. Phương tiện trước khi thọ giới
H1. Cúng dường
- Thiện nam tử! Bồ tát tại gia nếu muốn được thọ giới Ưu bà tắc, trước hết nên theo thứ lớp cúng dường lễ lạy sáu phương: đông, tây, nam, bắc, dưới và trên.
Phương đông tức là cha mẹ. Nếu có người cúng dường cha mẹ quần áo, thức ăn, giường chiếu, thuốc men, phòng nhà, của báu, cung kính, lễ bái, ca ngợi, tôn trọng, v.v..., người đó là người cúng
dường phương đông. Cha mẹ cũng phải đem năm việc đền đáp: Một là hết lòng thương yêu; hai là không bao giờ lừa dối con cái; ba là giao hết của cải; bốn là gả con cho nhà dòng dõi; năm là dạy con rành rõi việc đời.
Phương nam tức là sư trưởng. Nếu có người cúng dường sư trưởng: quần áo, thức ăn, giường chiếu, thuốc men, tôn trọng, ca ngợi, cung kính, lễ bái, thức khuya dậy sớm, học hỏi tu tập lời dạy hay của thầy, v.v..., người đó là người cúng dường phương nam. Sư trưởng cũng đem năm việc đền đáp: Một là dạy dỗ không để lãng phí thì giờ; hai là dạy hết những điều mình đã biết; ba là thấy học trò hơn mình, không sinh lòng ghen ghét; bốn là gởi gấm học trò đến những bậc thầy hay, bạn tốt; năm là khi chết, giao hết tài sản cho trò.
Phương tây tức là người vợ. Nếu có người cung cấp vợ mình: quần áo, thức ăn,
giường chiếu, thuốc men, anh lạc, đồ trang sức, v.v..., người đó là người cúng dường phương tây. Người vợ nên dùng mười bốn việc đền đáp: Một là làm bất cứ việc gì đều phải tận tâm; hai là thường siêng năng làm việc không biếng nhác; ba là làm bất cứ việc gì đều hoàn tất; bốn là làm việc đều nhanh chóng, không phí thì giờ; năm là thường chăm sóc khách khứa; sáu là quét dọn nhà cửa ngăn nắp; bảy là yêu kính chồng con, nói lời mềm dịu; tám là dùng lời nhỏ nhẹ dạy dỗ tôi tớ; chín là khéo giữ tiền của; mười là thức khuya dậy sớm; mười một là khéo léo trong việc nấu nướng; mười hai là khéo nghe lời dạy bảo; mười ba là khéo che lỗi cho chồng; mười bốn là khéo chăm sóc khi chồng đau bệnh.
Phương bắc tức là bạn lành. Nếu có người cúng dường bạn lành, tùy sức cung cấp, cung kính, nói lời mềm dịu, lễ bái, ca ngợi, v.v..., người đó là người cúng dường phương bắc. Bạn lành nên dùng bốn việc
báo đáp: Một là dạy dỗ tu tập pháp lành; hai là làm cho xa lìa pháp ác; ba là cứu giúp khi gặp sợ hãi; bốn là làm cho xa lìa sự phóng dật.
Phương dưới tức là tôi tớ. Nếu có người cung cấp quần áo, thức ăn, thuốc men cho tôi tớ, không đánh đập, mắng nhiếc họ, v.v..., người đó là người cúng dường phương dưới. Tôi tớ nên dùng mười việc báo đáp: Một là không làm điều lỗi; hai là không đợi sai bảo mới làm; ba là làm việc gì phải cho xong; bốn là làm nhanh chóng không để mất thì giờ; năm là chủ tuy nghèo khổ cũng không rời bỏ; sáu là dậy sớm; bảy là giữ gìn đồ đạc, không để lạc mất; tám là nhận ơn dù ít, đền đáp rất nhiều; chín là chí tâm kính mến; mười là khéo dấu tật xấu của chủ.
Phương trên tức là Sa môn, Bà la môn, v.v... Nếu có người cúng dường Sa môn, Bà la môn quần áo, thức ăn, nhà cửa,
thuốc men, cứu giúp khi họ lâm cảnh hiểm nguy, cúng dường thức ăn lúc họ đói khát, khéo che đậy lỗi lầm, cung kính, lễ bái, tôn trọng, khen ngợi công đức của họ, v.v..., người đó là người cúng dường phương trên. Bậc xuất gia nên đem năm việc báo đáp: Một là dạy dỗ làm sinh lòng tin; hai là dạy dỗ làm tăng trưởng trí tuệ; ba là dạy dỗ làm tăng trưởng bố thí; bốn là dạy giữ giới; năm là dạy cần phải học rộng. Nếu có người cúng dường sáu phương, người đó tăng trưởng tài sản, tuổi thọ, và có thể thọ trì giới Ưu bà tắc.
H2. Thỉnh cầu sự cho phép
Thiện nam tử! Nếu có người thọ giới Ưu bà tắc vì muốn tăng trưởng của cải và tuổi thọ, trước hết họ phải hỏi ý kiến cha mẹ. Nếu cha mẹ đã bằng lòng, kế nên báo cho vợ con và người làm biết. Nếu vợ con tôi tớ đều bằng lòng, kế đó nên thưa với nhà vua. Nếu nhà vua đã cho phép, họ có
thể đến bất cứ vị xuất gia nào đã phát tâm Bồ đề, cúi đầu làm lễ, cung kính thưa rằng: “Kính bạch Đại đức, con là trượng phu, đầy đủ thân người nam, nguyện thọ giới Bồ tát Ưu bà tắc. Cúi xin Đại đức từ bi cho con thọ giới.”
H3. Hỏi đáp
I1. Hỏi già nạn
Lúc đó vị Tỳ kheo nên hỏi như sau: “Cha mẹ, vợ con, tôi tớ của ông và nhà vua đã cho phép chưa?”
Nếu người đó trả lời đã cho phép, nên hỏi tiếp: “Ông có thiếu nợ của Tam bảo hoặc của người khác hay không?”
Nếu trả lời không, nên hỏi tiếp: “Thân thể hay tâm thần của ông có bệnh hoạn gì không?”
Nếu trả lời không, nên hỏi tiếp: “Ông có phá hoại phạm hạnh của Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo ni hay không?”
Nếu trả lời không, nên hỏi tiếp: “Ông có tạo tội ngũ nghịch hay không?”
Nếu trả lời không, nên hỏi tiếp: “Ông có nghe trộm pháp hay không?”
Nếu trả lời không, nên hỏi tiếp: “Ông có phải là người hai căn, hoặc vô căn hay không? Ông có phá giới bát quan trai hay không? Khi cha mẹ đang bị đau bệnh, ông có bỏ đi mà không chăm sóc hay không? Ông có trộm cắp tài sản của hiện tiền Tăng? Nói đâm thọc? Nói lời thô ác? Đối với cha mẹ, chị em có làm điều loạn luân hay không? Có ở trước đại chúng nói dối hay không?”
I2. Thẩm xét sự chí thành
Nếu người ấy trả lời không, lúc ấy nên bảo họ rằng: “Giới Ưu bà tắc rất khó giữ. Vì sao? Vì giới ấy làm nền tảng cho giới Sa di, giới Tỳ kheo, và giới Bồ tát, nhẫn đến làm nền tảng cho sự chứng đắc Vô thượng Bồ đề. Người nào chí tâm thọ trì giới Ưu bà tắc, người đó sẽ được vô lượng lợi ích. Nếu như hủy phạm giới này, thì sẽ trong vô lượng đời sinh vào ba đường ác, chịu vô lượng khổ não. Nay ông muốn được vô lượng lợi ích, vậy ông có thể chí tâm thọ trì giới này hay không?”
I3. Khai thị về sự quy y và giới pháp
Nếu trả lời có thể, nên nói tiếp: “Giới Ưu bà tắc này rất khó thọ trì. Nếu đã quy y Phật, thà mất thân mạng, quyết không quy y trời thần quỷ vật, v.v... Nếu đã quy y Pháp, thà mất thân mạng, quyết không quy y kinh sách ngoại đạo. Nếu đã quy y Tăng, thà mất thân mạng, quyết không quy y
thầy tà, bạn ác. Ông có thể chí tâm quy y Tam bảo như thế hay không?”
Nếu trả lời có thể, nên nói tiếp: “Thiện nam tử! Giới Ưu bà tắc này rất khó thọ trì, nếu có người nào quy y Tam bảo, người ấy phải bố thí cho chúng sinh sự không sợ. Người nào có thể bố thí sự không sợ cho chúng sinh, người ấy sẽ được giới Ưu bà tắc, nhẫn đến chứng đắc Vô thượng Bồ đề. Ông có thể bố thí sự không sợ như thế cho chúng sinh hay không?”
Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp: “Có năm điều làm cho tuổi thọ tài sản của chúng sinh tổn giảm: Một là sát hại, hai là trộm cắp, ba là tà dâm, bốn là nói dối, năm là uống rượu.
Tất cả chúng sinh, nhân vì sát hại sinh mạng mà đời này mang quả báo xấu xí, ốm yếu, tiếng xấu bêu rêu, tuổi thọ
ngắn ngủi, tiền của hao mòn, quyến thuộc chia lìa, bị các bậc Hiền thánh chê trách, người khác không tin dùng, người khác làm ác, mình bị tội lây. Đây là quả báo đời này. Khi bỏ thân này rồi, sẽ bị đọa địa ngục, chịu nhiều sự khổ não, đói lạnh, đời sống dài lâu trong địa ngục, xấu xí ốm yếu, tiếng xấu đồn xa. Đây là quả báo đời sau. Nếu được thân người, hình mạo xấu xí, yểu mạng nghèo khổ. Vì sức mạnh ác nghiệp của người đó ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà ngũ cốc hoa quả đều bị tổn hoại và mọi người chung quanh đều chịu nhiều tai họa.
Thiện nam tử! Người ưa trộm cắp cũng sẽ bị quả báo hình mạo xấu xí, ốm yếu, tiếng xấu đồn xa, yểu mạng, tiền của tiêu hao, quyến thuộc chia lìa, người khác mất của thường hay nghi mình; tuy gần gũi người khác nhưng họ không tin cậy, lại thường bị các bậc Hiền thánh quở trách. Đây gọi là quả báo hiện tại. Sau khi bỏ
thân này sẽ bị đọa vào địa ngục, nhận thọ hình mạo xấu xí, tiếng xấu đồn xa, đói khát, khổ não, nhận chịu sự thống khổ lâu dài. Đây gọi là quả báo đời sau. Nếu được sinh làm người, bần cùng thiếu thốn, nếu được tiền của đều bị mất mát. Cha mẹ, anh em, vợ con đều ghét bỏ. Thân thường chịu sự khổ sở, trong tâm lại thường sầu não không nguôi. Vì sức mạnh của nghiệp lực của người đó ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà mọi người chung quanh tuy ăn uống đầy đủ, vẫn không có được sức lực đầy đủ. Ác báo của người đó đem tai họa đến tất cả mọi người.
Thiện nam tử! Nếu có người ưa nói dối, người ấy sẽ bị quả báo ăn nói thô tục, hình thù xấu xí, tuy nói lời chân thực nhưng người khác vẫn không tin. Mọi người đều chán ghét, không muốn thấy mặt. Đây gọi là quả báo hiện đời. Sau khi mất thân này sẽ bị đọa vào địa ngục nhận chịu sự thống khổ dữ dội của đói khát và
thiêu đốt. Đây gọi là quả báo đời sau. Nếu được sinh làm người, sứt môi méo miệng, tuy nói lời chân thực, người khác không tin tưởng và tìm cách lánh xa. Dù nói Chánh pháp, người khác cũng không thích nghe. Vì sức mạnh của nghiệp lực của người ấy ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà sự sinh sản của các loài vật đều bị giảm bớt.
Thiện nam tử! Nếu có người ưa uống rượu, người ấy hiện đời hay mất mát tiền của, thân tâm đều nhiều bệnh tật, tiếng xấu đồn xa, tổn giảm trí tuệ, tâm không biết hổ thẹn, dung mạo xấu xí, thân thể ốm yếu, thường bị mọi người chê trách, xa lánh, không khéo tu pháp lành. Đây là ác báo hiện đời của sự uống rượu. Sau khi mất thân này sẽ bị đọa vào địa ngục nhận chịu sự thống khổ dữ dội của đói khát và thiêu đốt. Đây gọi là quả báo đời sau. Nếu được sinh làm người, tâm thường cuồng loạn, không thể hệ niệm tư duy pháp lành. Vì
sức mạnh của ác nghiệp của người ấy ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà tất cả đồ vật đều mau hư hoại.
Thiện nam tử! Nếu có người ưa tà dâm, người ấy không thể giữ gìn thân mình cũng như thân người khác, và thường bị người khác nghi ngờ. Làm mọi việc gì, cũng đều gian dối. Bất cứ lúc nào cũng thường nhận chịu sự khổ não. Tâm thường tán loạn, không thể tu pháp lành. Hay mất mát của cải, vợ con đều chán ghét, tuổi thọ ngắn ngủi. Đây là quả báo hiện đời của sự tà dâm. Sau khi mất thân này, sẽ bị đọa vào địa ngục. Chịu vô lượng thống khổ của sự ốm yếu, đói khát, dung mạo xấu xí, v.v..., trong thời gian lâu dài. Đây gọi là quả báo đời sau. Nếu sinh làm thân người, hình mạo xấu xí, ốm yếu, ăn nói thô tục, mọi người đều xa lánh, không thể giữ gìn vợ con. Vì nghiệp lực của người ấy ảnh hưởng, tất cả những vật bên ngoài đều không được tự tại. Thiện nam tử!
Ông có thể chân thực xa lìa năm pháp ác này hay không?”
I4. Nói rộng sự giáo giới
Nếu người ấy trả lời có thể xa lìa, thì nên bảo rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, có bốn pháp không nên làm. Bốn pháp đó là gì? Không nên gian dối vì những nhân duyên sau: Một là tham lam, hai là giận dữ, ba là ngu mê, bốn là khiếp sợ. Ông có thể xa lìa bốn ác pháp này hay không?”
Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, có năm chỗ không nên tới lui: Một là chỗ của người hàng thịt, hai là chốn lầu xanh, ba là chỗ bán rượu, bốn là chỗ của vua, năm là chỗ của chiên đà la. Ông có thể lánh xa năm chỗ như thế hay không?”
Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, có năm việc không nên làm: Một là không được bán sinh vật, hai là không buôn bán vũ khí, ba là không buôn bán thuốc độc, bốn là không được bán rượu, năm là không được ép dầuii. Ông có thể lìa xa năm việc này hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, có ba việc không nên làm: Một là không nên làm nghề đan lưới, hai là không nên làm nghề thợ nhuộm, ba là không nên làm nghề thuộc da. Ông có thể xa lánh ba việc như thế hay không?”
Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, có hai việc không nên làm: Một là cờ bạc, hai là những việc ca hát nhảy múa, v.v... Ông có thể xa lánh hai việc như thế hay không?”
Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, không nên gần gũi bốn hạng người: Một là những người cờ bạc, hai là những người rượu chè, ba là những người gian dối, bốn là những người bán rượu. Ông có thể xa lánh bốn hạng người đó hay không?”
Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, không nên làm những việc phóng dật. Thế nào gọi là phóng dật? Nghĩa là không tu pháp lành trong những thời gian sau đây: khi lạnh, nóng, đói, khát, khi ăn cơm no, buổi sáng, buổi tối, lúc sợ hãi, lúc làm việc, lúc dự định công việc, lúc mất, lúc được, lúc vui, lúc có giặc cướp, lúc lúa gạo mắc mỏ, lúc bệnh hoạn, khi còn trai tráng, lúc già nua, khi giàu có, lúc nghèo nàn, lúc làm việc để sinh sống. Ông có thể xa lánh sự phóng dật như vậy hay không?”
Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, trước hết phải học những kiến thức thế gian, sau khi đã thông đạt, theo đúng pháp mà làm việc kiếm tiền. Nếu có tiền của nên chia làm bốn phần: một phần dùng để nuôi sống cha mẹ, vợ con, quyến thuộc và chính mình, hai phần dùng để kinh doanh, một phần còn lại để dành, phòng khi có việc cần dùng. Ông có thể làm được bốn việc như vậy hay không?”
Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp: “Thiện nam tử! Không nên giao gửi tiền bạc cho bốn chỗ: Một là người già, hai là người ở nơi xa xăm, ba là người xấu ác, bốn là người quyền thế. Những nơi như vậy, không nên giao gửi tiền của. Ông có thể thực hiện được không?”
Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, nên xa lánh bốn hạng người ác. Một là hạng
người ưa nói lỗi người khác, hai là hạng người ưa nói điều tà ngụy, ba là hạng người khẩu Phật tâm xà, bốn là hạng người nói nhiều làm ít. Ông có thể xa lánh bốn hạng người như thế không?”
H4. Trắc nghiệm quán xét
Nếu trả lời có thể, nên bảo người đó trong vòng sáu tháng, phải gần gủi, hầu hạ một bậc xuất gia có trí tuệ. Bậc trí tuệ đó cũng phải quán sát bốn uy nghi của người cầu thọ giới.
G2. Chánh thức truyền thọ giới pháp
H1. Truyền thọ tổng quát tam quy ngũ giới
Nếu biết người cầu giới có thể y theo lời dạy mà thực hành, sau khi hết sáu tháng, nên triệu tập chúng Tăng đủ số hai mươi người, làm pháp yết ma.
Bậc trí tuệ bạch yết ma: “Các vị Đại đức Tăng, xin chú ý nghe! Nay có (.....),
đến giữa chúng Tăng cầu thọ giới Ưu bà tắc. Trong sáu tháng nay, bốn uy nghi đều thanh tịnh, chí tâm thọ trì giới pháp thanh tịnh trang nghiêm. Người này là bậc đại trượng phu, thân người nam đầy đủ. Nếu chúng Tăng chấp nhận, xin tất cả im lặng. Còn vị nào không đồng ý, xin lên tiếng.”
Nếu chúng Tăng đã chấp nhận, bậc trí tuệ nên nói như sau: “Thiện nam tử! Chú ý nghe cho rõ ràng. Chúng Tăng đã hòa hợp, cho phép ông thọ trì giới Ưu bà tắc. Giới này là cội gốc của tất cả pháp lành. Người nào có thể thành tựu pháp này, sẽ đắc quả Tu đà hoàn, nhẫn đến quả A na hàm. Nếu như phá giới, sau khi mất đi, sẽ đọa vào ba đường ác.
Thiện nam tử! Giới Ưu bà tắc không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì sau khi thọ giới này, dù hưởng thọ ngũ dục, nhưng vẫn không chướng ngại quả Tu đà hoàn, cho đến quả A na hàm. Vì thế nên gọi là không
thể nghĩ bàn. Ông có thể vì thương xót chúng sinh mà thọ quả này hay không?”

Nếu trả lời có thể, lúc ấy bậc trí giả nên vì người ấy mà nói pháp Tam quy y. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như thế. Sau khi thọ pháp Tam quy, được gọi là ưu bà tắc. Tiếp đến, bậc trí tuệ nên bảo rằng: “Thiện nam tử! Lắng nghe cho kỹ. Đức Như Lai Chánh Giác nói giới Ưu bà tắc có nhiều trình độ thọ giới khác biệt, hoặc một phần, hoặc nửa phần, hoặc không có phần, hoặc nhiều phần, hoặc toàn phần. Nếu như ưu bà tắc, sau khi thọ Tam quy, không thọ năm giới, thì gọi là ưu bà tắc không thọ giới; nếu thọ Tam quy giữ một giới, gọi là ưu bà tắc một phần; nếu thọ Tam quy giữ hai giới, gọi là ưu bà tắc thiểu phần. Sau khi thọ Tam quy giữ hai giới, nếu phá một giới, thì được gọi là không có phần. Nếu thọ Tam quy giữ ba giới, bốn giới, gọi là ưu bà tắc nhiều phần; nếu thọ Tam quy giữ năm giới, gọi là ưu bà tắc toàn phần.
Nay ông muốn thọ giới ưu bà tắc một phần, hay giới ưu bà tắc nhiều phần?” Sau khi người thọ giới nói lên ý mình, bậc trí tuệ sẽ y theo sở thích mà thọ giới.
H2. Khai thị riêng biệt các giới trọng khinh
I1. Giới tướng của sáu giới trọng
J1. Chánh thức thuyết minh
Sau khi đã thọ giới, nên dạy tiếp rằng: “Giới pháp của ưu bà tắc, có sáu giới trọng. Thiện nam tử! (1) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng, ngay đến loài trùng kiến cũng không được giết hại. Nếu phạm giới giết hại, hoặc bảo người giết, hoặc tự mình giết, sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, còn không thể chứng được Noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ nhất. (2) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng,
ngay đến một đồng tiền cũng không được trộm cắp. Nếu phạm giới trộm cắp sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, còn không thể chứng được Noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ hai. (3) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng cũng không được đại vọng ngữ: “Tôi đã chứng được pháp quán bất tịnh”, ..., hoặc: “Tôi đã chứng được thánh quả A na hàm.” Nếu phạm giới đại vọng ngữ sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, còn không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ ba. (4) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng cũng không được tà dâm. Nếu phạm giới
tà dâm sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, còn không thể chứng được Noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ tư. (5) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng cũng không được rao nói tội lỗi của bốn chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Nếu phạm giới rao nói tội lỗi của bốn chúng sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, còn không thể chứng được Noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ năm. (6) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng cũng không được bán rượu. Nếu phạm giới bán rượu sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, còn không thể chứng được Noãn pháp,
huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ sáu.
J2. Kết luận tán thán
Thiện nam tử! Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới có thể hết lòng giữ gìn không cho hủy phạm thì sẽ đắc được thánh quả như trên. Thiện nam tử! Giới Ưu bà tắc là ngọc anh lạc trang nghiêm, là hương thơm vi diệu xông khắp mọi nơi, là quỹ luật cho pháp thiện, ngăn chận các pháp bất thiện, là kho tàng diệu bảo vô thượng, là chủng tính của dòng dõi tôn quí, là nơi đại tịch tĩnh, là vị cam lộ, là đất sinh ra thiện pháp. Chỉ cần chân thực phát tâm thọ giới đã được vô lượng vô biên lợi ích như vậy, huống chi là nhất tâm giữ gìn không cho hủy phạm.
I2. Hai mươi tám giới khinh
J1. Liệt cử
Thiện nam tử! Như Đức Phật đã dạy: (1) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (2) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, ham mê uống rượu thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (3) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, gặp người bệnh khổ, sinh tâm nhờm gớm, bỏ phế không chăm sóc thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (4) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, thấy người đến xin, không tùy sức mình mà bố thí ít nhiều, để cho người đến xin ra về tay không thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (5) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, gặp các vị
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc các vị ưu bà tắc thọ giới trước, không đứng dậy tiếp đón, lễ lạy thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (6) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, thấy Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di phạm giới bèn sinh tâm kiêu mạn, cho rằng mình hơn họ, họ không bằng mình thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (7) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, mỗi tháng không thọ sáu ngày Bát quan trai giới, không cúng dường Tam bảo thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (8) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, trong vòng bốn mươi dặm có chỗ giảng kinh thuyết pháp mà không đến nghe thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (9) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, thọ dụng
đồ dùng của chư Tăng, như ngọa cụ, giường, ghế, v.v..., thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (10) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, nghi nước có trùng mà vẫn cố ý uống thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (11) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, đi một mình trong chỗ nguy hiểm thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (12) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, một mình ngủ đêm tại chùa ni thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (13) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, vì tiền của mà đánh đập chửi rủa tôi tớ, hoặc người ngoài thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (14) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, đem thức ăn thừa bố thí
cho Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc ưu bà tắc, ưu bà di khác thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (15) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, nuôi dưỡng mèo, chồn thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (16) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, nuôi dưỡng voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, hoặc các loại súc vật khác, không chịu tịnh thí cho người chưa thọ giới thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (17) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, không chứa sẵn Tăng già lê, bình bát, tích trượng để cúng dường chúng Tăng thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (18) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, làm nghề canh tác sinh sống, không tìm chỗ nước sạch, đất cao ráo để trồng trọt thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm
sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (19) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, làm nghề mua bán; lúc bán hàng, một khi đã đồng ý giá cả, không được lật lọng, đem bán cho kẻ trả giá đắt hơn; lúc mua hàng, nếu thấy người bán cân lường gian lận, phải nói lỗi họ để họ sửa đổi. Nếu không làm như thế thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (20) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, hành dâm không đúng chỗ, không đúng thời thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (21) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, làm nghề thương mại, công nghiệp, v.v..., không chịu nộp thuế, hoặc khai thuế gian lận thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (22) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, vi phạm luật pháp quốc gia thì phạm tội sơ ý. Nếu không
khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (23) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, lúc lúa, trái cây, rau cải được mùa, không dâng cúng Tam bảo trước thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (24) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, Tăng già không cho phép thuyết pháp, khen ngợi mà vẫn cứ làm thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (25) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, ra đường đi trước các Tỳ kheo, sa di, v.v..., thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (26) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, trong lúc phân phối thức ăn cho chư Tăng, sinh tâm thiên vị, lựa những món ngon, nhiều hơn phần người khác để cúng dường thầy mình thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo
nghiệp sinh tử luân hồi. (27) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, nuôi tằm lấy tơ thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (28) Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới, đi đường gặp người bệnh, không tìm phương tiện chăm sóc, hoặc gửi gắm cho người khác chăm sóc thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
J2. Kết luận tán thán
Thiện nam tử! Nếu ưu bà tắc nào có thể chí tâm thọ trì giới pháp này, người ấy là hoa Phân đà lợi trong hàng ưu bà tắc, là hương thơm vi diệu trong hàng ưu bà tắc, là hoa sen trong sạch trong hàng ưu bà tắc, là trân báu chân thực trong hàng ưu bà tắc, là bậc đại trượng phu trong hàng ưu bà tắc.
I3. Kết luận Bồ tát tại gia thù thắng
Thiện nam tử! Đức Phật có dạy: Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia gọi là Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni; Bồ tát tại gia gọi là ưu bà tắc hay ưu bà di. Bồ tát xuất gia trì giới xuất gia, điều này không khó. Bồ tát tại gia trì giới tại gia, điều này mới khó. Tại sao như vậy? Bởi vì Bồ tát tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.
15. Tịnh Giới
E2. Hạnh trì giới
F1. Trì giới thanh tịnh
G1. Thiện Sinh hỏi
Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Sau khi thọ giới rồi, làm thế nào để giữ giới thanh tịnh?”
G2. Thế Tôn trả lời
H1. Khai thị phương pháp giữ tịnh giới
Đức Phật bảo Thiện Sinh: “Thiện nam tử! Có ba pháp làm cho giới hạnh thanh tịnh: Một là tin Phật Pháp Tăng; hai là tin sâu nhơn quả; ba là có tâm hiểu biết.
Lại có bốn pháp: Một là tâm từ; hai là tâm bi; ba là tâm không tham lam; bốn là làm ơn cho những người chưa làm ơn cho mình.
Lại có năm pháp: Một là đem điều thiện làm lợi ích cho kẻ oán thù; hai là thấy người lâm nạn, tìm cách cứu vớt; ba là vui vẻ bố thí dù người xin chưa hỏi; bốn là bố thí bình đẳng không phân biệt; năm là từ bi đối với tất cả, không phân biệt thân sơ.
Lại có bốn pháp: Một là không bao giờ tự khinh, cho rằng mình không thể được quả Bồ đề; hai là tâm ý kiên cố tu hành Phật đạo; ba là siêng năng tinh tiến tu tất cả thiện pháp; bốn là làm những việc lớn không bao giờ biết mỏi mệt hoặc hối hận.
Lại có bốn pháp: Một là tự học pháp lành, học xong đem dạy cho người; hai là xa lìa pháp ác, lại dạy cho người khác xa lìa; ba là khéo phân biệt các pháp thiện ác; bốn là đối với tất cả pháp, không sinh chấp trước.
Lại có bốn pháp: Một là biết tất cả pháp đều không có ngã và ngã sở; hai là biết tất cả nghiệp đều có quả báo; ba là biết pháp hữu vi đều là vô thường; bốn là biết từ khổ sinh lạc, từ lạc sinh khổ.
Lại có ba pháp: một là đối với chúng sinh, tâm không chấp trước; hai là dùng tâm bình đẳng ban sự vui cho chúng sinh; ba là làm đúng như lời mình nói.
Lại có ba pháp: một là có thể bố thí nhân của sự vui cho chúng sinh; hai là việc làm không cần sự trả ơn; ba là tự biết mình quyết định sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại có ba pháp: một là vì chúng sinh mà nhận chịu rất nhiều khổ não; hai là chịu khổ cho chúng sinh theo thứ lớp; ba là chịu khổ cho chúng sinh không gián đoạn. Tuy nhận chịu sự khổ như vậy, tâm không bao giờ hối tiếc.
Lại có ba pháp: một là tuy chưa trừ được tâm tham, mà có thể bố thí vật mình yêu thích; hai là tuy chưa trừ được tâm sân, mà có thể nhẫn chịu sự ác độc của người khác; ba là tuy chưa trừ được tâm si, mà có thể phân biệt được pháp thiện ác.
Lại có ba pháp: một là biết rành phương tiện dạy dỗ chúng sinh, làm họ xa lìa pháp ác; hai là biết rành phương tiện dạy dỗ chúng sinh, làm họ tu hành pháp thiện; ba là dạy dỗ chúng sinh không bao giờ nhàm mỏi, hối tiếc.
Lại có ba pháp: một là khi giúp cho chúng sinh xa lìa thân khổ, không hề luyến tiếc thân mạng mình; hai là khi giúp chúng sinh xa lìa tâm khổ, không hề luyến tiếc thân mạng mình; ba là khi giúp chúng sinh tu hành pháp thiện, không hề luyến tiếc thân mạng mình.
Lại có ba pháp: một là lo việc người trước việc mình; hai là lo việc người, không quản ngày giờ; ba là khi lo việc người không lo lắng, sợ hãi.
Lại có ba pháp: một là tâm không đố kỵ; hai là thấy người khác sung sướng, tâm sinh vui mừng; ba là tâm lành tương tục không gián đoạn.
Lại có ba pháp: một là thấy việc lành của người dù ít, tâm không bao giờ quên; hai là nhận ơn của người dù ít, mong đền trả thật nhiều; ba là trong vô lượng đời, thọ nhận vô lượng khổ, nhưng tâm vẫn kiên cố, không có ý thoái lui.
Lại có ba pháp: một là tuy biết rõ nẻo sinh tử nhiều hiểm nạn, nhưng vẫn không xả bỏ tất cả những sự nghiệp cứu độ chúng sinh; hai là làm nơi nương tựa cho những chúng sinh chưa có nơi nương tựa;
ba là thấy chúng sinh ác, sinh lòng thương xót, không phiền trách lỗi lầm.
Lại có ba pháp: một là gần gũi bạn lành; hai là nghe pháp không nhàm chán; ba là hết lòng học hỏi những điều thiện tri thức dạy bảo. Lại có chín pháp: xa lìa ba pháp; trong ba thời không hối tiếc; bố thí bình đẳng cho ba loại chúng sinh.
Lại có bốn pháp, tức là từ, bi, hỷ, xả.
H2. Thời điểm được tâm thanh tịnh
Thiện nam tử! Nếu Bồ tát muốn dùng pháp lành như trên để thanh lọc tâm mình, cần phải ở trong hai thời: một là lúc Phật ra đời, hai là lúc Duyên giác ra đời. Thiện nam tử! Pháp lành của chúng sinh sinh từ ba nơi: một là nghe Chánh pháp, hai là tư duy Chánh pháp, ba là tu tập Chánh pháp. Pháp lành sinh ra do sự nghe và tư duy Chánh pháp, cần phải ở trong hai thời, còn
pháp lành sinh ra do sự tu tập, không cần phải như thế.
H3. Kết luận Bồ tát tại gia thù thắng
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia trì giới thanh tịnh, điều này không khó. Bồ tát tại gia trì giới thanh tịnh, điều này mới khó. Vì sao? Vì Bồ tát tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.”

16. Trừ Ác
F2. Dứt trừ các điều ác
G1. Hỏi đáp về sự trừ ác
Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Bồ tát sau khi thọ giới Ưu bà tắc, nếu vẫn còn những ác duyên bất tịnh cả trong lẫn ngoài thì phải làm thế nào để xa lìa?”

- Thiện nam tử! Nếu Bồ tát vẫn còn các ác duyên bất tịnh cả trong lẫn ngoài thì phải nên nhiếp tâm niệm Phật. Nếu người ấy chí tâm tu pháp niệm Phật thì sẽ xa lìa những ác duyên bất tịnh cả trong lẫn ngoài và đồng thời tăng trưởng từ bi trí tuệ.
G2. Hỏi đáp cách tu
H1. Hỏi cách tu
- Bạch Đức Thế Tôn! Phải tu cách nào?
H2. Trả lời niệm Phật
I1. Quán sát rộng đức hạnh của Phật
- Thiện nam tử! Nên quán Đức Như Lai có bảy sự thù thắng: một là thân thù thắng; hai là sống đúng như pháp thù thắng; ba là trí tuệ thù thắng; bốn là đầy đủ thù thắng; năm là chỗ làm thù thắng; sáu là không thể nghĩ bàn thù thắng; bảy là giải thoát thù thắng.
Thế nào là thân thù thắng? Thân của Đức Như Lai được trang nghiêm bởi ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Sức mạnh của mỗi ngón tay ngang hàng với sức mạnh của một vạn tám ngàn con hương tượng Y ba bát na. Chúng sinh ưa thích nhìn ngắm thân của Đức Như Lai không biết nhàm chán. Đây gọi là thân thù thắng.
Thế nào là sống như pháp thù thắng? Đức Như Lai đã tự được lợi ích, lại còn
thương xót, cứu tế, lợi ích vô lượng chúng sinh. Đây gọi là sống như pháp thù thắng.
Thế nào trí tuệ thù thắng? Đức Như Lai có bốn trí vô ngại mà hàng Thanh văn, Duyên giác không thể sánh kịp. Đây gọi là trí tuệ thù thắng.
Thế nào là đầy đủ thù thắng? Đức Như Lai đầy đủ công hạnh, thọ mạng, giới hạnh và tri kiến. Đây gọi là đầy đủ thù thắng.
Thế nào là chỗ làm thù thắng? Đức Như Lai Thế Tôn tu tập ba loại tam muội, chín loại thứ đệ định, không phải hàng Thanh văn, Duyên giác sánh kịp. Đây gọi là chỗ làm thù thắng.
Thế nào là không thể nghĩ bàn thù thắng? Đức Như Lai có sáu thứ thần thông, cũng không phải hàng Thanh văn, Duyên giác có thể sánh kịp. Như Mười lực, Bốn
vô sở úy, Đại bi, Ba niệm xứ, ..., gọi là không thể nghĩ bàn thù thắng.
Thế nào là giải thoát thù thắng? Đức Như Lai có đủ hai thứ giải thoát, diệt trừ trí chướng và phiền não chướng. Vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não, được tự tại với cả trí tuệ và nhân duyên. Đây gọi là giải thoát thù thắng. Bởi thế, trong khế kinh, Xá Lợi Phất đã từng tán thán Đức Như Lai có đầy đủ bảy pháp thù thắng.
Đức Như Lai từ lúc tu tập quán bất tịnh cho đến khi thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, từ giai đoại tu tập công đức trang nghiêm cho đến khi chứng quả giải thoát, đều vượt hơn hàng Thanh văn và Bích chi phật, cho nên gọi Đức Như Lai là đấng Chí tôn Vô thượng. Đức Như Lai Thế Tôn tu tập Không tam muội, Diệt định tam muội, Tứ thiền, từ bi, quán Mười hai nhân duyên đều là vì lợi ích chúng
sinh. Đức Như Lai Chánh giác không nói hai lời cho nên gọi là Như Lai. Từ lúc bắt đầu tu tập công đức trang nghiêm cho đến khi chứng thành đạo quả, đều giống như chư Phật quá khứ nên gọi là Như Lai. Vì được đầy đủ Chánh pháp vi diệu, có thể thọ nhận sự cúng dường của tất cả trời người nên gọi là Ứng cúng. Thấu rõ hai đế: thế đế và chân đế nên gọi là Chánh biến tri. Tu trì tịnh giới, đầy đủ tam minh nên gọi là Minh hạnh túc. Không còn thọ sinh trong ba cõi nên gọi là Thiện thệ. Thấu rõ hai thế giới: chúng sinh và vũ trụ nên gọi là Thế gian giải. Biết rõ phương tiện điều phục chúng sinh nên gọi là Điều ngự trượng phu. Có thể làm cho chúng sinh không còn sợ hãi, dùng phương tiện giáo hóa làm cho họ lìa khổ được vui nên gọi là Thiên nhân sư. Biết tất cả các pháp và công hạnh nên gọi là Phật. Có thể phá bốn thứ ma nên gọi là Thế Tôn. Hơn nữa, nên quán sát Đức Như Lai tu hành giới định tuệ đều là vì lợi ích chúng sinh. Trong vô
lượng đời, Ngài đã làm lợi ích cho người oán, người thân một cách bình đẳng. Ngài đã đoạn trừ tất cả phiền não và biết rõ rằng mỗi một chúng sinh, nhiều khi chỉ vì một phiền não, mà phải thọ khổ trong vô lượng kiếp. Đức Như Lai vì chúng sinh mà có thể bố thí những việc khó bố thí, nhẫn nhục những việc khó nhẫn nhục. Đức Phật có hai sự thanh tịnh: một là trang nghiêm thanh tịnh, hai là quả báo thanh tịnh. Do thế lực của hai nhân duyên thanh tịnh đó mà Đức Như Lai từ lúc sơ phát tâm, tu pháp Thập thiện, mười Ba la mật, cho đến lúc chứng được Mười lực, Mười đức hiệu, không có hàng người trời nào có thể nói lên được lỗi lầm của Ngài. Đức Như Lai đầy đủ tám vạn âm thanh, chúng sinh nghe đến đều không nhàm chán. Do nhân duyên đó mà Đức Như Lai vượt hơn tất cả hàng Thanh văn, Bích chi phật.
I2. Kết quy tịnh giới
Thiện nam tử! Nếu có Bồ tát thọ trì giới Ưu bà tắc mà muốn giữ giới thanh tịnh phải nên tu pháp nhiếp tâm niệm Phật như vậy. Nếu tu niệm Phật, người đó sẽ lìa các ác duyên bất tịnh, cả trong lẫn ngoài; tăng trưởng trí tuệ, đoạn trừ được tham sân si và sẽ thành tựu đầy đủ tất cả các thiện pháp.
I3. Kết luận tại gia thù thắng
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia tu tập pháp nhiếp tâm niệm Phật không khó, Bồ tát tại gia tu tập pháp nhiếp tâm niệm Phật mới khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.
17. Cúng Dường Tam Bảo
F3. Cúng dường Tam bảo
G1. Thiện Sinh hỏi
Thiện Sinh bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Bồ tát sau khi thọ giới Ưu bà tắc làm thế nào để cúng dường Tam bảo?”
G2. Thế Tôn trả lời
H1. Phước điền Tam bảo
- Thiện nam tử! Ruộng phước trên thế gian có ba loại: một là ruộng báo ân, hai là ruộng công đức, ba là ruộng bần cùng. Ruộng báo ân là cha mẹ, sư trưởng, hòa thượng; ruộng công đức là tất cả những bậc tu hành, từ bậc chứng Noãn pháp, cho đến bậc chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; ruộng bần cùng là tất cả những người bần cùng khốn khổ. Đức Như Lai Thế Tôn là hai loại ruộng phước: một là ruộng báo ân, hai là ruộng công đức. Pháp cũng là hai loại ruộng
phước giống trên. Chúng sinh là ba loại ruộng phước: một là ruộng báo ân, hai là ruộng công đức, ba là ruộng bần cùng. Do nhân duyên này mà các Bồ tát sau khi thọ giới Ưu bà tắc phải nên chí tâm siêng năng cúng dường Tam bảo.
H2. Trụ trì Tam bảo
I1. Nói rộng về Phật bảo
J1. Kiến lập, cúng dường tháp, tượng
Thiện nam tử! Đức Như Lai là kho tàng của tất cả các pháp, cho nên người trí phải chí tâm siêng năng cúng dường các Đức Phật hiện còn tại thế, hoặc xá lợi, hoặc hình tượng, tháp miếu của các Ngài. Nếu ở nơi hoang vắng không có tượng tháp, thường phải nhớ tưởng, tôn trọng tán thán. Hoặc tự sức mình làm, hoặc khuyến khích người khác làm tượng, tháp. Lúc thấy người khác đang làm, sinh tâm vui mừng. Nếu như đã có đầy đủ thế lực phước đức, phải nên dạy dỗ cho nhiều người khác cùng làm. Sau khi đã cúng
dường, không nên tự khinh, hoặc khinh Tam bảo. Không nên sai bảo người khác làm việc cúng dường cho mình, hoặc không nên vì muốn hơn người khác mà cúng dường. Lúc cúng dường, tâm không hối hận, tâm không sầu não, mà phải chắp tay ca ngợi, cung kính, tôn trọng tán thán Tam bảo. Nếu dùng một đồng tiền, nhẫn đến vô lượng trân bảo, hoặc cúng dường một sợi tơ, nhẫn đến vô lượng tơ lụa, một cành hoa nhẫn đến vô lượng cành hoa, dùng một bài kệ ca ngợi nhẫn đến vô lượng bài kệ ca ngợi, lạy một lạy nhẫn đến vô lượng lạy, đi nhiễu một vòng nhẫn đến vô lượng vòng, cúng dường như thế, hoặc trong một thời, hoặc trong vô lượng thời, hoặc tự mình làm, hoặc làm cho người khác.
Thiện nam tử! Nếu có thể chí tâm cúng dường Phật Pháp Tăng như vậy, lúc Phật còn tại thế, hoặc sau khi Phật diệt độ, sự cúng dường cũng nên như thế, không
nên có sự khác biệt. Khi gặp tháp miếu nên dùng vàng, bạc, đồng, sắt, tràng phan, bảo cái, âm nhạc, hương, dầu, đèn mà cúng dường. Nếu thấy chỗ chim, thú dậm đạp, hoặc chỗ gió, nước, lửa làm hư hỏng phải nên sửa sang, quét dọn sạch sẽ. Nếu tự mình không đủ sức, nên khuyên người khác tô, sửa. Khi tô, sửa, hoặc dùng chất liệu như vàng, bạc, đồng, thiết, hoặc cây, gỗ. Nếu có bụi bặm, phải quét dọn, tưới rửa. Nếu có chỗ nhơ nhớp, nên dùng nước thơm mà rửa. Nếu tạo bảo tháp hoặc bảo tượng, tạo xong, nên dùng các loại tràng phan, bảo cái, hương, hoa, các loại âm nhạc mà cúng dường. Nếu trong tháp có cỏ cây, xác của chim thú chết, rác rưới dơ bẩn, hoặc bông hoa mục rữa, phải nên dọn dẹp cho sạch sẽ. Nếu có hang rắn, hang chuột thì phải lấp cho bằngiii. Những tượng bằng đồng, gỗ, đá, đất, vàng, bạc, lưu ly, pha lê, v.v... thường phải lau rửa cho sạch, lấy hương thơm mà thoa lên. Tùy sức mình mà sắm sang các loại anh
lạc, trang hoàng cũng giống như tháp của Chuyển luân thánh vương. Trong tịnh xá, nên dùng hương bột phết trên mặt đất. Nếu dùng đất sét trắng tạo tháp, tượng xong, nên dùng anh lạc, pha lê, chân châu, lụa, là, the, gấm, linh, khánh, ... mà cúng dường. Lúc họa tượng Phật, trong màu không được pha trộn keo, sữa, và trứng gà. Ngày cũng như đêm, nên dùng các thứ hoa, dây lụa, gương sáng, hương bột, hương thoa, hương đốt, các loại âm nhạc, ca múa để cúng dường. Không nên giống như ngoại đạo đốt bơ, lúa mạch mà cúng dường. Không nên dùng bơ mà tô lên tháp hay tượng Phật, cũng không nên dùng sữa để rửa tượng Phật. Không nên tạo tượng Phật bán thân. Nếu có tượng hư hoại nên che lại, kêu người đến tu bổ; sau khi đã hoàn hảo rồi mới đem bày ra. Thấy tượng hư hoại cũng nên cung kính cúng dường, không khác gì bức tượng lành lặn. Những sự cúng dường như vậy, phải tự mình làm; nếu tự mình không đủ sức, nên phụ giúp
người khác làm, hoặc khuyên người khác phụ giúp mình làm.
J2. Kính trọng, khen ngợi Phật pháp
Nếu có người có thể đem của báu trong bốn châu thiên hạ cúng dường Như Lai; lại nếu có người tôn trọng tán thán, hết lòng cung kính thì phước đức của hai người đó bằng nhau không khác. Tất cả công đức của Đức Như Lai tức là thân tâm đều hoàn hảo; thân có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp vi diệu, đầy đủ đạo lực; tâm có Mười lực, Bốn vô sở úy, Đại bi, Ba niệm, Năm trí tam muội, Ba loại pháp môn, Mười một loại quán không, trí quán Mười hai nhân duyên, vô lượng thiền định, đầy đủ Bảy trí, và đã thành tựu Sáu ba la mật. Nếu có thể dùng những pháp như vậy để ca ngợi Phật, đó là người chân thật cúng dường Phật.
I2. Nói lược về Pháp bảo, Tăng bảo
Thế nào gọi là cúng dường Pháp? Thiện nam tử! Nếu có thể cúng dường Mười hai phần giáo thì gọi là cúng dường Pháp. Làm thế nào để cúng dường Mười hai phần giáo? Nếu có thể chí tâm tin tưởng, thọ trì, đọc tụng, giảng giải, làm y như lời đã dạy, làm xong lại khuyên người khác làm theo, đây gọi là cúng dường Mười hai phần giáo. Nếu có thể biên chép Mười hai phần giáo, sau khi biên chép xong, dùng nhiều phẩm vật cúng dường, như cúng dường Phật. Nếu có người, ngoại trừ lúc tắm rửa, có thể cúng dường, thọ trì, đọc tụng kinh điển như thế, người đó là người cúng dường Pháp. Lúc cúng dường Pháp nên cung kính, tôn trọng, ca ngợi như cúng dường Phật. Lại có pháp là: một loại căn cơ Bồ tát, ba loại căn cơ Bích chi phật, ba đế. Nếu có người tin như vậy, gọi là cúng dường Pháp.
Nếu có người cúng dường các vị Bồ tát Tỳ kheo, hoặc các vị tu hạnh Tiểu thừa,
từ Tu đà hoàn hướng, nhẫn đến A la hán, đây gọi là cúng dường Tăng.
H3. Nêu rõ lợi ích của sự cúng dường
Nếu có người có thể cúng dường Tam bảo như thế, nên biết người đó không bao giờ xa lìa mười phương Như Lai; trong mọi hoạt động đi đứng nằm ngồi đều được gần gũi các Ngài.
Thiện nam tử! Nếu có người có thể theo lời dạy mà cúng dường ít nhiều cho ba loại ruộng phước nên biết rằng người đó trong vô lượng đời sẽ hưởng được nhiều lợi ích.
H4. Kết luận tại gia thù thắng
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia cúng dường Tam bảo, điều này không khó. Bồ tát tại gia cúng dường Tam bảo, điều này mới khó. Vì sao? Vì Bồ tát tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 7 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Gọi nắng xuân về


An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự giết hại


Sống đẹp giữa dòng đời


Nghệ thuật chết

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.118.129.43 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập