Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh [佛說觀佛三昧海經] »» Bản Việt dịch quyển số 10 »»

Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh [佛說觀佛三昧海經] »» Bản Việt dịch quyển số 10


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.4 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.5 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Quán Phật Tam Muội Hải

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | Quyển cuối
Việt dịch: Tuệ Khai

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

PHẨM THỨ MƯỜI : NIỆM THẤT PHẬT.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Nếu có chúng sinh quán tâm của tượng thành tựu thì tiếp đến phải lại quán tưởng tượng Thất Phật đời quá khứ. Người quán tưởng Thất Phật phải siêng tinh tấn, ngày đêm sáu thời siêng tu hành sáu pháp, ngồi ngay chánh thọ, phải ưa ít nói, trừ khi đọc tụng kinh, diễn giải rộng pháp giáo, nhất định chẳng tuyên nói lời nói vô nghĩa, thường nghĩ đến các đức Phật, tâm tâm tiếp nối nhau thậm chí không có một niệm nào mà chẳng thấy Phật. Do lòng chuyên tinh nên chẳng lìa khỏi mặt trời Phật. Thuở quá khứ xa xưa có đức Phật Thế Tôn hiệu là Tỳ Bà Thi Phật, thân cao hiển lớn sáu mươi do tuần. Vừng ánh sáng tròn của đức Phật ấy rộng đến một trăm hai mươi do tuần, thân màu vàng tía với tám muôn bốn ngàn tướng. Trong mỗi một tướng có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp. Trong mỗi một vẻ đẹp có vô số ánh sáng vàng. Trong mỗi một ánh sáng có hằng hà sa số vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có hằng hà sa ánh sáng màu. Trong mỗi một ánh sáng có vô số các trời, Thanh văn Tỳ kheo, đại chúng Bồ tát làm thị giả. Người người đều cầm một cành hoa báu lớn. Trên hoa đều có hàng trăm ngàn ức lưới báu ma ni rực rỡ. Lưới ngọc rực rỡ tiếp theo nhau cao đến một trăm ngàn trượng dùng làm ánh sáng của Phật. Lúc đó thân Phật càng thêm minh hiển như hàng trăm ngàn mặt trời chiếu soi núi vàng tía. Ánh sáng rực rỡ khơi lên hóa Phật nhiều vô số. Mỗi một vị hóa Phật giống như hàng trăm ức mặt trời, mặt trăng đều xuất hiện, khiến cho hành giả thấy đức Phật Tỳ Bà Thi trật áo vai phải, đưa ra cánh tay vàng, xoa đỉnh đầu hành giả mà bảo rằng : “ Này Pháp tử ! Ông hành Quán Phật tam muội, được tâm niệm Phật nên ta đến làm chứng cho ông ! Ông nay có thể quan sát sắc thân chân thật của ta. Ông theo thứ lớp từng tướng từng tướng mà quán tưởng. Ông phải chí tâm lập lời thề Kim cương ! Chúng ta thuở xa xưa khi làm Phật đạo so với ông không khác gì”.
Lúc bấy giờ, đức Phật Tỳ Bà Thi an ủi hành giả rồi, tức thời hóa làm hoa sen báu lớn như núi Tu di. Đức Phật ngồi kiết già trên hoa vì hành giả giảng nói niệm Phật, niệm Pháp và nói hàng trăm ức Toàn Đà la ni. Hành giả thấy rồi, thêm bội phần hoan hỉ, kính lễ đức Phật đó. Đức Phật đó bảo rằng : “ Nếu có chúng sinh nghe tên ta, lễ bái ta thì trừ khước được năm trăm ức kiếp tội sinh tử. Ông nay thấy được ta thì tiêu trừ được các chướng ngại, được vô lượng ức Toàn Đà la ni, ở đời vị lai sẽ được làm Phật.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Lúc bấy giờ, hành giả thấy đức Phật Tỳ Bà Thi, lòng vui mừng nên ta cùng sáu đức Phật hiện ra ở trước mặt người ấy. Đức Phật Tỳ Bà Thi ngồi trên tòa vì pháp tử này giảng nói Niệm Phật tam muội. Đức Thế Tôn Thi Khí, thân lớn bốn mươi hai do tuần, thân màu vàng tía, vừng hào quang tròn rộng bốn mươi lăm do tuần, ánh sáng thông thân một trăm do tuần. Trong lưới ánh sáng ấy có vô số vị hóa Phật và các đại chúng Bồ tát Thanh văn, chư thiên làm quyến thuộc vây quanh, đi theo sau đức Phật, uyển chuyển xoay quanh về bên phải. Lúc đó, hành giả thấy đức Phật Thi Khí lại càng tăng thêm vô lượng Đà la ni môn, lại càng được thấy rộng thêm trăm ngàn vô số vi hóa Phật. Vào đời vị lai qua vô số kiếp, ở trong khoản giữa ấy hành giả luôn luôn được gặp các đức Phật Thế Tôn và sinh vào nhà Bồ tát”. Khi nói lời nói đó, lại có vô số trăm ngàn vị thiên tử nghe việc đó rồi, đều thấy sắc thân đức Phật đoan nghiêm vi diệu. Đồng thời họ đều phát tâm Tam Bồ đề.
Đức Thế Tôn Tỳ Xá, toàn thân phóng ra ánh sáng trụ ở trước mặt hành giả. Thân đức Phật ấy lớn ba mươi hai do tuần, vừng sáng tròn rộng bốn mươi hai do tuần, ánh sáng thông thân sáu mươi hai do tuần, thân màu vàng tía, tướng ánh sáng uy nghiêm như vị Phật trước không khác. Hành giả thấy đức Phật này rồi, lại càng tinh tiến các đà la ni tam muội môn, vào đời vị lai nhất định sẽ sinh vào nhà của chư Phật, chẳng gì ngăn ngại được.
Đức Phật Câu Lưu Tôn cũng phóng ra ánh sáng trụ ở trước mặt hành giả. Thân đức Phật ấy lớn hai mươi lăm do tuần, vừng sáng tròn rộng ba mươi hai do tuần, ánh sáng thông thân năm mươi do tuần, tướng tốt đầy đủ như núi vàng tía. Người thấy đức Phật này thì thường sinh vào đất nước thanh tịnh, chẳng ở trong bào thai, lúc sắp mạng chung, các đức Phật Thế Tôn nhất định đến nghênh tiếp.
Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni phóng ra ánh sáng lớn trụ ở trước mặt hành giả. Thân đức Phật ấy lớn hai mươi do tuần, vừng sáng tròn rộng ba mươi do tuần, ánh sáng toàn thân lớn bốn mươi do tuần, tướng tốt ánh sáng đầy đủ. Người thấy đức Phật này thì liền được trăm ức các tam muội môn, vô số Đà la ni môn. Nếu khi xuất định thì thường được tam muội chư Phật hiện tiền. Như tam muội này chứng minh cho hành giả thì sở dĩ gọi là tam muội chư Phật hiện tiền là vì người được tam muội này, dù xuất định hay nhập định, đi, đứng, ngồi, nằm, luôn luôn được nhìn thấy tất cả các đức Phật, vì chư Phật dùng sắc thân vi diệu hiện ra trước mặt người ấy.
Đức Thế Tôn Ca Diếp phóng ra ánh sáng lớn trụ ở trước mặt người ấy. Thân đức Phật ấy lớn mười sáu trượng, thân màu vàng tía, tướng tốt đầy đủ. Người thấy đức Phật này, được tam muội Tịch Diệt Quang Vô Ngôn Tướng, vào đời vị lai, luôn luôn trụ ở trong biển Tam muội Đại Không.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thân một trượng sáu, phóng ra ánh sáng vàng tía, trụ ở trước mặt hành giả. Đức Thế Tôn Di Lặc, thân lớn mười sáu trượng... Như vậy chư Phật đều vào tam muội Phổ Hiện Sắc Thân để thị hiện trước mặt người ấy, khiến cho hành giả ấy, lòng được hoan hỉ. Do hoan hỉ nên các vị hóa Phật đó đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả. Hành giả thấy Thất Phật rồi, thấy đến đức Di Lặc; thấy đức Di Lặc rồi, thấy Bồ tát của kiếp Hiền, thấy từng vị từng vị theo thứ lớp cho đến đức Lâu Chí. Các vị ấy đều phóng ra ánh sáng trụ ở trước mặt hành giả. Một ngàn vị Bồ tát, mỗi mỗi đều khen ngợi tam muội Niệm Phật và vì hành giả diễn nói tính của các Bồ tát, diễn nói giải thoát của các Bồ tát, diễn nói tuệ của các Bồ tát. Đó gọi là quán tưởng tượng tâm được tam muội Niệm Phật - Đức Phật bảo ngài A-nan - Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Người tu tam muội này tuy có đủ phiền não nhưng chẳng bị sự sai khiến của phiền não. Do sức tam muội niệm Phật đó nên chư Phật mười phương phóng ánh sáng lớn thị hiện trước mặt người ấy. Ánh sáng này đặc biệt tôn quí, ba cõi không gì sánh bằng.
Đức Phật nói lời nói đó rồi thì vua trời Phạm lại khuyến thỉnh :
- Nguyện xin đức Phật Thế Tôn nói về chư Phật mười phương trụ ở trước mặt hành giả, hiện sắc tướng ánh sáng !
PHẨM THỨ MƯỜI MỘT : NIỆM THẬP PHƯƠNG PHẬT
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là hành giả quán tưởng Phật mười phương ? Quán tưởng Phật mười phương thì trước hết là phương Đông. Phương Đông có thế giới mà đất nước tên là Bảo An Ẩn, do vô lượng ức báu với hàng ngàn ức màu sắc hợp thành. Đức Phật ở đó hiệu là Thiện Đức cũng phóng ra vô số ánh sáng soi khắp trăm ngàn nước, cũng cùng với vô số ức những hóa Phật phân thân, trụ ở trước mặt hành giả. Thân sắc như núi vàng, đoan nghiêm không gì so sánh được, ngồi trong động Kim cương lớn với nhà cửa lầu các trang nghiêm bằng vô số ánh sáng đủ thứ báu. Dưới mỗi một nhà, gác có vô lượng vi trần số trăm ức các cây báu. Dưới mỗi một cây báu có tám muôn bốn ngàn tòa sư tử mà trên mỗi một tòa sư tử có một đức Phật phân thân ngồi kiết già, vào tam muội ở dưới cây báu. Đức Phật Thế Tôn Thiện Đức, thân lớn hai trăm năm mươi ức nadotha do tuần. Mỗi một lỗ chân lông của thân ngài có vô số ức vi trần những thắng tướng tốt. Trong mỗi một tướng tốt có vô số vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật cao hiển lồng lộng như núi Tu Di, phóng ra ánh sáng lớn, ngồi trên hoa sen báu, trụ ở trong hư không. Các đức Phật phân thân mỗi mỗi đều khai hiện ánh sáng nhiệm mầu, hiển xuất vô số trăm ngàn vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật ngồi trên hoa sen báu. Mỗi một hoa sen có hàng ngàn tràng phan. Mỗi một tràng phan diễn ra hàng trăm ức âm thanh nhiệm mầu. Trong những âm thanh đó dạy quán tưởng mười phương vô số thân Phật. Khi tướng này hiện thì hành giả thấy mười phương thế giới giống như Kim cương với hàng trăm ức màu báu chẳng diệt chẳng hoại. Thấy tướng này rồi, hành giả, ở trước mặt chư Phật, thọ ngôi vị Pháp vương tử. Cảnh giới như vậy gọi là Tánh địa Bồ tát.
Phương Nam có đức Phật Chiên Đàn Đức, thân tướng cao hiển. Đất nước của đức Phật ấy, lưu ly làm đất với hằng sa màu báu. Ở trong ánh sáng của đức Phật cũng có vô số trăm ngàn nhà cửa lầu gác, hàng cây báu, bày tòa sư tử... Trên tòa, chư Phật ngồi kiết già, bảo tràng phan cái với âm thanh nói pháp... Như nói Phật Hải tam muội...
Phương Tây có đức Phật Vô Lượng Minh, đất nước thanh tịnh với đất bằng hoàng kim, năm trăm ức màu báu, ánh sáng thân Phật, lầu gác giảng đường, từng hàng cây báu, bày tòa sư tử báu, các đức Phật phân thân ngồi kiết già dưới cây báu, trong tràng phan báu cũng nói Niệm Phật hải..
Phương Bắc có đức Phật Tướng Đức. Đất cõi Phật ấy màu pha lê, có năm trăm ức ánh sáng báu, từng hàng cây báu, bày tòa sư tử báu, lầu các giảng đường, tràng phan, ánh sáng... so với trên không khác.
Phương Đông nam có đức Phật Vô Ưu Đức. Đất cõi Phật ấy màu thất bảo. Trên mỗi một màu có bảy trăm ức tạp sắc (màu xen lẫn), từng hàng cây báu, lầu gác, ánh sáng... hàng trăm ức vạn thứ. Mỗi một ánh sáng nói lên biển công đức của Phật, như nói về biển Phật...
Phương Tây nam có đức Phật Bảo Thí. Đất của cõi Phật ấy màu năm báu. Trên mỗi một báu có năm trăm ức ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hóa làm năm trăm ức mây hoa sen. Trên mỗi một đám mây hoa sen có hàng trăm ức lầu gác mà mỗi một lầu gác như trăm ngàn vạn ức cung vua Phạm. Trong mỗi một cung vua Phạm có vô số giường, tòa ngồi do ánh sáng hoa sen hợp thành. Trên những tòa đó có các đức Phật phân thân ngồi kiết già, diễn nói pháp Đại Từ Bi của chư Phật. Ánh sáng, tràng phan cùng diễn nói về Phật hải.
Phương Tây bắc có đức Phật Hoa Đức. Đất nước của đức Phật ấy màu lưu ly, pha lê. Trên mỗi một màu có vô số trăm ngàn ánh sáng mà mỗi một ánh sáng hóa làm năm trăm ức hang động báu. Trong mỗi một hang động có vô số bảo cái. Trong mỗi một bảo cái có hàng trăm ức ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có vô số đức Phật phân thân ngồi kiết già, phóng ra ánh sáng lớn. Trong ánh sáng ấy diễn nói niệm Phật tam muội. Nhân ở trong niệm Phật tam muội, hành giả lại được thấy vô số các đức Phật.
Phương Đông bắc có đức Phật Tam Thừa Hạnh. Đất nước của đức Phật ấy thuần một màu bạch ngân với hàng trăm ức vạn ánh sáng. Ánh sáng ấy có hàng ngàn màu sắc trang nghiêm khắp cùng bờ cõi đất nước rất là thanh tịnh. Phân thân hóa Phật, cây báu, tràng phan... hàng lối la liệt, trang nghiêm... tính chẳng thể biết được.
Thượng phương có đức Phật Quảng Chúng Đức. Đất của cõi Phật ấy có năm trăm ức màu báu. Mỗi một màu báu có vô số ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hóa làm vô số trăm ức vị hóa Phật. Trong mỗi một ánh sáng Phật có vô lượng hàng cây báu la liệt trang nghiêm. Dưới mỗi một cây có hàng trăm ức tòa sư tử báu mà các đức Phật ngồi kiết già ở bên trên với vô số Bồ tát làm thị giả. Tất cả đại chúng đều trụ ở trong đám mây ánh sáng của đức Phật.
Hạ phương có đức Phật Minh Đức. Đất của cõi Phật ấy màu vàng, ánh sáng vàng, mây vàng... Ở trong mây ánh sáng có vô số nhà vàng, lầu gác thất bảo, hàng cây trăm báu la liệt trang nghiêm, số tràng, phan, cái báu có đến ức ngàn vạn. Dưới mỗi một cây có trăm ức tòa báu. Những nhà cửa lầu gác vô số tọa cụ hình dạng như hoa báu... vô số tất cả các đức Phật phân thân ngồi trên tòa lưu li dưới gốc cây báu. Ở vùng những màu hoa có vô số Phật hội. Những đức Thế Tôn đó đều giảng nói pháp hạnh của Bồ tát.
Như vậy mười phương có vô số vị hóa Phật mà mỗi một vị hóa Phật hiển hiện ánh sáng. Các đức Phật mười phương, mỗi mỗi đều ngồi trong hang động Kim cương mà thân lượng, ánh sáng như đức Phật Thiện Đức và những vị hóa Phật, uy thần, đất nước... khiến cho hành giả nhìn thấy như ở trước gương sáng tự nhìn thấy hình dáng mặt mình. Hành giả thấy Phật mười phương tỏ rõ phân minh, lòng vui mừng nên chẳng nhiễm các pháp, trụ ở sơ tâm (lòng trong sach ban đầu). Lúc đó, các đức Phật mười phương rộng vì hành giả đều nói giống nhau về sáu Balamật. Nghe pháp đó rồi thì mười cảnh giới tâm ở dưới bậc Sơ địa, hành giả không có nghĩ ngợi nghi ngờ. Người thấy sự việc này thì nhất định nghe các đức Phật diễn nói Bát nhã Balamật, nghe “đệ nhất nghĩa không”, lòng chẳng kinh hãi, nghi ngờ. Ở trong các pháp, người ấy được vào “Không Tam muội”. Đó gọi là Tương Tợ Không Tướng Tam muội.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật muốn quán tưởng mười phương Phật, ở trong Niệm Phật tam muội chỉ biết tướng thô, rồi sẽ tự nhiên biết được vô lượng diệu tướng. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Người được sự quán tưởng này thì thấy Phật nhiều vô số, không thể hạn lường. Người vào định này gọi là người thấy sắc thân của tất cả chư Phật, cũng được vào dần dần cửa ba không. Người đi dạo cửa ba không này, nhờ sức của chư Phật, nên lòng chẳng chấp trước không, vào đời vị lai sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, được chẳng thoái chuyển. Đó gọi là tâm chẳng quên Bồ đề, chánh thuận Phật đạo. Khi nói pháp quán tưởng Phật mười phương thì Phật mười phương ngồi trong hang trăm báu ở núi Kim cương đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu A-nan mà bảo rằng : “ Này Pháp tử ! Ông đem lời nói của đức Phật vì những chúng sinh đời vị lai mà diễn nói rộng rãi, cẩn thận chớ vọng truyền. Ông phải vì người kiên cố phát tâm Tam Bồ đề, tu hành Niệm Phật định chánh thọ mà tuyên nói.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Tam muội Niệm Phật này, nếu muốn thành tựu thì có năm nhân duyên. Những gì là năm ?
- Một là trì giới chẳng phạm.
- Hai là chẳng khởi tà kiến.
- Ba là chẳng sinh kiêu mạn.
- Bốn là chẳng sân nhuế, chẳng tật đố.
- Năm là dũng mãnh tinh tiến như cứu đầu cháy.
Làm năm việc này, chánh niệm sắc thân vi diệu của các đức Phật, khiến cho lòng chẳng thoái lui, chẳng phải đọc kinh điển Đại thừa. Do sức niệm Phật công đức này nên nhanh chóng được thấy vô lượng các đức Phật. Người thấy chư Phật, riêng một lòng thanh tịnh chẳng cùng người khác chung đụng thì nên phải cúng dường các đức Phật mười phương. Sao gọi là cúng dường ? - Người đó ra khỏi định, vào tháp thấy tượng, khi niệm trì kinh, hoặc lễ một đức Phật phải nghĩ rằng : “ Tâm trí chư Phật Chánh Biến Tri, không có gì ngăn ngại ! Con nay làm lễ một đức Phật tức là làm lễ tất cả các đức Phật”. Nếu tư duy một đức Phật liền thấy tất cả Phật thì hành giả thấy trước mỗi một đức Phật có một hành giả tiếp tục làm lễ đều chính là thân mình. Nếu khi dùng một cành hoa cúng dường thì phải nghĩ rằng : “ Pháp thân chư Phật công đức không lường, chẳng trụ, chẳng hoại, sáng rỡ thường an. Con nay dùng hoa dâng hiến chư Phật ! Nguyện xin Phật nhận cho ”. Nghĩ vậy rồi hành giả lại phải khởi lên ý tưởng : “ Hoa của con cầm là từ cỏ cây sinh ra. Con đem hoa này cúng dường thì có thể dùng ý tưởng giống như hoa”. Hành giả liền phải tác khởi ý tưởng các lỗ chân lông của thân khiến cho mỗi lỗ chân lông hiện ra vô số mây hoa. Hành giả dùng mây hoa này vận dụng ý tưởng mô phỏng theo hoa mà cúng dường tất cả Phật. Bên trên mỗi một đức Phật hóa thành đài hoa mà các đức Phật đã nhận. Ở mười phương thế giới để thi hành Phật sự, khi hành giả cúng dường hương thơm cũng lại như vậy. Khói hương, mây hương làm Phật sự ở thế giới mười phương, khi làm Phật sự rồi thì chúng trở lại biến thành đài vàng ở trước mặt hành giả. Nếu người phàm phu muốn cúng dường thì tay bưng lò hương, cầm cành hoa cúng dường cũng phải khởi lên ý làm “hoa hương tưởng”, phải phát nguyện rằng : “ Nguyện cho hoa hương này đầy trong thế giới mười phương, cúng dường tất cả Phật, hóa Phật cùng Bồ tát và vô số chúng Thanh văn. Nguyện chư Phật thọ nhận mây hương hoa này để làm đài ánh sáng rộng đến vô biên thế giới, làm Phật sự nhiều không lường”. Người lễ Phật hoặc ngồi thiền mà khởi lên tâm cúng dường đó thì phải phát lời nguyện này. Nếu hành giả cúng dường táng che, tràng, phan bằng lụa ngũ sắc, âm nhạc, kệ tụng thì phải phát nguyện rằng : “Con nay thiết bày một phần ít đồ cúng này, nguyện đem những đồ cúng này cúng dường khắp cùng tất cả các đức Phật ở mười phương. Các đức Phật thọ đồ cúng đó thì ở trong tràng phan hóa ra mây ánh sáng; ở trong kỹ nhạc, trong kệ tụng diễn ra âm thanh diệu pháp”. Phát nguyện đó rồi, khi ngồi nên tưởng niệm đến lỗ chân lông của thân, khiến cho trong mỗi một lỗ tạo ra vô lượng tràng phan tưởng. Trong mỗi một tràng phan tạo ra vô lượng mây kệ tụng tưởng. Khi tác khởi tưởng đó thì lòng như lò hương tuông ra khói hương, mây hương màu vàng. Trong lỗ chân lông của thân như cây hoa đẹp vọt ra atăngkì vô lượng mây đủ thứ hoa. Những đám mây hoa đó ở bên trên các đức Phật của thế giới mười phương hóa làm tất cả những đồ cúng dường.
Lúc bấy giờ, ở trong từng phần thân tâm sẽ dấy lên tưởng tất cả đồ cúng dường. Nếu được ăn uống hoặc bố thí cho người một tiền, hành giả phải khởi lên tư tưởng không, vô ngã Đàn Balamật ( bố thí). Như vậy.v.v... vô lượng sự cúng dường đều do tâm khởi khởi lên, đều từ tâm tưởng xuất hiện để cúng dường tất cả các đức Phật mười phương. Đó gọi là khi ngồi mà vô lượng công đức từ biển tâm tưởng sinh ra. Như vậy, khi ngồi, nhập vào thiền định thậm thâm thì vô lượng cảnh giới, các tam muội hải chỉ ở trong lòng. Thở ra hít vào, niệm niệm, tưởng tưởng nối tiếp nhau chẳng dứt. Ở trong một lòng vận dụng tâm ý mình tạo tác mây vô số đồ cúng dường để trên cúng dường các đức Phật, dưới bố thí cho tất cả. Người tác khởi ý niệm đó gọi là người học Phổ thí (Bố thí khắp cùng). Khi tưởng niệm này thành thì dần dần giảm thiểu các kết phiền não, hành giả quán pháp vô tướng. Rồi nhờ sức của vô tướng nên hành giả sẽ được sáu Balamật thậm thâm.

PHẨM THỨ MƯỜI HAI : QUÁN MẬT HẠNH CỦA ĐỨC PHẬT
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Chúng sinh đời vị lai, nếu họ có người được tam muội Niệm Phật thì người quán tướng tốt của chư Phật được tam muội Chư Phật hiện tiền. Ông phải dạy người đó kín thân, miệng, ý chớ khởi lên tà mạng, chớ sinh ra cống cao. Nếu họ khởi lên tà mạng và cống cao thì phải biết người này chính là người tăng thượng mạn, phá diệt Phật pháp, phần nhiều sai khiến chúng sinh dấy lên lòng bất thiện, làm loạn hòa hợp Tăng, hiển thị điều khác lạ mê hoặc mọi người. Người như vậy là bạn ác của ma. Người ác như vậy tuy họ niệm Phật nhưng mất vị cam lồ. Nơi sinh của người này, vì cống cao nên thân luôn luôn hèn mọn, sinh vào nhà hạ tiện bần cùng, suy bại, nghiêm sức bằng vô lượng nghiệp ác. Đủ chủng loại những việc ác như thế này, hành giả phải tự phòng hộ khiến cho mãi mãi chẳng sinh ra. Nếu người khởi lên nghiệp tà mạng như vậy thì nghiệp tà mạng này giống như con voi điên phá hoại ao hoa sen. Nghiệp tà mạng này cũng lại như vậy, nó làm bại hoại hết căn lành.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Người có niệm Phật phải tự phòng hộ chớ để cho buông lung. Người Niệm Phật tam muội, nếu chẳng tự phòng hộ, sinh ra cống cao thì gió dữ tà mạng thổi, lửa kiêu mạn đốt, tiêu diệt thiện pháp. Thiện pháp là tất cả vô lượng thiền định, các pháp niệm Phật từ các tâm tưởng sinh ra. Đó gọi là công đức tạng.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Ví như ông trưởng giả có rất nhiều của báu mà chỉ có một đứa con. Ông trưởng giả tự biết sắp chết, chẳng còn bao lâu nữa, đem những kho tàng giao phó cho người con ấy. Người con ấy được của rồi tùy ý rong chơi. Bỗng, vào một lúc, gặp phải nạn vua, có vô lượng giặc cướp từ bốn phía kéo đến, tranh nhau lấy của cải trong kho mà người con ấy chẳng thể ngăn cản giữ gìn. Chỉ có một thỏi vàng mới chính là Diêm Phù Đàn Na Tử Kim, nặng mười sáu lượng, chiều dài chiều rộng của đỉnh vàng cũng đều mười sáu tấc. Một lượng vàng này trị giá bằng trăm ngàn vạn lượng của báu khác. Bị giặc bức bách, không biết làm gì với thỏi vàng, ông ấy liền dùng vật dơ bẩn bọc gói vàng ròng, đặt vào bên trong cục bùn. Bọn giặc nhìn thấy nó, chẳng biết đó là vàng, chân dẫm lên mà đi. Sau khi giặc đi rồi, tài chủ giữ được vàng, lòng rất vui mừng. Niệm Phật tam muội cũng lại như vậy, phải giấu kín nó.
Lại nữa, này A-nan ! Ví như có người nghèo cùng, bạc phước nương vào những bậc hào phú hiền đức để bảo tồn tính mạng. Có vị vương tử ngẫu hứng đi xuất du, cầm bình báu lớn. Ở bên trong bình báu đựng túi ấn vua. Lúc đó, có kẻ nghèo trà trộn đến gần bên, lấy được bình báu của vua bưng chạy trốn. Vương tử hay được, sai sáu người lính lớn cưỡi sáu con voi đen, tay cầm gươm báu, mau chóng đuổi theo người đó. Người cầm bình chạy vào trong đầm hoang cỏ ngút ngàn. Người đó thấy rắn độc đầy trong đầm Khoáng dã, từ bốn mặt chúng phun ra độc, hút lấy người cầm bình. Người nghèo cùng bàng hoàng, kinh sợ bương chạy khắp nơi mà rắn cũng đuổi theo, không chỗ trốn tránh. Ở trong đầm trống, người ấy thấy một cây lớn um tùm giúp đỡ nên rất vừa ý, đầu đội bình báu, vin cây mà leo lên. Đã lên trên cây rồi thì sáu người lính cưỡi voi, chạy nhanh như gió lại vừa đến nơi. Người nghèo thấy rồi, nuốt cái ấn báu của vua, đem bình làm mũ đội đầu, dùng tay che mặt, ngồi tham tiếc nên chẳng nỡ nhìn thấy. Sáu con voi đen dùng vòi quấn lấy cây khiến cho cây ngã nhào, người nghèo rơi xuống đất, thân thể hoại tan, chỉ có cái ấn vàng ở tại bình báu hiện lên ánh sáng. Các con rắn thấy ánh sáng vội vàng chạy tứ tán - Đức Phật bảo ngài A-nan - Người trụ ở tam muội niệm Phật thì tâm ấn chẳng hoại cũng lại như vậy.
Lại nữa, này A-nan ! Ví như ông trưởng giả có nhiều của cải báu vật mà không con trai, chỉ có một người con gái. Lúc đó, ông trưởng giả tuổi hơn một trăm, tự biết quá suy yếu sắp chết, chẳng còn bao lâu, nên nghĩ rằng : “ Của cải báu vật này của ta mà không có con trai nên của cải phải thuộc về vua”. Suy nghĩ vậy rồi, ông gọi người con gái mà mật bảo rằng : “ Nay có món diệu bảo đứng trên tất cả báu, cha sẽ đem cho con ! Con được món báu này phải giấu kín cho chắc chắn, chớ để cho vua biết !” Người con gái nhận lệnh của cha, đem ngọc ma ni và các trân bảo giấu vào phân dơ bẩn, cả nhà lớn nhỏ cũng đều chẳng ai biết. Gặp đời đói kém, chồng người con gái bảo vợ rằng : “ Nhà ta nghèo cùng, khốn quẩn về ăn mặc, nàng có thể đi nơi khác tìm chỗ sống cho mình !” Người vợ nói với chồng rằng : “ Cha tôi là trưởng giả, lúc sắp mạng chung, đem của báu ban cho tôi. Nay ở tại chỗ đó đó (mỗ xứ) chàng có thể lấy chúng !” Người chồng đào lấy, thu hoạch lớn trân báu cùng ngọc Như ý. Người ấy đem ngọc Như ý ra, đốt hương lễ bái, trước phát nguyện rằng : “ Xin ngọc vì ta mưa xuống đồ ăn !” Theo lời phát nguyện liền mưa xuống đồ ăn thức uống trăm vị. Cứ như vậy từng món từng món theo ý người được ngọc báu. Người chồng được rồi bảo vợ mình rằng : “ Nàng như thiên nữ có thể ban cho ta ngọc báu ! Nàng giấu ngọc báu này, ta còn chẳng biết, huống lại là người khác” - Đức Phật bảo ngài A-nan - Niệm Phật tam muội bền chặt, lòng chẳng động cũng lại như vậy.
Lại nữa, này A-nan ! Ví như có ông vua bạo ngược trái đạo. Dân mắc phải sự độc ác của vua ấy, người sợ, thần giận. Nước gặp đại hạn thỉnh cầu thần đất, chẳng thể được mưa, có người bề tôi bạch rằng : “ Thưa đại vương ! Ngài phải biết, hiện nay bên trong đất nước này ở miền Lâm đẩu có một vị tiên nhân ngũ thông vô ngại. Nhà vua nên thỉnh mời vị ấy chú nguyện rồng !” Nhà vua nghe xong, hớn hở không lường, sai người đến rừng thỉnh vị tiên nhân. Vị tiên xuất thần bay đến trước điện đại vương, lớn tiếng xưng lên rằng : “ Đại vương vô đạo ! Các trời, rồng, thần đều đi tứ tán, chẳng ủng hộ đất nước của vua nữa thì làm sao sai ta cầu mưa ?’ Nhà vua nghe lời nói này lấy làm rất xấu hổ, cải hối việc làm ác của hành động trước đây. Vị tiên nhân ấy biết lòng nhà vua đã nhu nhuyến tốt lành nên niệm tụng chú. Nhờ sức thần thông nên trời mưa xuống cam lộ, đất trào ra suối nước thấm nhuần tất cả - Đức Phật bảo ngài A-nan - Người muốn niệm Phật như vị vua bỏ điều ác. Người được niệm Phật như người giỏi chú nguyện.
Lại nữa, này A-nan ! Ví như người lực sĩ tự thị sức lực lớn vi phạm vương pháp. Nhà vua sai năm người bắt lấy lực sĩ giam vào ngục tối với gông cùm rất là bền chắc. Lực sĩ giận vung sức mạnh, toàn thân rướm máu, gông cùm nát tan, vượt tường chạy trốn. Hắn đi đến bên bờ biển, mở viên ngọc sáng trên đỉnh kế đem thuê người lái thuyền (thuyền sư). Người lái thuyền nói rằng : “ Cái này như đá trắng ở trong biển nhiều vô số, ta lấy nó làm gì ?” Người lực sĩ quì dài bạch thuyền sư rằng : “Ngọc sáng này của tôi có sáu thứ màu !” Ông liền dùng lụa vàng gói viên ngọc đặt vào trong nước, nước liền thành màu vàng. Ông lại thâu hồi viên ngọc, dùng lụa trắng gói đặt vào trong nước, nước liền biến ra màu trắng. Ông lại thu lấy viên ngọc, dùng lụa màu xanh lục gói lại, đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu lưu ly xanh lục. Ông thu lấy ngọc dùng lụa màu ngọc bích gói lại đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu chơn kim tinh. Ông thu lấy viên ngọc lại dùng lụa đỏ gói đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu xa cừ. Ông lại thu lấy ngọc, dùng lụa màu tía gói, đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu kim cương trời, trên nước lại có ánh sáng ma ni tía. Vị thuyền sư thấy rồi liền lấy ngọc báu, dùng kiệu báu lớn, khiêng người dũng mãnh, đặt lên thuyền lớn, nhờ gió cất buồm lướt nhanh như tên bắn, đến bờ bên kia. Đến bờ kia rồi, lòng dạ thư thái yên ổn, không sợ, người ấy đem nhiều trân bảo đền ơn thuyền sư - Đức Phật bảo ngài A-nan - Người hành niệm Phật như vị đại lực sĩ, thoát khỏi gông cùm tâm vươn đến được bờ kia trí tuệ.
Lại nữa, này A-nan ! Ví như khi kiếp sắp hết, hai mặt trời cùng xuất hiện. Núi rừng, cây cối, sông ao... đều khô cạn. Khi ba mặt trời xuất hiện thì mọi màu lửa dậy. Khi bốn mặt xuất hiện thì biển lớn tiêu giảm, ba phần còn một. Khi năm mặt trời xuất hiện thì biển lớn cạn hết. Khi sáu mặt trời xuất hiện thì núi Tu di ngã nhào tan vỡ. Khi bảy mặt trời xuất hiện thì đại địa cháy suốt cho đến Sắc giới, chỉ có núi Kim cương chẳng thể đổ vỡ, trụ lại chốn cũ. Niệm Phật tam muội cũng lại như vậy. Người hành cái định đó là trụ ở trong biển thật tế của Phật đời quá khứ.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Ta nay muốn cùng với các đức Phật mười phương báo đền ơn Niệm Phật tam muội.
Đức Thế Tôn nói lời đó rồi, bấy giờ ngài và các đức Phật mười phương cùng Bồ tát của Kiếp Hiền nhập vào tam muội Nhất Thiết Sắc Thân Quang Minh. Từ mỗi một lỗ chân lông của thân chư Phật vọt ra những đám mây hóa Phật vi diệu nhiều chẳng thể xưng tính. Những vị hóa Phật đó ngồi kiết già ở trong hư không. Vô số tất cả những vị hóa Phật như vậy đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu ngài A-nan và lệnh cho ngài Thích Đề Hoàn Nhân rằng :
- Hai người các ông hãy giữ gìn diệu pháp đó cẩn thận chớ quên mất ! Vì chúng sinh trược ác đời vị lai diệt mọi tội chướng nên đức Như Lai Chánh Biến Tri, hôm nay, ở trong đại chúng, nói thân tướng của tất cả Phật.
Lúc bấy giờ, tôn giả A-nan liền đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Kinh này sẽ gọi là gì ? Pháp yếu này sẽ hành trì ra sao ?
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Kinh này tên là Hệ Tưởng Bất Động ! Như vậy mà thọ trì ! Cũng tên là Quán Phật Bạch Hào Tướng ! Như vậy mà thọ trì ! Cũng tên là Nghịch Thuận Quán Như Lai Thân Phận ! Cũng tên là Nhất Nhất Mao Khổng Phân Biệt Như Lai Thân Phận ! Cũng tên là Quán Tam Thập Nhị Tướng Bát Thập Tùy Hình Hảo Chư Trí Tuệ Quang Minh ! Cũng tên là Quán Phật Tam Muội Hải ! Cũng tên là Niệm Phật Tam Muội Môn, cũng tên là Chư Phật Diệu Hoa Trang Nghiêm Sắc Thân ! Cũng tên là Thuyết Giới Định Tuệ Giải Thoát Giải Thoát Tri Kiến Thập Lực Tử Vô Sở Úy Thập Bát Bất Cộng Pháp Quả Báo Sở Đắc Vi Diệu Sắc Thân Kinh ! Ông hãy thọ trì tốt, cẩn thận chớ quên mất !
Khi đức Phật nói lời nói đó thì đại chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và Bồ tát cùng trời rồng... tám bộ, tất cả quỉ thần nghe đức Phật nói thân tướng vi diệu đó, có người được Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, có người được A la hán, có người gieo trồng nhân duyên đạo Bích Chi Phật, có người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có người được Vô sinh pháp nhẫn... Số người ấy nhiều chẳng thể xưng nói hết. Các đại chúng nghe đức Phật nói pháp, cung kính đảnh lễ, phụng hành lời dạy của đức Phật, làm lễ xin lui ra. Lúc đó ngài A-nan liền đứng dậy, chắp tay quì dài bạch rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Đức Như Lai, hôm nay tất cả thân tướng đều đã nói xong ! Chỉ có tướng Vô Kiến đảnh là ngài chưa hiển nói thôi. Nguyện xin đấng Thiên Tôn ! Nói một ít về điềm ứng của ánh sáng tướng đảnh, khiến cho chúng sinh, phàm ngu đời vị lai biết được thắng tướng của đức Phật !
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền vào Đảnh Tam Muội Hải khiến cho trong nhục kế trên đảnh đức Phật, mỗi một lỗ chân lông vọt ra ánh sáng lưu li. Ánh sáng ấy như “duyên văn” (hình dáng tóc xoăn) bằng nước xoắn về bên phải đầy khắp vô lượng thế giới mười phương như số biển vi trần của trăm ức thế giới. Như vậy trong tám muôn bốn ngàn những lỗ chân lông đều hiện ra tướng nước đó. Mỗi một tướng nước lại hơn nước đó trăm ngàn vạn bội số, chẳng thể biết. Trên những nước lưu li đó, sinh ra nhiều những hoa sen trời quí báu. Mỗi hoa có vô số trăm ngàn ức cánh. Mỗi cánh hoa tạo ra vô số trăm ngàn ức màu sắc báu. Cánh hoa cực nhỏ cũng che khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Trong mỗi một tua hoa trên mỗi hoa như vậy có vô lượng atăngkì trăm ngàn vạn ức hằng hà sa số vị hóa Phật. Tướng nhục kế trên đảnh của mỗi một vị hóa Phật tuông ra mọi thứ ánh sáng cũng lại như vậy. Thân lượng của các đức Phật đồng với hư không, chẳng thể được biết. Như vậy các đức Phật, từng đức Phật, đức Phật tiếp theo nhau đến tận mép biển của thế giới. Khi tướng này hiện thì ở mười phương diện đều có hàng trăm ức Bồ tát nhiều như vi trần mà thân vọt lên hư không, thị hiện đại thần biến, đi đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Các vị Bồ tát nhờ thần lực đức Phật nên tạm thay một phần nhỏ tướng điềm ứng trong mỗi lỗ chân lông, ngay tức thời được vô lượng trăm ngàn Đà la ni Kim cương tướng. Khi đức Phật hiện ra tướng đó thì một ngàn vị Bồ tát của Kiếp Hiền và các đức Phật mười phương đều thị hiện tướng này. Đại chúng trong hội thấy được phần nhỏ tướng này thì người Tu đà hoàn trong khoảnh khắc trở thành A la hán, người quán nhân duyên chẳng duyên các duyên trở thành A la hán, Bồ tát phát tâm thì vượt qua cảnh giới tăng tiến cửa tam muội hải thậm thâm, trụ ở tính địa. Bồ tát vô sinh thì bội thêm tăng tiến vô lượng thắng pháp, trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sau khi Phật diệt độ, trong đời ác trược, nếu có chúng sinh nghe thắng tướng của Phật, lòng chẳng kinh nghi, chẳng sinh sợ sệt thì phải biết người đó có thể diệt tất cả nghiệp chướng phiền não. Người nghe Thắng tướng của Phật sinh lòng tùy hỉ thì trừ khước được một ngàn ức kiếp nghiệp ác rất nặng, chỗ sinh ra đời sau chẳng rơi vào ba đường, chẳng sinh vào chỗ tám nạn.
Khi đức Phật nói lời đó thì trưởng lão Kiều Trần Như.v.v... các vị đại Tỳ kheo, Bồ tát Di Lặc.v.v... các vị Đại Bồ tát, vô lượng đại chúng nghe lời nói của đức Phật đều rất vui mừng đảnh lễ cung kính phụng hành.
- Hết quyển thứ mười –

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




An Sĩ toàn thư - Khuyên người tin sâu nhân quả - Quyển Thượng


Giải thích Kinh Địa Tạng


Tư tưởng xã hội trong Kinh điển Phật giáo Nguyên thủy


Học Phật Đúng Pháp

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.140.198.12 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập