Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Quán Sát Chư Pháp Hạnh Kinh [觀察諸法行經] »» Bản Việt dịch quyển số 4 »»

Quán Sát Chư Pháp Hạnh Kinh [觀察諸法行經] »» Bản Việt dịch quyển số 4


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.64 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.81 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Quán Sát Chư Pháp Hạnh

Kinh này có 4 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | Quyển cuối
Việt dịch: Tuệ Khai

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

PHẨM THỨ BA : THỌ KÝ
II- Ở trong, đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ tát Hỷ vương rằng :
- Này Hỷ Vương ! Nếu lại có Bồ tát nương vào chúng sinh của ta, qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, mà thí cho, hộ giới, niệm Nhẫn, phát khởi tinh tấn, vào thiền định, tu trí tuệ. Nếu lại có Bồ tát tín giải các pháp vô ngã thì vị này hơn vị kia về phước đức tụ sinh ra và mau chóng chứng Vô Thượng Chánh Giác. Vì sao vậy? Này Hỷ Vương ! Thuở xưa, đời quá khứ, chẳng thể tính được kiếp, lại quá không tính toán, chẳng thể lường, vô lượng chẳng thể nghĩ ca la đó (bất động) tam ma gia đó (bình đẳng) có đức Như Lai ra đời hiệu là Bảo Quang Uy Luân Vương Ứng Chánh Biến Tri Minh Hành Cụ Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, thế giới tên là Hữu Bảo; kiếp tên là Ứng Vãng. Lại này Hỷ Vương ! Ca la đó, tam ma gia đó, đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai đó có Hữu Bảo thế giới giàu có phong túc rất là vui sướng, nhiều người chen nhau huyên náo, đất đai bằng phẳng như bàn tay, không có sành sõi, thừa thải vàng bạc, như sờ vào áo Cơ chơn lâu nê ca, tám con đường nối liền nghiêm sức thuần màu xanh dạ lưu ly. Và có hoa sen vàng Diêm phù na đa (Diêm phù đàn kim) tự nhiên sinh ra trong phần lớn đất đai. Hoa lớn như bánh xe, hương sắc đẹp đẽ thơm lừng. Thế giới đó rộng rãi có đến sáu mươi bốn câu trí trăm ngàn châu. Trong mỗi một bốn châu có sáu mươi bốn câu trí trăm ngàn thành. Những thành lớn đó đều rộng ba mươi hai dũ xà na, đều có tường vách bằng bảy báu và có nhiều câu trí na do đa trăm ngàn chúng sinh trụ ở. Mỗi một thành lớn có mười hai ngàn thôn, thành, phường, ấp vây quanh. Những đại thành đó nhất nhất đều có năm trăm ngôi vườn thọ dụng với đủ thứ những cây báu đầy hoa trái hương thơm vây quanh trang nghiêm. Trong những vườn đó nhất nhất đều có ba mươi hai ao hoa (hoa trì), trong ao ấy đầy tràn nước tám phần cụ túc (nước tám công đức). Cát vàng (kim sa) trải khắp, lan can báu vây quanh xen lẫn những thanh dạ lưu ly. Và có hoa báu Ưu ba la, ba đầu ma, Cứu mâu đà, Bôn trà lợi (Phân đà lợi)... sinh ra trong vườn ấy. Những loài chim như ngỗng, nhạn, giao thanh, khổng tướng, uyên ương, Ca la tần già, mạng mạng (cộng mạng) trụ ở trong những hoa Ưu ba la, Ba đầu ma, Cứu mâu đà, Bôn trà lợi đó, mỗi mỗi đều phát ra âm thanh. Này Hỷ Vương ! Ca la đó, Tam ma gia đó, đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai có khu vườn tên là Ái Kiến mà đức Thế Tôn đã ở trong đó. Đức vua cai trị xứ tên là Hữu Nguyệt y chỉ mà trụ chung với bảy mươi hai câu trí Thanh văn và tám mươi bốn câu trí Bồ tát đều chẳng thoái chuyển. Này Hỷ Vương ! Có Nguyệt Vương cai trị xứ, có bảy bảy mươi hai câu trí trụ ở. Trong các xứ đó có tám đường thông nhau. Lại này Hỷ Vương ! Có Nguyệt Vương cai trị xứ, rộng sáu mươi bốn dũ xà na với tường vách bằng bảy báu, lan can bảy báu, đủ thứ các trụ cửa báu và cây Đa la hàng lối la liệt đều mắc lưới gắn chuông nhỏ. Lại này Hỷ Vương ! Ca la đó, Tam ma gia đó, trong đó có Nguyệt Vương cai trị xứ, có vua tên là Bảo Nguyệt, ở trong bốn ngàn châu, chuyển luân tự tại, vì pháp thi hành vương pháp. Lại này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt đó với vua hữu Nguyệt kia, chỗ cai trị đều tạo lập cung điện, nhà cửa bằng bảy báu, đều rộng bốn dũ xà na với bảy lớp tường ngăn... cho đến lưới gắn chuông thất bảo giăng mắc vây quanh và lưới bằng ngọc Ma ni che bên trên những thứ ấy. Trong cung điện nhà cửa đó, bốn phương có bốn ngôi vườn lớn, một tên là Tạp Họa (vẽ) Xa, hai tên là Thường Khai Hoa, ba tên là Hy Kiến, bốn tên là Chánh Hạnh Lạc. Trong vườn lớn đó có đủ thứ cây sinh ra. Đó là cây báu, cây cho hoa, cây cho mùi thơm, cây cho quả, cây anh lạc (cho chuỗi ngọc), cây cho áo, cây âm nhạc, cây phú sa (cát giàu), cây nguyệt thượng, cây nhật thượng viêm. Trong vườn lớn đó nhất nhất đều có bốn ao hoa lớn đầy ắp nước Chiên đàn na với lan can báu giáp vòng, đáy ao trải cát vàng Diêm phù na đa. Các hoa báu Ưu ba la, Ba đầu ma, Cứu mâu đà, Bôn trà lợi che bên trên ao ấy. Chim uyên ương hòa kêu. Lại này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt đó có bốn mươi hai ngàn phụ nữ đứng vào hàng các thiên đồng nữ. Trong số đó có một thiên phụ (phụ nữ trời) rất lớn tên là Hữu Phước. Nhan sắc người ấy minh hiển hơn hẳn các trời. Lại này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt đó có mười hai ngàn người con, hình sắc thắng diệu, người nhìn thấy đều tin yêu. Người con tối thượng tịnh sắc viên mãn cụ túc, có hai mươi tám tướng đại trượng phu trang nghiêm khắp thân. Này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt xuất cung, đến trong vườn Ý Hỷ Kiến dạo chơi, hành lạc. Tối đại thiên phụ tên là Hữu Phước, trong lòng bỗng có một đứa trẻ hóa sinh trụ trên mu bàn chân, hình sắc thắng diệu, người nhìn thấy đều tin yêu, có hai mươi tám tướng đại trượng phu đầy đủ. Đứa trẻ đó, vào lúc sinh ra nói lời như vầy : “Các hạnh vô thường, vô trụ không có dừng yên, điên đảo hướng về pháp”. Đứa trẻ đó thuận nối nhau, nói kệ này :
Các hạnh vô thường không dừng yên
Không trụ, không bền đão hướng pháp
Phàm tiểu niệm, đây là thường an
Vì dục buông lung không chánh niệm
Theo “hữu dục” người và chư thiên
Đều là vô thường, tận pháp thể
Với dục chán đủ chưa có từng
Không chắc khổ dục là căn khổ.
Có Thế Tôn hiệu là Bảo Quang
Ngài nói vô cấu vô vi pháp
Các căn ở trong tịch không còn
Và thánh lạc Bồ đề vô lậu
Lời này Ngài nghe con trình lên :
Như Lai ra đời khó gặp được
Nên cùng đi đến bên Thế Tôn (Thiện Thệ)
Trời hơn cả trời, quang minh hạnh.
Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, vua Nguyệt Bảo hướng về đồng tử kia lại nói kệ rằng :
Ông là trời, rồng, Dạ xoa, thần
Đồng tử vì ta nói nghĩa ấy
Ông sinh nói lời như vậy liền
Với Phật pháp nói lời khen ngợi
Ông chết ở đâu, đến thế gian?
Ông tên là gì? Hướng ta nói !
Ánh sáng đều soi khắp trong vườn
Thắng đức uy thần, ông hiển chiếu.
Đồng tử đáp lại rằng :
Có đấng trượng phu ở phương Đông
Tên đạo sư Tu Mê Lưu Tụ
Con chết ở đó đến thế gian
Pháp Vương Bảo Quang, con muốn thấy
Như vậy Pháp Thượng là tên con
Con nay phát nguyện tu Phật trí
Ngài nếu muốn nghe tối tôn
Nên cùng đi đến bên Thiện Thệ.
Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, vua Nguyệt Bảo cùng với đồng tử Pháp Thượng và các phụ nữ, các vương tử và rất nhiều người vây quanh khóc đi đến vườn Ái Kiến, hướng về chỗ của đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Đến rồi, nhà vua đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui về trụ ở một bên. Số rất đông người đi theo vua ấy cũng đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương rồi lui về trụ ở một bên. Đồng tử Pháp Thượng làm lễ dưới chân đức Thế Tôn đó rồi, miệng kêu ở dưới chân Ngài mà nói lời như vầy : “Thưa đức Thế Tôn ! Đức Như Lai Tu Mê Lưu Tụ gởi lời hỏi thăm đức Thế Tôn là ngài có được ít bệnh ít não, đi ở nhẹ nhàng, khí lực hành động thoải mái chăng?” Đồng tử nói rồi, đứng trước đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai và hướng về đức Thế Tôn đó mà nói kệ rằng :
Đấng Vô Thượng Tư Nghị Cúng Dường
Tối Thắng diễn nói hạnh Vô Tránh
Độ thoát chúng sinh nhiều không lường
Nhân Chúa tại tòa, nay con lễ
Ba ngàn cõi này làm Giáo Vương
Thế Tôn hay dùng Pháp bảo thí
Vì người rộng nói báu pháp tàng
Phá vua Ma la, quân La sát
Trong chúng như trăng soi khắp cùng
Nói đạo đi qua bờ giải thoát
Giáo sư năm lực và năm căn
Ngũ nhãn Thiện Thệ, con qui mạng
Giáo Sư lìa hết các não phiền
Hành trong đất này, vua Chuyển Luân
Trừ bỏ ba cấu giống như mắt.
Mắt thanh tịnh ly cấu thế gian
Ma hầu la già, người, sinh chúng...
Không ai chẳng hướng về người trên
Tối Thắng không cao cũng không thấp
Con nay kính lễ các Thế Thân (thân cận với đời)
Được cùng chẳng được, hạnh bình đẳng
Các tướng hoa nở, trượng phu trăng (trượng phu nguyệt?)
Như hoa sen, chẳng nhiễm thế pháp
Thế thân hay khiến cành ái tan (đoạn)
Khéo điều (phục) đầy đủ, lòng đã phục
Bình đẳng Thí, giới, lòng không sân.
Chúng sinh khó phục, đã điều phục
Trăng trong người Thiện Thệ phục lòng (?)
Ngôn ngữ dịu dàng khéo thuận ý
Khi nói hay động đến ba ngàn (thế giới)
Trời rồng tu la và người nữa
Họ nghĩ đây là con nói lên
Đây là không, không chúng sinh tính
Không có tướng, nguyện cũng lìa tan.
Ngài nói trong này “vô xứ khứ”
Cũng không có lại, chết cũng không
Pháp giới chẳng động, không trú xứ
Đời trước, đời sau chẳng đắm tham (trước)
Ở trong khoảng ấy như hư rỗng
Ngài nói pháp này, nghĩ ngợi không,
Thế Tôn thường nói đến thật tế
Trong này, các đời chuyển mê loàn (loạn)
Như mù, đầy phiền não, sân nhuế
Họ tác khởi niệm ngã và nhân
Pháp này tợ như mây cùng huyễn
Điều mắt thấy chẳng động rỗng không.
Nhẫn thắng diệu này nếu có được
Bọn đó Giáo sư đuổi theo luôn
Giống như vẽ hư không đủ thứ
Không chỗ, không có một chỗ dừng (trụ)
Như vậy chỗ trụ tự nhiên biết
Nên kia không có một chỗ dừng (trụ)
Các tiếng khi nghe không có thật
Cũng chẳng thể thấy trú xứ không (có)
Hoặc nghe, hoặc nói cũng lại vậy
Bản tính chúng chẳng động rỗng không.
Pháp Thắng Giả, thể tướng cũng không
Sẽ thấy sự thị hiện như huyễn
Nếu thấy như thể không biệt phân
Sẽ thấy Thiện Thệ cũng như vậy.
Cõi, chẳng cõi, các cõi ngang bằng (bình đẳng)
Chư Phật bình đẳng công đức Phật
Các pháp bình đẳng pháp tịch không
Các chúng sinh bằng không chúng sinh
Bất tận mất hết ở trong tận
Bất tận mất hết không trong tận
Tận ấy chẳng tận, tận chẳng tận
Nhẫn này như vậy thuận theo luôn.
Phân biệt, phân biệt khởi phân biệt
Các pháp cũng không chỗ khởi lên
Nếu đã khởi thì thường chẳng khởi
Nhẫn này như vậy thuận theo luôn.
Thấy kiến (thấy) thường không có kiến thể
Hoặc thấy chẳng như quán như thế
Hoặc thấy những pháp này rỗng không
Nhẫn này như vậy thuận theo luôn.
Chưa từng có thể biết đời trước
Tối thắng thật tế do chẳng biết
Tế thường không tế, nếu biết thông
Thì tiền tế (đời trước) đó theo đoạn dứt.
Ở trong biên, vô biên chẳng nương
Bờ này, bờ kia thường chẳng trụ
Nếu trong ba cõi (hữu) không trú xứ
Thì kia, thật tế trụ ở trong
Nếu kia trụ ở trong thật tế
Thì trong ba cõi, trú xứ không,
Nếu trong ba cõi không trú xứ
Thì kia thường trụ trong thật tế.
Nếu sắc tợ như bọt nước gom
Biết Thọ cũng như bọt nước nổi
Tưởng niệm giống như lửa sáng hừng
Nếu biết thì trụ trong thật tế.
Các tụ là hữu vi, không bền
Nếu biệt tợ như là cây chuối
Biết ý cùng huyễn kia tương đồng
Thì tụ tan đó đã tiêu diệt.
Nếu với từ bi khéo tu hành
Ở mình và người không y chỉ
Tu niệm hạnh tối thượng sạch trong
Thì sẽ làm Phật như trời Tịnh
Nếu lìa rộng khắp các não phiền
Thì kia chưa từng có thủ trước
Bỏ các sở hữu, bỏ sạch trơn
Bố thí đó được Phật ngợi khen.
Nếu thân giống như trăng đáy nước
Biết lời nói ra như tiếng vang
Biết lòng như ánh chớp trong không
Giới kia thù thắng trong ba cõi
Đến bờ kia nếu Nhẫn điều xong
Ý đó việc ngoài chẳng tổn hại
Hay biết sáu căn như thôn không (xóm trống không)
Nhẫn đó được Thiện Thệ tán thán.
Không sở úy nếu ưa nhàn riêng
Minh trí đôi lần hành cảnh giới
Thân tâm tịch tịnh, hạnh trực, thuần
(Tinh) Tấn đó thù thắng trong ba cõi.
Nếu người diệt bản tính não phiền
Rỗng không phân biệt người tịch trí
Nếu tưởng chẳng chuyển trong ba cõi
Thì định kia Thiện Thệ ngợi khen.
Nếu biết trong này người không có
Thì với Thượng trí, kia được liền
Nên lìa hí luận mà tịch tịnh
Trong ba cõi trí đó thắng hơn
Nếu ở trong “hữu” không mệt mỏi
Trong câu trí kiếp lúc hành khổ
Chưa từng ham mộ thừa thấp hèn
Bọn Ma la kia đều kinh hồn
Như ở trong biển lấy giọt nước
Con nói Tối Thắng, công đức trên
Phật pháp rộng rãi không có biên
Chưa từng được ở bờ cõi đó.
Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, đồng tử Pháp Thượng ở trước đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai, khi nói bài kệ này thì khắp cùng những ba ngàn đại thiên thế giới sáu thứ chấn động, trăm ngàn câu trí na do đa âm nhạc đồng thời tấu lên và mưa xuống các hương thơm, vòng hoa cài tóc, hương xoa, hương bột. Tám ngàn vị Bồ tát đều sinh ra nhẫn ở trong pháp Vô sinh. Vua bảo Nguyệt ấy cùng các phụ nữ và các đồng tử với đại chúng đó đều phát tâm Vô Thượng Chánh Giác. Này Hỷ Vương ! Bấy giờ, đồng tử Pháp Thượng hướng về đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai bạch như vầy : “Thưa đức Thế Tôn ! Những Tam ma địa nào khiến cho Đại Bồ tát sẽ được nhiếp lấy các pháp? Sẽ được nhiếp lấy cõi Phật công đức trang nghiêm? Sẽ được đủ đầy chúng Thanh văn, Bồ tát? Sẽ được của cải thọ dụng vô thượng? Sẽ được vượt qua các ma la, các phiền não ác? Sẽ được đủ đầy chánh niệm, chánh ý, chánh thú, tàm quí, trụ trì trí tuệ? Sẽ được nhiếp thọ các điều đã nghe? Sẽ được đủ đầy ngũ thông thắng trí? Sẽ được vô trước ưa nói tổng trì? Sẽ được đủ đầy biện tài? Sẽ được đủ đầy sáu Ba la mật? Sẽ được đủ đầy sinh vào gia đình dòng họ hình sắc thọ dụng? Sẽ được vui lòng tiếng nói tác nghiệp? Sẽ được đủ đầy các công đức? Sẽ được giỏi biết vào, ra các định giải thoát Tam ma địa? Sẽ được đủ đầy các thứ trí công đức, chưa được Phổ trí mà luôn làm Phật sự vì chúng sinh?”. Đồng tử ở trước đức Phật ấy nói như vậy xong thì đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai hướng về đồng tử Pháp Thượng bảo như vầy : “Này đồng tử ! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Khéo dấy lòng suy nghĩ ! ta sẽ vì ngươi diễn nói ! Nếu đầy đủ Tam ma địa thì Đại Bồ tát sẽ được những điều này và vô lượng vô số chẳng thể lường thắng công đức khác nữa, cũng sẽ mau chóng hướng về đạo tràng Bồ đề. Này đồng tử ! Có Tam ma địa tên là Quyết Định Quan Sát Các Pháp Hạnh. Nếu được Tam ma địa rồi thì Đại Bồ tát vượt qua các cảnh giới ma la, sẽ mau chóng chứng giác đạo Vô Thượng Chánh Giác”. Đức Như Lai đó vì đồng tử kia dùng lời kệ rộng nói Tam ma địa này :
Như nói như việc làm
Làm rồi chẳng nói dối
Thân, miệng, ý sạch trong
Có từ tâm ích lợi
Với bi chẳng mất quên
Và chán các dục hạnh
Vì pháp vui cầu luôn
Thệ trí cũng chẳng bỏ
Khéo léo trong từ ngôn (lời nói)
Xuống vào chúng sinh trí
Chẳng tiếc với nghiệp thân
Trong thân chẳng tham muốn
Phải lìa lời ác liền
Với lòng chẳng hý luận
Cứu giúp khổ chúng sinh
Giác ngộ kẻ phóng dật
Người siêng dạy tương ưng
Kẻ hối khiến ra khỏi
Chẳng trụ tưởng chúng sinh
(Bản Phạm văn thiếu một câu)
Tưởng việc chẳng phân biệt
Xa lìa khói lấy nâng
Các tướng cũng sẽ diệt
Chẳng động trong thọ dùng
Thường phải cầu trí tuệ
Xa lìa lời thế gian
Phải cầu được xuất thế
Chánh niệm chẳng mất quên.
Thuận niệm với các pháp
Như vậy sẽ khéo khôn
Việc làm làm đầy đủ
Và thuận hạnh thế gian.
Nên phải tin nghiệp báo
Xa lìa lòng chẳng tin
Nên phải tin chư Phật
Đó nên thuận niệm luôn.
Thường nên nói tội lỗi
Phước tụ phải theo mừng
Và khuyến thỉnh chư Phật
Lễ bái, hướng Thế Tôn
Thường hàng phục kiêu mạn
Làm thiện không chán nhàm
Cũng thường siêng tương ứng
Toan làm chớ bỏ buông
Thành tựu hạnh tu chính
Phải biết sự tạo nhân
Chớ theo danh thí thiết
Bị trách chớ nổi sân.
Chớ chấp trước ngôn ngữ
Chớ nghĩ đây thật chân
Chẳng cần trụ Dục giới
Sắc, Vô sắc các dòng (giống).
Như nghiệp đã chịu báo
Quả đó phải nên tin
Chia cho vật sở dụng
Dạy bảo chẳng hủy thương.
Bình đẳng với chúng sinh
Một người cũng chẳng hại
Siêng, lười đều chẳng sân
Không ghét người sở đắc.
Sở dục phải đầy lòng
Như pháp hộ thệ nguyện
Với giới không lìa tan
Kiêu mạn phải trừ diệt.
Chuyển đổi lỗi hận sân
Ngu si cũng bứng đứt
Tham dục chẳng phát hành
Theo được liền biết đủ.
Lìa bỏ các thân quen
Không lợi lòng chẳng thấp
Được lợi chẳng cao hơn
Chỉ mừng được pháp lợi.
Thường làm bình đẳng phân
Phải lìa khỏi tích trữ
Nghe được lời ác ngôn
Nhịn nên hay nín chịu
Thường hộ trì ngữ ngôn
Bồ đề thừa phải nói
Thường khuyên siêng tương ưng
Người tinh cần kề cận
Kẻ trí luôn hỏi han
Tăng tu kỹ chánh định
Chớ bỏ ngụ không nhàn
Trụ Đầu Đà thiểu dục
Nên phải tin giải không
Với việc không đắm trước
Tụ lạc chẳng nương dừng (y chỉ)
Trong cõi chẳng tham dục.
Chẳng thấy ta bên trong
Chẳng ái trước cảnh giới
Diệt các ý đảo điên
Với lòng luôn gìn giữ.
Trí tuệ nên phải sinh
Thường hành nghiệp chánh hạnh
Lòng ấy chẳng khiếp hèn
Phải niệm ruộng phước tịnh.
Các hành phải bỏ buông
Thí rồi không cầu mong
Cũng chẳng niệm trì giới
Với Nhẫn không biệt phân,
Chẳng phát khởi tinh tấn
Trong định cũng chẳng nương
Chẳng quên mất các pháp
Trí tuệ nên giác thông.
Nên phải vào các Ba la mật
Trong công đức minh, nghĩ chưa từng,
Nghe công đức người chẳng giận ghét
Hữu vi, vô vi lòng ngang bằng (bình đẳng)
Niết bàn lúc nào cũng vin níu
Với Hữu vi phải xa lìa luôn
Giải thoát yên ổn luôn luôn biết
Trong xóm tưởng như kẻ sát nhân
Với chỗ Niết bàn thường sinh ái
Hòa nhẫn luôn luôn trụ ở trong.
Mặt vui không làm vẻ nhăn nhó
Thấy người khác thì trước hỏi han
Ở với người già từ (bi) tôn trọng
Và tâm trí tuệ khéo nối liền.
Với người khác chưa từng trách phạt
Nếu có đấu tranh khiến lặng yên
Với chỗ tịch tịnh thường khen ngợi
Thường dạy hợp, chúng sinh hòa đồng.
Ái, chẳng ái, lòng thường bình đẳng
Thường phải cầu đến Tổng Trì Môn
Như mẹ yêu thương các sinh chúng
Như cha yêu thương các thánh nhân
Yêu thương tôn trọng như thân cận
Yêu Bồ tát như Phật Thế Tôn
Yêu pháp cũng như yêu tự thân
Và cầu điều nghe không chán đủ.
Đã nghe pháp xong chánh tu hành
Với Như Lai cũng thường cúng dường
Với pháp thắng thượng phải tín giải
Không tâm khiếp nhược, không giải đãi.
Với Tam Bảo luôn phải cúng dường
Thường phải nhịn chịu lời bất chánh
Thường chẳng luyến ái với tự thân
Thọ mạng cũng lại chẳng tham tiếc.
Sống đời thanh tịnh, thường xin ăn
Chẳng bỏ Đầu Đà, theo thứ lớp
Chưa từng lìa chỗ ngụ không nhàn
Xa, xa nữa, phải bỏ đồ chúng.
Kẻ tại gia chớ ưa ở chung
Với người xuất gia chớ làm loạn
Chớ yêu, chớ trá, trước lời lành
Dạy hóa nhiều người vào Phật trí.
Khi nói pháp, lòng không khiếp hèn
Phương tiện giỏi xem biết người khác.
Với Phật luôn luôn khởi trong lòng
Và thường nghĩ pháp chẳng phóng dật
Cũng ở chỗ Tăng tôn trọng luôn.
Và thường cúng dường với người trí
Phương tiện khéo trí cũng thường gần
Thường tác vô tránh với người định
Với kẻ tinh cần giúp hảo tâm
Cũng niệm tu pháp tin việc phước.
Giáo hóa chúng sinh khiến làm lành
Người tin phải yêu, lòng ngay thẳng.
Nếu chạm việc khổ hay mở tan
Thường nương thời hành, phi thời bỏ
Thường hành khủng úy và thẹn thùng
Trong tội ác đó sinh thẹn sợ.
Các hạnh bất chánh xa lìa xong
Được người chánh hạnh, luôn thân cận
Vì giải thoát, với giới giữ gìn
Cũng lại phải cầu đến hạnh Thánh.
Bốn niệm xứ luôn nghĩ tu hành
Cũng thường thân cận bốn chánh đoạn
Và bốn như ý túc sẽ thành
Với các căn cũng sẽ xuất sanh.
Nên phải cầu lực cũng như định
Với bảy giác phận luôn xét xem
Thường phải tu hành tám phận đạo
Xá ma tha cũng cầu nhóm gom
Tỳ phát xá na luôn sinh Đế
Tâm đã tùy hỷ mà xét xem
Trong pháp tùy hỷ lại sinh hỷ
Cũng sẽ siêu việt các phàn duyên (duyên vin vào)
Nghe không trú xứ chẳng kinh sợ
Chỗ chẳng thể được, chớ buông lung
Thường phải cầu mong Bồ đề hạnh.
Hạnh Phật sẽ làm, tin xưng lường
Nên phải chán bỏ hạnh cảnh giới
Cũng phải bỏ những hạnh trước làm
Nghiệp mình tịnh, không nói người khác
Luật hạnh chẳng phá, hằng thời làm
Giỏi học cấm giới biệt giải thoát
Bỏ phi thời, thường nương thời hành.
Khéo hai trù liệu nên đi, lại
Vật tốt biết lường tự cấm dừng
Và ở dòng thánh đều biết đủ
Cũng lại cầu vào Thắng trí thông.
Trong Tam ma địa phải vin níu
Và với định hạnh, biết vào trong
Phải vào sở dục, lòng sinh chúng
Theo đúng lời nói thầy dẫn đường
Cũng nên nhiếp lấy thuyết vô ngã
Nếu kẻ siêng hợp khiến vui mừng
Niệm tu hành như Tối thắng thể
Tam ma địa này phải niệm luôn.
Nghe đã tin Thanh văn chánh hạnh
Đạo Duyên Giác phải học thuận tùng
Chủng tánh chư Phật phá ma đạo
Tam ma địa này phải cầu luôn
Phát hành Thắng Giác do ở Thí
Người chẳng thoái chuyển hạnh Thế Tôn
Nhiều câu trí kiếp hạnh kẻ trí
Chính biển nghe là chỗ pháp hành
Trong cảnh giới này, pháp tôn trọng
Nếu tín giải là cửa thật chân
Thị hiện này, trú xứ của Phật
Ở pháp tạng này cầu báu trân
Ở trong ruộng này cầu quả đó
Phiền não nhiệt là trong hy viên (vườn vui lòng)
Ưa trì pháp, đây là vườn tược
Ái kiến đó là Tam ma địa
Muốn cầu Bạch pháp, mẹ này sinh
Người có sở dục được không nương
Các tướng thắng diệu sẽ buộc lấy
Các đẹp theo tướng cũng hiện lên.
Đất nước trang nghiêm đây an trụ
Đây cũng được nghe và giữ gìn
Sinh ra đủ thứ, đây thuận giác
Lời thanh tịnh, tiếng nói thật chân.
Cũng hay vượt qua Ma la cảnh (cảnh giới ma)
Nhiếp lấy xa xăm, mặc giáp đồng
Giết hại phiền não, nương điều phục
Đây cũng phá tan các chẳng lành (bất thiện)
Muốn cho các thiện được xí thạnh
Muốn được cầu nguyện làm trang nghiêm
Nhiều chúng mà ma chẳng phá được
Đây, lúc nói cũng không tận cùng.
Đây cầu cùng thế gian bình đẳng
Luận sư ngoại đạo chẳng chánh chân
Đây hay qua khỏi Thanh văn pháp
Bậc Độc giác thắng, đây là duyên
Trí nhất thiết trí, đây gìn giữ
Sở thú chúng sinh đây cũng trụ
Đây hay giáo hối người thật chân.
Trong lúc đây chọn lời bạn lành
Bậc căn vô cấu, đây thiên nhãn
Và với pháp nhãn muốn cầu tìm
Cầu người nói pháp đây thắp đuốc
Cầu lời chân thệ, đây thật thành
Cầu người tài thí, đây là xả
Cầu giải thoát kiến, đây hợp cần
Cầu người vui định, đây tịnh tín
Muốn nghe biển pháp, đây chánh hành
Câu mê lưu định, đây là lực
Muốn cầu pháp đạo, chủ ngang bằng
Vì muốn sự tịnh diệu trang nghiêm
Tự tâm điều phục, đó là Phạm
Phương tiện cầu pháp, đây hỷ tâm
Và bất thoái chuyển, đây sở hạnh
Đây là thú hướng hạnh nói năng
Thường nghĩ người trí tuệ lợi căn.
Đây là việc phương tiện đầu nghiệp (nghiệp bắt đầu)
Trượng phu vua trâu, đó trí tràng
Muốn cầu thắng thì đó bằng cung (tên)
Cầu vô ngã là na la dạ (?)
Nếu hướng Phổ trí, đây là đường
Cầu thiện thoát là giới bình đẳng
Đây là chỗ trời... lễ bái luôn
Đây là chỗ rồng... tung hoa mãi
Và là người đều dâng cúng dường
Dạ xoa hy hữu khen ngợi tốt
Hàng trăm La hán cũng lễ mừng
Bồ đề Thắng Thiên cũng xưng tán
Nếu Như Lai đều niệm của mình
Muốn hộ căn thì đó nang thành (quách)
Như pháp trụ là hợp phương tiện
Định y chỉ, đó được ngang bằng
Các hữu nghi thì khiến phá tán
Hữu mê hoặc thì đều khiến đoạn
Cao mạn phiền não khiến diệt tan
Muốn qua bờ kia, hay khiến độ
Bệnh ràng buộc, đây là thuốc lành
Người có bệnh, đây là trị thật
Tên độc phiền não hay nhổ lên
Muốn hợp lý là tạo suy nghĩ
Trong chúng, sư tử rống không kinh (hải)
Ở chỗ Thiện Thệ cầu nghe pháp
Và thường đường này là Niết bàn
Hay đoạn các đường ác sở hữu
Ở chỗ ba cõi đều vượt lên
Cầu cõi công đức, đây trang nghiêm
Kim cương dụ định đây với đó
Sinh tòa sư tử lần sau cùng.
Việc cầu phước đức, đây chẳng mất
Các việc muốn cầu, đây nhiếp hết
Thường thiếu mệt thì khiến ngưỡng mong
Chưa có tinh tấn, đây phát dục
Nương níu duyên thì khiến lập yên
Pháp hạnh khác biệt, che khiến trụ
Có bình đẳng thể, đây thành tựu
Nương vật kiêu, dật, đây trừ tan
Lấy vật ngang ngược, đây buông bỏ
Biết hết các thứ trí khắp cùng (châu biển)
Cầu trí tuệ thì đây sinh xuất
Cầu phước thiết hội (lập hội) đây chẳng mất
Nương ba hữu (cõi) thì đây dứt nguyền
Cầu Bồ đề, thường không có tướng.
Ba đời các pháp không
Biết rồi mà chẳng xả
Thời thời phương tiện trí
Làm vì các thế gian
Chủng tính Phật thở than
Trí Phật là từ đó
Chớ cầu đến lỗi lầm
Ở người nói pháp đó
Cũng lại chớ khi khinh
Sở kiến kia chưa học.
Người nói pháp, chớ sân
Phải ở gần tôn trọng
Nghe thật phải biết chân (thật)
Chớ huỷ báng kẻ trí
Thí pháp, vật chớ mong
Nói pháp chớ dè xẻn
Nghe pháp tôn trọng chung
Tâm ý chớ tán loạn
Vì nói pháp hết lòng
Nếu thấy người ưa dục
Thí pháp chớ đoạn dừng
Chớ duyên vào việc khác
Kham nhẫn hỏi thẳng thừng
Hoặc hỏi vì giải thoát
Hoặc kẻ có ác tâm,
Trong đó Nhẫn tạo tác.
Hối và cả nghi hoặc
Đó đều đoạn vì ông
Nếu thấy chưa được đạo
Đem đạo vì tuyên dương.
Khi định này suy nghĩ
Dễ được trí Thế Tôn (Phật)
Các sở tác, các cúng (dường)
Người nói pháp ở bên
Cầu tám phận thắng đạo
Với việc khác chớ duyên
Nếu tâm ác tranh cạnh
Khó phục khiến phục hàng
Không nương “ đẳng túc” đó
Thần túc nên cầu mong
Niệm tuệ và hành xứ
Những người cầu pháp đó
Phát khởi đều nói rằng :
Hành Bồ đề nếu phát
Thị hiện câu trí Phật
Đều cõi đó trụ yên
Nói hóa độ chúng sinh
Nếu người thuyết pháp đó (nói)
Vị này là rất ngon
Nếu kia hành Lan nhã
Và cầu du hí thông (thần thông)
Mà rống tiếng sư tử.
Hạnh những trí giả đó
Với tịch diệt ngợi khen.
Đoạn nhiệt có thanh lương
Đây là câu “bất đọa”.
Nói lợi ích mở trói
Hỷ lạc phát ở thân
Lòng ấy cũng kinh (sợ) hỷ (mừng)
Người trí du hý trí
Kia cầu trí khắp cùng (châu biến)
Tịnh tín những pháp đó,
Trụ Phật trí chẳng thoái
Quyết định vì Bồ đề
Bạch pháp thuận huân tập
Các ác đều bỏ đi
Với hắc trợ giết hại
Bạch pháp liền tự lại (đến)
Những người học giới kia
Nếu muốn cầu phước đức
Những người đó thành được.
Nếu cầu thì tương ưng
Những người đó đến được
Tướng đoan nghiêm trong thân
Hạnh này Phật thuận biết
Các thánh thân cận xong
Trí sáng soi trong trí
Phổ trí Phật trí thành
Trụ đây rồi sẽ thấy
Câu trí bậc đoan nghiêm
Trong này, đó đại lực
Kẻ trí hỏi nghi nan
Đoạn trừ các nghi ấy
Các hoặc đều diệt tan
Trong này sinh Phật pháp
Được người Thắng ngợi khen.
Lìa bỏ các đời ác
Và sở hữu não phiền
Chẳng mất các phước đức
Với phước nếu cầu mong
Thì họ duyên kẻ trí
Ái pháp là tột cùng
Và vui mừng mắt pháp
Người dũng kiện thân gần.
Biện luận pháp suối chảy(trôi chảy)
Muốn cầu khéo ngữ ngôn
Đã nói thì họ hộ
Người nói pháp sở hữu
Và biết các nhân duyên
Ưa gặp người nương cậy.
Trong các pháp khéo ưng
Hòa hợp chẳng hòa hợp
Trí thể, phương tiện phân
Nói đến các pháp xong.
Như vậy hiện các pháp
Trí tư duy thật chân
Ở trong đoạn lưới khát
Phải bỏ các ái trước
Vô minh ở trong tan
Sẽ được hiện tiền sáng
Khắp biết tính (sổ) ở trong
Chỗ đó nói vô trước.
Biết ý đủ thứ lòng
Ở đây rộng nói xong
Sắc cùng danh nhiếp lấy
Những đó nói ở trong.
Chỗ sáu căn quan sát
Như thấy làng trống không
Với xúc bên ngoài biết
Sẽ được thấy trí Phật
Nếu lìa ba thứ ngôn (nói)
Thì họ thủ ở trong
Và diệt ba thứ ái
Thị họ nói ở trong
Nói ở trong xả bỏ
Nếu chỗ sở sinh đó
Với hữu họ đoạn tan
Ở trong định này nói
Bệnh hợp dứt hẳn sinh
Và lìa tên độc chết
Các khổ tịch ở trong
Thì các dòng phân biệt
Các lo khiến vui mừng
Ý ác khiến giải tán
Thành phương tiện sạch trong
Nếu người hành pháp đó
Đầy đủ sự xét xem
Nếu có sự cầu thắng
Tạo sáng trong ác sân
Nếu sở hữu mê nhãn (mắt mê)
Trong nay sấm Phật vang
Khi chuyển bánh xe pháp
Hạnh mạnh, đây xưng dương
Nếu trí thế gian đó
Trong này khắp trừ tan
Nếu trược loạn não phiền
Trong này hại các kiến
Nếu sở hữu ta nương
Thọ lấy và cho giữ (trì)
Trong này đều nói xong
Chẳng lẫn trong trí Phật
Như vậy sẽ được hơn (thắng)
Các pháp tăng trưởng luôn
Đây là đạo trí khéo
Bạch pháp tịch tụ luôn
Xa lìa các nghiệp ác.
Pháp Phật tu niệm luôn
Nói sẽ không san lậu
Chẳng đoạn giống Thế Tôn(Phật)
Phải trụ ở trong đó
Chủng tính pháp sáng lên
Thánh chúng đều nhiếp lấy.
Ứng phục thầy luận bàn(luận sư)
Ngoại đạo muốn khởi dậy
Nói pháp xưng rằng : lành
Bọn họ sẽ hưng tán (khen ngợi)
Hạnh Bồ đề thường hành
Ở đó không tâm niệm.
Như trăng, các chúng sinh
Thường tạo ý bằng hữu
Các pháp, như vầng dương (như nhật)
Luôn giữ suy nghĩ chính
Giáo sư tưởng khởi luôn
Ở trong nghĩ định ấy.
Định này giống như vương (vua)
Vì chúng sinh rộng nói
Vì người trí dẫn đường
Bạch pháp lòng chánh tín.
Quả cam lộ chín thành
Khiến niệm trụ đời trước
Thọ thai, nhiễm bẩn không
Phép si nhi chán bỏ
Công đức Phật đại tiên
Khi khen không bờ bến
Khi trì tuệ Thế Tôn (Phật)
Thiện Thệ khi đã nói
Và trí khi chép thành
Khi nói sẽ được phước.
Xa lìa ngoại đạo xong
Đây là chỗ bất động.
Lời nói thọ thế gian
Lời nói của chư Phật
Công đức quá khứ Phật
Ở đời sau cầu mong
Hiện tại trụ chư Phật
Đây là các bảo tàng.
Khiến chúng sinh vào hạnh
Vì nói thừa Thanh văn
Với trí chẳng quên mất
Phật pháp, đây là in (Ấn)
Đây ra đó mạnh mẽ
Đây, báu không biến đổi
Và các trí mau thành
Muốn hỏi công đức Phật
Ham pháp không chán nhàm
Tan các lửa phiền não
Trí phương tiện sẽ thành
Địa giới riêng suy nghĩ
Thủy giới sẽ vào trong
Vào với định Hỏa Giới
Phong Giới, trú xứ không (có)
Không giới chẳng mê hoặc
Trong trí giới hiện lên
Khiến vào với Pháp giới
Chán lìa khỏi các hành
Khiến tan các ái nhiễm
Các biển “hữu” ghét thêm
Trừ diệt các hoạn nạn
Hạnh khác cũng biết rành
Muốn nói không có hết.
Trong phương tiện sạch trong(vô trược)
Chỗ ra sẽ thuận biết
Ngã kiến phải bỏ xong
Cũng xa lìa Ngã sở
Nhiễm trước phải trừ tan
Kiêu mạn nên điều phục
Như chó hành vì ăn
Không tham trong bố thí
Đã ăn nên no tràn
Ăn rồi phải biết lạc (vui)
Tại ấm không thiếu được
Nước lớn phải qua nhanh
Các luận chẳng thể phá
Thuần trực không vin duyên
Xa lìa khỏi thụy miên
Thân cận người nói pháp
Trạo hí vượt qua liền
Cũng nên diệt nghi hoặc
Và các dục khiến tan
Cũng lìa xa lười nhác
Chỗ Ngã chẳng thấy được
Vô ngã khiến hiển minh
Chẳng trụ ở với mạng
Chạm pháp cũng chẳng nên
Chẳng đấu tranh trong pháp
Nói hợp nghĩa ngang bằng
Dùng lòng giỏi suy nghĩ
Các hạnh sở hữu không
Phải gần gũi người trí
Các nơi, khiếp nhược không.
Trong đó phải tín giải
Tại chúng chớ kinh hoàng.
Nói công đức người khác
Chớ nâng cao thân mình
Chỗ sở hạnh Biến trí
Luôn luôn cần phải hành
Không ái trước trú xứ
Như chim bay mất tăm.
Chớ hành vì lợi dưỡng
Cũng chẳng kể thân mình
Tâm cũng chẳng giảm kém
Khéo biết chỗ kinh hành
Phải thuận theo tu niệm
Chớ nghĩ, chớ nhớ mong
Cũng sẽ cầu giải thoát
Luôn ở chỗ lặng yên.
Thường niệm tu phạm hạnh
Với định sẽ được nhanh.
Từ ở lòng bình đẳng
Bi là nhiếp thuận tùng
Dùng Hỷ làm lạc pháp
Chỗ Xả phải bỏ luôn
Dùng Giới thương người khác
Do định sẽ giác pháp
Do trí làm nên làm
Về sau không hối não.
Phải xuất trí không cùng(vô tận trí)
Cũng nên lời khéo léo
Nói Ngã vào ngữ ngôn
Chỗ nói không cầu lợi
Không ưa lời tạp ngôn
Là trụ không mệt thiếu
Chẳng bỏ chẳng lấy thêm
Các pháp là Bồ tát
Chớ hoại các pháp tan
Như vậy nói minh hiển
Chẳng lừa dối chúng sinh
Phải qui y Tam Bảo
Chính pháp nhiếp lấy tròn
Tạo nguyện phải bền chắc
Vói tiểu thừa không ham
Ngày đêm nên siêng hợp.
Vì cầu các pháp nên
Biến Trí từ đó lại
Chư Phật, đây kho tàng
Tam ma địa như biển.
Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, đức Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai vì đồng tử Pháp Thượng đó, dùng kệ tụng, rộng nói “Chư Pháp Hạnh Quyết Định Quan Sát Thuyết Tam Ma Địa” này. Khi Ngài nói Tam ma địa này thì vua Bảo Nguyệt và các con, quyến thuộc được chẳng thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Giác. Đầy đủ một ngàn chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Giác. Học địa của vô lượng chúng sinh tăng trưởng. Này Hỷ Vương ! Ý ông thế nào về Ca la đó, Tam ma gia đó tên là Pháp Thượng đồng tử? Là ai khác ư? - Ông chớ có thấy người khác như vậy? Vì sao vậy? Này thiện gia tử ! Vì ông tức là Ca la đó, Tam ma gia đó tên là Pháp Thượng đồng tử vậy. Này thiện gia tử ! Ca la đó Tam ma gia đó tên là Bảo Nguyệt vương thì Đại Bồ tát Từ Thị hôm nay tức là Ca la đó Tam ma gia đó tên là Bảo Nguyệt Vương vậy. Như các con của vua đó lại tức là chúng Đại Bồ tát này tập hội ngồi đó vậy. Này Hỷ Vương ! Bấy giờ Đại Bồ tát Pháp Thượng cùng với cha, mẹ, tôn trưởng và bạn bè tri thức, đầy đủ ba mươi sáu ngàn câu trí chúng sinh cùng chung ở trong giáo pháp của đức Như Lai Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương mà bỏ nhà xuất gia. Này Hỷ Vương ! Họ yêu thích giáo pháp của đức Thế Tôn đó, làm tỳ kheo, tỳ kheo ni, Ưu Bà Ta Ca, Ưu Ba Tư Ca rất nhiều.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã biết ý nghĩa này rồi, lại muốn hiển minh thêm nữa, lúc này ngài liền nói bài kệ tụng sau đây :
Ta nhớ xưa nhiều câu trí kiếp
Có đấng Tối Thắng hiệu Bảo Quang
Ngài có Tăng chúng cũng nhiều lắm
Và các Bồ tát lậu tận xong.
Nước Phật đó khả ái thanh tịnh
Trang nghiêm tự nhiên như thiên cung
Trang hoàng, vườn, tụ lạc, thành ấp
Bằng hoa trải như bàn tay bằng.
Trong đó có vua tên Bảo Nguyệt
Với hàng ngàn châu, tự tại vương
Phước tuệ đầy đủ là bậc trí
Rộng thần túc, vô biên kho tàng
Vua ở vườn rừng vui du hí
Thiên phụ có mang, đồng tử sinh
Tên là Pháp Thượng đáng chiêm ngưỡng
Thắng tướng trang sức rực sắc vàng.
Đồng tử vừa sinh nói diệu ngữ (lời vi diệu)
Nói về pháp Phật mà ngợi khen
Nói tại gia ác, không nhàn đức
Các tội lỗi dục cũng nói lên
Hóa độ mẹ cha và thân thuộc
Trí giả nghĩ khiến tin sạch trong (tịnh tín)
Vua đó vui mừng mà nhảy nhót
Hướng về bên Tối thắng Đại Tiên.
Đồng tử chẳng lại vào gia nội
Liền cùng cha mình ở trong vườn
Chung với thân thuộc và đại chúng
Ba mươi sáu ức bên Thế Tôn
Vua Đại Tượng đó đã đi đến
Đó đã thấy Bảo Quang Pháp Vương
Lòng thêm hớn hở, ái đệ nhất
Lễ dưới chân rồi ngồi một bên
Pháp Thượng cũng lễ chân Tối Thắng
Rồi chắp tay mà hầu Thế Tôn
Đã kính trọng Phật đó như vậy
Đồng tử ca tụng bằng kệ khen
Với Tối thắng, ông nhiều khen ngợi
Pháp thể thật đức thầy dẫn đường
Vua và các con cùng đồ chúng
Duyên theo Bồ đề mà phát lòng
Pháp Thượng hỏi han với đức Phật
Nói định này, Tịch Tịnh ly trần;
Mạnh mẽ trụ Tam ma địa ấy
Bồ đề chứng giác, ma phục hàng.
Đấng Lưỡng Túc Tôn nhận lời thỉnh
Biết tâm đồng tử đã tịnh tin
Liền vì ông nói định khó thấy
Uy đức lớn thì dùng kệ khen
Tam ma địa này Phật đó nói
Chư Phật Bồ đề tịch ly trần
Vua và các con cùng thần dân
Liền trụ Phật trí chẳng thoái chuyển.
Học, vô học, chỗ đó người đông
Đã nghe được tịch định như vậy
Lại còn nhiều câu trí chúng sinh
Duyên với Bồ đề mà phát tâm
Vua và các con cùng đồ chúng
Phước ngũ dục đều khiến lìa, nhàm
Lúc đó đồng tử là thượng thủ
Ở đây bỏ nhà xuất gia liền
Sở hữu yêu thích với thầy dạy
Khắp nơi đầy người và chư thiên
Đồ chúng Thiện Thệ đó nhiều lắm
Ở trong, chẳng dễ được số lường
Hỷ Vương ! Ông ở thuở xưa đó
Chính là đồng tử Pháp Thượng xưng !
Người ở trong đó làm phụ vương
Nay là Bồ tát Từ Thị đó !
Các vương tử sở hữu lúc đó
Tức là các chúng hội ngồi đây !
Chúng sinh tại cõi tương tục này
Biết rồi khiến trong hạnh hành tịnh
Vậy nên đã nghe xong Tịch định
Nên phải thọ lấy, tịnh tín luôn
Thường vì người nói không sẻn tiếc
Sẽ có Phật trí chẳng khó khăn
Số lượng phước đó chẳng dễ được
Thời gian nói, nhiều kiếp không lường
Định Thắng Thượng này nếu hay giữ
Vì chúng sẽ nói chớ buông lung.
Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hỷ Vương bạch đức Phật rằng :
- Hy hữu ! Thưa đức Thế Tôn ! Tam ma địa này tạo ra nhiều lợi ích mới có thể cho các Bồ tát các công đức pháp, khiến cho các vị ấy chuyển sanh. Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát được Tam ma địa này thì nên phải thân cận, nên phải tu niệm, nên phải làm nhiều những pháp gì? Nên phải chẳng thân cận, nên phải chẳng tu niệm, nên phải chẳng làm nhiều những pháp nào? Rất hay ! Thưa đức Thế Tôn ! Có những pháp nào? Không có những pháp nào? Thưa đức Thế Tôn ! Xin nguyện vì con rộng nói ! Thưa Tu Ca Đa ! Xin nguyện vì con phân biệt ! Bồ tát pháp nào có? Pháp nào không?
Đức Phật dạy rằng :
- Này Hỷ Vương ! Bồ tát, ở trong lưu chuyển, không có mỏi mệt. Bồ tát, ở trong chúng sinh, không có sai biệt. Bồ tát, ở trong của cải, không có thọ lấy. Bồ tát đối với thí không bất bình đẳng. Bồ tát đối với học không chẳng kính trọng, trì giới không có chỗ sinh, lòng không nhiệt não, lòng không khiếp nhược, không có tà giác, không chẳng suy nghĩ mà có sở đắc. Bồ tát, ở trong chúng sinh không có giết hại, ở trong của cải người không có trộm cắp, đối với vợ người không có ái trước, không nói nghiệp ác, không lời phá hoại, không có ác khẩu, không có nói thêu dệt, chẳng tham của người khác, không theo sân nhuế, không có thấy rừng hạnh nhiều, không có qua khỏi Bồ đề ái, chẳng hủy báng pháp, chẳng khi mạn Tăng, đối với những bậc đáng tôn không ai chẳng kính trọng, ở cửa giải thoát không có kinh sợ, ở trong việc làm người khác không có mệt mỏi, chẳng tự ngợi khen, chẳng hoại kẻ khác, trong hành động lưu chuyển không có tùy thuận, trong hành động phi lưu chuyển không gì chẳng thuận theo, đã phát lời thề thì nhất định chẳng thay đổi, đối với việc đã làm nhất định chẳng trùng hủy, việc làm của người khác thì biết ơn, việc làm của mình thì không mong cầu, đối với vô lực không có khinh khi, đối với người chưa học không có chê hèn, chẳng lưu luyến vợ con, không có yêu ghét, đối với giáo sư không có bí mật riêng, trong pháp làm thầy không có giấu giếm, ở trong các pháp không có tư tưởng phá hại, ở trong pháp thí không có mệt mỏi, ở trong cầu pháp không có lười chán, chẳng do lợi ràng buộc mà có điều giảng nói, chẳng do bố thí mà làm bạn bè, chẳng dua nịnh thừa sự, không có hai lưỡi, chẳng vì huyễn hoặc mà gần gũi thừa sự, chẳng ghét đối với pháp, không ngã, ngã sở, chẳng luyến đối với thân, chẳng ái đối với mạng, không có ngã kiến, không có tạo oán, trong thật, chẳng thật không có hủy báng, ở trong đọa pháp không sân phát giác, chẳng phải thiếu thời ái, chẳng phụ bạn bè, đối với chỗ gần gũi cận kề không có dối lừa, trong thật và chẳng thật chẳng phạm nâng lên, thả xuống, chẳng làm lừa dối; chẳng điều khiển phi thời, ở trong chúng sinh khác không tư tưởng cạnh tranh, ở trong phát sự không có giải đãi, chẳng tổn đến Nhẫn, chẳng đáp lại lời ác, chẳng ràng buộc với oán, chẳng khi thấp hèn, theo tiếng nói đùa không có ham mộ, ở trong tinh diệu không có chẳng xả, ở trong ăn uống không có chẳng phân chia, khi bố thí chẳng dùng vật xấu, ở chỗ phụ nữ không có phi hạnh, ở chỗ trượng phu không có nhiễm ô, chánh tín chẳng bỏ, học giới chẳng thông thả, không gì chẳng tàm quí, không gì chẳng tu sĩ (xấu hổ), không có thiếu phước, không có thiếu nghe, thí rồi chẳng hối, với trí chẳng lầm lẫn, ở trong Tam Bảo không gì chẳng kính trọng, ở trong thế đế chẳng là bền chắc, ở trong thắng nghĩa không có vào nhiễm trước, không có thấy rừng hạnh rậm rạp, không có ngã thủ, chẳng quên chánh niệm, ở trong chánh đoạn không có làm khác, ở trong thần túc không có vị say, trong căn chẳng mềm, trong lực chẳng yếu, ở trong giác phận không có chẳng biết, với đạo không chao đão, trong Tam ma địa không có trước tướng, trong Xa ma tha không có trụ chắc chắn, đối với Tỳ phát xá na không có phân biệt, với minh giải thoát không có độc chứng, ở trong các đế không có chướng ngại, trong “qua bờ kia” không chẳng phát khởi, trong tụ (nhóm) chẳng đắm trước, trong giới chẳng nương nhờ, chẳng phải thời chẳng được, ở trong Thanh văn không có thấy chứng (100). Đối với các Bồ tát không chẳng phải giáo sư, ở trong các Nhập không có ý niệm, ở các cảnh giới không có y chỉ, chẳng do tự nghiệp mà sinh đường ác, trụ ở trong thai không có khổ não, ở trong lưu chuyển không có hỷ lạc, ở trong lưu chuyển không có khổ tưởng, ở trong những chỗ sinh ra không có kinh sợ, đối với các chúng sinh không chẳng phải là ruộng, không thiếu hạt giống, ở chỗ gieo trồng trọn chẳng hy vọng, ở các ruộng phước người thọ không có trống khuyết, ở trong bố thí chẳng ràng buộc hạn lượng, ở trong trì giới chẳng ràng buộc hạn lượng, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng chẳng ràng buộc hạn lượng, lưu chuyển cũng chẳng ràng buộc hạn lượng, Từ chẳng chia cắt, đại Bi không thiên lệch, không có Gia (nhà) mạn, không tư tài (của cải) mạn, không có sắc mạn, không tự tại mạn, không quyến thuộc mạn, không đa văn mạn, không trì giới mạn, không có trụ không nhàn mạn, không có kiêu mạn Đầu Đà công đức thiểu dục, không có mạn mạn, không có sân si, không có tùy miên ái, ở trong điên đảo không lấy làm thật, ở trong tịnh và bất tịnh chẳng lấy làm hai, chẳng ham sinh lên trời, chẳng ưa thích Dục, chẳng phải người đồng nghiệp nhất định chẳng thân cận, không chẳng cần (siêng) hợp, chẳng trì thế luận (biện luận của đời), ở trong ngoại đạo không chẳng thương xót, ở trong sự vật không có ràng buộc tư tưởng, đối với tự thân ấy chẳng muốn cầu vui, không có yêu giả trá, chẳng nương cậy ma la. Này Hỷ Vương ! Các Đại Bồ tát đã phát lời thề thì nhất định chẳng dời đổi cho đến Bồ đề trường rốt cùng (150). Này Hỷ Vương ! Các vị Đại Bồ tát, những vị này đều không, sở hữu khác của mình chẳng được làm thì nên phải chớ làm. Ở trong, người nào có thể tác pháp? Này Hỷ Vương ! Các Bồ tát phải chẳng hủy báng. Bồ tát chẳng hủy báng người khác thì tự được an định. Trong các việc làm chẳng động, chẳng hoãn (thông thả), phải gánh vác gánh nặng. Ở trong việc đen (hắc sự) phải chẳng làm theo. Ở trong việc trắng (bạch sự) phải làm lợi ích. Trong phần ít hạnh phải làm vượt qua. Trong vô lượng hạnh cũng phải đã vào. Trong việc thấm nhuần yêu thương phải làm xa lìa. Ở trong pháp lượng sẽ chẳng xa lìa. Đối với khổ sinh tử sẽ được giải thoát. Ở trong cuộc sống suy nghĩ, đã sinh ra thì sẽ chẳng giải thoát. Trong nghiệp bất thiện phải chẳng nhiếp lấy. Đối với các căn phải làm nhiếp lấy. Trong phiền não thí Bồ tát phải bỏn xẻn. Ở trong pháp thí Bồ tát phải chẳng xẻn lậu. Trong ngoại đao học phải chẳng tu học. Trong các chỗ Phật cho học phải giỏi tu học. Trong chẳng bình đẳng thấy nhẫn phải làm bất nhẫn. Trong chánh kiến nhẫn phải đầy đủ nhẫn. Trong ác tác nghiệp, phải làm giải đãi. Trong thiện tác nghiệp phải phát tinh tấn. Ở trong phi tưởng, phi phi tưởng sinh thì phải quên nhớ nghĩ. Ở trong năm thông dong chơi phải có mùi vị định. Ở trong chú thuật đáng sợ, đạo dùng độc, dựng dậy thay chết phải làm vô trí. Trong trí xuất thế phải làm trí tuệ. Phải như vầng trăng đối với các chúng sinh lòng bình đẳng, bạch pháp tăng trưởng. Phải như mặt trời xa lìa tối đen, tạo tác trí quang minh. Phải như đất xa lìa cả hai, đối với các chúng sinh lòng bình đẳng. Phải như nước sạch cùng với chẳng sạch, các cặn không ghét. Phải như lửa, các phiền não thiêu cháy. Phải như gió, đối với các pháp không sở trước. Phải như hư không, vô lượng trí. Phải như biển, cầu thiện căn không chán đủ. Phải như núi Mê lưu (?), các luận sự khác chẳng thể hàng phục. Phải như hoa sen, tám tháp thế gian chẳng nhiễm trước. Phải như cây cối, không phân biệt, phải như chủng tính, pháp vô tận, các phiền não chẳng thể dày xéo. Trong hạnh chúng sinh phải thú hướng, chẳng chấp trước các thú hướng, phải hướng vào trong Niết bàn. Phải tạo tác ruộng thiện, trừ khử gai nhọn ác sân hận. Phải khéo chọn lựa niềm tin làm hạnh ban đầu. Phải được quả lớn, nói bốn đế. Phải được lợi lớn ở trong Phật pháp. Phải được vô chướng ở trong Trí giải thoát Tam ma địa tam ma phát đế. Phải được hoan hỷ bằng pháp hỷ. Phải được đã qua ở trong bùn khổ sinh tử. Phải rơi vào tương ứng, phương tiện khéo léo. Phải tạo tác nghiệp thiện, thoát ly chẳng tương ứng. Phải quan sát thiện nhẫn ở trong chứng. Phải tạo tác ái ngữ bằng tịnh tín bên trong. Phải tạo tác bạn bè bền chặc cho đến Niết bàn, bạn bè tối thắng vậy. Phải tạo tác thuần hậu, không huyễn hoặc. Phải tạo tác chất trực, không dua nịnh quanh co. Phải tạo tác nhu nhuyến, dễ ở chung, Phải tạo tác khả lạc, tin nhuần bên trong. Phải đến các nơi, tùy thuận di chuyển. Phải tạo tác nhuận trạch (thấm nhuần) bằng Đại Bi. Phải tạo tác khát ngưỡng đối với Bồ đề trường. Phải tạo sự chẳng thèm khát ở trong các dục. Phải khiến no đủ đối với các Thanh Văn. Phải tạo sự giáo hóa đối với các Duyên Giác; Phải tạo nhớ nghĩ đối với các căn lành. Phải tạo sự phát giác ở trong bất thiện. Phải tạo tác thủ hộ đối với chánh pháp. Phải tạo tác sự chẳng đoạn dứt đối với Tam Bảo Chủng. Phải tạo sự rực cháy đối với các pháp thiện. Này Hỷ Vương ! Các Đại Bồ tát phải tịch diệt các nghiệp ác. Này Hỷ Vương ! Ta lược nói pháp bất thiện mà các Bồ tát không có vậy. Các hành động, các thiện pháp nên phải, ta nói có vậy. Như thế, các ông phải học ! Ta nói lời dạy bảo như vậy !
Khi đức Phật nói kinh này thì Đại Bồ tát Hỷ Vương vui mừng và những Đại Bồ tát từ các phương khác đến tập họp, cùng các đại chúng trời, người, A tu la, Càn thát bà.v.v... nghe lời đức Phật nói không ai chẳng tùy hỷ, vui mừng, nhảy nhót, chẳng thể tự kềm chế, siêng làm cúng dường. Đối với lời đức Phật nói họ đều rất vui mừng.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 4 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.23.101.91 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập