Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh [佛說觀佛三昧海經] »» Bản Việt dịch quyển số 6 »»

Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh [佛說觀佛三昧海經] »» Bản Việt dịch quyển số 6


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.42 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.52 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Quán Phật Tam Muội Hải

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Tuệ Khai

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

PHẨM THỨ NĂM : QUÁN TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khi nói lời đó rồi, do tâm lực của đức Phật nên mười luồng bạch quang từ tim đức Phật phóng ra. Ánh sáng ấy soi khắp mười phương thế giới. Trong mỗi một luồng ánh sáng, có vô lượng vị hóa Phật cởi hoa sen báu. Đại chúng trong hội thấy ánh sáng của đức Phật như nước pha lê, hoặc thấy như sữa, thấy các vị hóa Phật từ ngực đức Phật ra rồi vào ở rốn đức Phật, cỡi thuyền báu lớn dạo chơi vùng tim đức Phật, qua lại năm đường, chỗ người thọ tội. Mỗi một tội nhân thấy các vị hóa Phật thân thiết như cha mẹ, bạn lành của mình, dần dần vì mình nói pháp xuất thế gian. Lúc đó, ở không trung có âm thanh lớn bảo các đại chúng rằng :
- Hôm nay, các ông nên quan sát tâm Phật ! Tâm các đức Phật chính là Đại Từ vậy. Sở duyên của đại từ là duyên vào chúng sinh khổ !
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là Từ tâm ? Từ tâm là nên phải ràng buộc ý niệm vào chúng sinh duyên khổ. Chúng sinh khổ là những người rất khổ não ở ba đường ác. Khi đức Phật nói lời đó thì đại chúng trong hội thấy ở địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, nhờ sức tam muội Giải thoát tam tướng nên khiến cho các chúng sinh tự biết túc mạng của mình. Họ thấy những kẻ thọ khổ đó đều chính là cha mẹ, thầy trò, các thiện hữu của mình trong vô lượng kiếp đời trước. Thấy rồi, họ kêu khóc, lễ Phật bạch rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay chúng con nhờ Phật lực nên thấy chúng sinh khổ đều chính là cha mẹ, sư trưởng của chúng con.
Đức Phật bảo đại chúng rằng :
- Chúng sinh ba cõi luân hồi trong sáu đường như bánh xe lửa xoay. Hoặc làm cha mẹ, anh em, dòng họ thân thuộc... tất cả mọi người trong ba cõi không ai chẳng phải chính là người thân của các ngươi thì tại sao dấy khởi lòng giết hại ganh ghét ?
Đức Phật nói lời đó xong thì vua Tịnh Phạn cùng tất cả đại chúng bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là Từ tâm tam muội ? Xin nguyện đức Thế Tôn vì tôi lược nói !
Đức Phật bảo đại chúng rằng :
- Luận về Từ tâm là ý tưởng phải khởi lên trước tiên liên hệ với người thân thuộc. Khi ràng buộc ý niệm thì nghĩ đến cha mẹ mình chịu các khổ não. Có người bất hiếu chỉ nghĩ đến sự yêu thương của vợ con mình không nghĩ đến chúng sinh chịu các khổ não. Có người thấy chúng sinh bị ghẻ lở ung nhọt. Thấy rồi, họ suy nghĩ phải làm sao cứu hộ ? Một tưởng thành rồi nên tác khởi hai tưởng. Hai tưởng thành rồi nên tác khởi ba tưởng. Ba tưởng thành rồi thì tưởng chứa đầy một nhà. Một nhà tưởng thành rồi thì chứa đầy cả tăng phường (vùng chúng tăng ở). Một tăng phường thành rồi thì chứa đầy một do tuần. Một do tuần thành rồi thì chứa đầy một cõi Diêm phù đề. Một cõi Diêm phù đề thành rồi thì chứa đầy cõi Phất Bà Đề. Cõi Phất Bà Đề thành rồi thì chứa đầy ba thiên hạ. Cứ như vậy rộng dần, chứa đầy cõi mười phương.
Thấy hết chúng sinh ở Đông phương đều là cha mình, thấy chúng sinh ở Tây phương đều là mẹ mình, thấy chúng sinh ở Nam phương đều là anh mình, thấy chúng sinh ở Bắc phương đều là em mình, thấy chúng sinh ở hạ phương đều là vợ con, thấy chúng sinh ở thượng phương đều là sư trưởng. Còn những chúng sinh ở bốn phương bàng (tứ duy) đều là Samôn, Bàlamôn.v.v... Thấy những chúng sinh đó đều chịu khổ não, hoặc bệnh nặng, hoặc thấy họ ở tại núi đao, rừng kiếm, xe lửa, lò than... tất cả việc khổ. Thấy rồi, hành giả buồn khóc muốn cứu vớt nỗi khổ ấy, tự tạo tác ngã tưởng : Cỡi hoa sen báu đi đến chỗ những người đó, điều phục thân xoa nắn vì họ rửa ghẻ lở. Thấy lửa địa ngục, hành giả lo buồn tuông lệ, muốn diệt tắt lửa ấy. Thấy các quỉ đói, hành giả chích thân chảy máu hòa làm sữa cung cấp cho quỉ đói được no đủ. Đã no đủ rồi thì họ vì chúng nói pháp, khen Phật, khen Pháp, khen Tỳ kheo tăng. Làm sự khen ngợi đó rồi, hành giả lại lo buồn, lòng không tạm bỏ. Như vậy, cùng cực từ tâm khiến cho thông lợi, từng việc từng việc nói rộng rãi như Từ tam muội. Từ tâm như vậy gọi là Tập từ. Đã Tập từ rồi, tiếp theo phải hành bi. Bi là thấy chúng sinh chịu khổ như tên bắn vào tim, như phá hủy tròng mắt, lòng rất bi khổ, toàn thân tuông máu muốn cứu vớt nỗi khổ ấy. Bi như vậy thì có trăm ức môn (cửa), nói rộng như Đại Bi tam muội. Hành Từ Bi rồi, tiếp theo là hành Đại Hỷ. Thấy những chúng sinh yên ổn thọ lạc (hưởng thụ an vui) thì lòng sinh hoan hỷ như mình an vui không khác. Đã sinh hoan hỉ rồi, tiếp theo là hành pháp xả. Những chúng sinh đó không tướng lai khứ, từ tâm tưởng sinh ra. Tâm tưởng sinh là nhân duyên hòa hợp, giả gọi là tâm. Tâm tưởng này giống như cuồng hoa (hoa điên) từ điên đảo khởi lên. Khổ từ tưởng khởi lên, vui từ tưởng sinh ra. Tâm như trong cây chuối không thật bền chắc. Nói rộng ra như Kinh mười thí dụ. Khi tác khởi sự quán tưởng đó thì hành giả chẳng thấy thân tâm mà thấy tất cả pháp đồng như thật tính. Đó gọi là Bồ tát thân thọ tâm pháp. Nương nhờ pháp này, hành giả rộng tu ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề phận. Nếu người thủ chứng là pháp Thanh văn, còn chẳng thủ chứng thì chính là pháp Bồ tát.
Nói lời nói đó xong thì ánh sáng thân đức Phật càng thêm minh hiển. Từ đầu tim đức Phật phóng ra ánh sáng. Trong các ánh sáng đó, sinh ra các hoa báu. Mỗi một hoa báu có hằng hà sa số hoa báu làm quyến thuộc. Trên mỗi một hoa báu có vô lượng vô biên vị hóa Phật nhiệm mầu, phương thân trượng sáu, như Phật Thích Ca văn. Khi tướng này hiện thì lỗ chân lông thân đức Phật có tám muôn bốn ngàn những hoa sen báu. Trên mỗi một hoa sen có tám muôn bốn ngàn những vị đại hóa Phật mà thân thì vô lượng vô biên. Như vậy, những lỗ chân lông và tim của các vị hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng như đã nói trên.
Như vậy, ánh sáng soi khắp mười phương, rồi theo đỉnh đầu Phật mà vào và từ tướng bạch Hào vùng mày của đức Phật mà ra. Ánh sáng từ tướng Bạch hào phóng ra soi khắp mười phương giống như Kim tràng, khiến cho đất trong mười phương trở thành màu vàng ròng và cuốn các vị hóa Phật vào trong miệng của đức Phật. Rồi từ miệng đức Phật, ánh sáng phát ra cũng soi khắp mười phương, trở lại vào ngực đức Phật. Từ ngực đức Phật, ánh sáng phóng ra lại soi khắp mười phương, trở lại vào rốn đức Phật. Khi ánh sáng này vào bên trong thân đức Phật thì như nước lưu ly lắng trong chẳng động. Ba cõi, năm đường tất cả chúng sinh đều ánh hiện trong tim đức Phật. Hành giả thấy các vị hóa Phật cởi đài báu lớn giống như thuyền báu du hành trong thân đức Phật. Tất cả các vị hóa Phật khen ngợi sự chẳng giết hại, khen ngợi niệm Phật, khen ngợi niệm Pháp, khen ngợi niệm Tăng, khen ngợi niệm giới, khen ngợi niệm thí, khen ngợi niệm Thiên, khen sáu hòa kính, khen Từ tam muội. Như sáu niệm này có thể sinh ra thiện pháp thì sáu niệm này chính là nhân của các đức Phật. Tâm Phật chính là sáu niệm tâm. Nhân sáu hòa kính mà được pháp này. Muốn thành Phật đạo phải học Phật tâm.
Nói lời nói đó xong thì ánh sáng của thân đức Như Lai minh hiển bội phần. Số hóa Phật và hoa sen báu của thân đức Phật nhiều chẳng thể biết. Mỗi một ánh sáng hoa như đủ thứ hoa đã nói. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sai khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật tu sáu niệm thì gọi là niệm Phật tâm. Niệm Phật tâm thì trừ được mười hai ức kiếp tội sinh tử. Người tác khởi sự quán tưởng đó thì đời đời nhất định chẳng tà kiến, lòng chẳng hẹp hòi xằng bậy, luôn luôn gặp được bậc Bồ tát vô sanh. Người như vậy nếu sinh vào chỗ biên địa không có Phật pháp thì nhờ công lực niệm Phật tự nhiên giác ngộ giải thoát thành Bích Chi Phật.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói lời nói đó xong, thu nhiếp ánh sáng thân trở lại như cũ không khác.
Đức Phật nói với Phụ vương rằng :
- Như ánh sáng Bạch Hào của tướng bậc đại nhân và tất cả tướng có thể quán tưởng nghịch, quán tưởng thuận hay quán tưởng phân biệt thì quán tưởng toàn bộ vừng sáng tròn và thân một trượng sáu. Chỉ phát tâm quán tưởng đó, còn quán thấy hay chẳng thấy, đều trừ bỏ mọi tội như trên đã nói. Giả sử có thí chủ đủ năm thần thông, được ngọc Như Ý, bay khắp thế giới mười phương mà số chúng sinh của mỗi một thế giới mười phương chẳng thể được biết, chỉ dùng từ vô lượng vô biên tổng chỉ số lượng ấy. Số chúng sinh nhiều như vậy đều là A la hán.Vị đại thí chủ đó hết vô số kiếp cúng dường những bậc hiền thánh đủ tứ sự, không thiếu thốn. Người đó được phước chắc là nhiều lắm chăng ?
Phụ vương đáp rằng :
- Chỉ cần cúng dường những vị La hán của một phương là đã được phước không lường, huống gì cúng dường vô lượng La hán của mười phương.
Đức Phật nói với Phụ vương rằng :
- Giả sử có người thành thục được chúng sinh tà kiến mà số nhiều như đã nói trên, đều khiến cho những người đó được đạo A la hán với ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát thì chẳng bằng phát tâm hướng về Phật tuệ mà niệm Phật trong giây lát.
Khi đức Phật nói lời đó thì một ức Thích tử trong chúng Thích tử phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tự thề chẳng cầu đạo Thanh văn, Bích Chi Phật và bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Thân của các đức Phật phân ra cho đến một sợi lông có vô lượng hóa Phật thì thân của các Thanh văn như thứ hủ bại cháy đen nào có ích gì ?

PHẨM THỨ SÁU : QUÁN BỐN OAI NGHI
I- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, ở trong đại chúng, liền đứng dậy, bước chân đi vào hư không, vua cha xem thấy lòng rất hoan hỷ, cũng đi theo đức Phật. Khi đức Phật nhấc chân lên, hạ chân xuống hiện tướng ngàn vòng nan hoa. Mỗi một luân tướng đều mưa xuống tám muôn bốn ngàn hoa sen báu. Mỗi một hoa sen báu lại hóa ra tám muôn bốn ngàn ức nadotha hoa. Mỗi một hoa sen báu hóa làm một đài. Mỗi một đài hoa, mỗi một cánh hoa che khắp mười phương vô lượng thế giới. Mỗi một hoa sen có tám muôn bốn ngàn cánh. Chân của đức Thích Ca Mâu Ni bước vào hư không, đều mưa xuống hoa báu. Mọi hoa như vậy lại có vô lượng chân Phật bước vào hư không nhiều như số vi trần. Phụ vương thấy rồi, lòng rất vui mừng, được A na hàm, năm vóc gieo xuống đất lễ Phật. Đại chúng trong hội đều nhìn thấy việc này, bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Thế giới mười phương có vô số hóa Phật. Vị nào là Phật chân thật ? Ai là hóa Phật ?
Đức Phật bảo đại chúng rằng :
- Các đức Phật Như Lai vào chỗ không tịch, Giải thoát tam muội thì tùy ý tự tại không có chân hay hóa. Sở dĩ vì sao ? Vì tâm Phật không tịch, lại vào tam muội Không Tịch Giải Thoát Quang Minh Vương. Do sức của định này nên các đức Phật Như Lai hóa ra vô biên thân. Vô biên thân chính là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Chủng Trí thì gọi là Vô trước tam muội. Do Vô trước tam muội nên đức Như Lai thị hiện đi (hành), hoặc hiện đi khất thực, hoặc hiện đi kinh hành. Như vậy hai pháp đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh. Nếu có chúng sinh, khi Phật còn tại thế, nhìn thấy đức Phật đi. Trong từng bước từng bước, thấy được luân tướng ngàn nan hoa thì họ trừ khước ngàn kiếp tội ác rất nặng. Sau khi đức Phật qua đời, người tam muội chánh thọ quán tưởng Phật đi thì cũng trừ được ngàn kiếp tội ác rất nặng. Người tuy chẳng quán tưởng Phật đi mà thấy dấu tích Phật đi, thấy hình tượng Phật đi từng bước từng bước thì cũng trừ được ngàn kiếp nghiệp ác rất nặng.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Từ ngày hôm nay, ông đem lời nói của Như Lai bảo cùng khắp đệ tử rằng, sau khi Phật diệt độ, tạo hình tượng đẹp khiến cho thân tướng đầy đủ, cũng làm ra sắc tượng của vô lượng hóa Phật và khai thông ánh sáng thân cùng vẽ dấu tích của Phật bằng lụa màu vi diệu và ngọc pha lê đặt ở chỗ tướng Bạch hào khiến cho chúng sinh được thấy tướng đó. Chỉ thấy tướng này, lòng sinh hoan hỷ thì người này trừ khước được tội sinh tử của trăm ức nadotha hằng hà sa số kiếp.
Nói lời nói này xong, đức Như Lai đã ngồi trở lại.
Phụ vương lại hỏi đức Phật rằng :
- Xuất thế gian có việc lợi gì ? Có thể làm cho chúng sinh an vui sao ?
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo với đại vương rằng :
- Ông trưởng giả Tu Đạt trong thành Xá Vệ có một lão mẫu (cách gọi kính bà già) tên là Tỳ Khư La, cẩn trọng siêng năng đối với gia nghiệp nên được ông trưởng giả cho nắm giữ chìa khóa kho. Việc xuất nhập, lấy cho tất cả đều giao cho bà. Ông trưởng giả Tu Đạt thỉnh Phật và Tăng dể cung cấp những sự cần dùng. Có vị Tỳ kheo bệnh yêu cầu nhiều thứ. Lão mẫu vốn xan tham, sân giận, tỵ hiềm đối với Phật pháp và cùng chúng Tăng nên nói rằng: “Ông trưởng giả nhà ta ngu si mê hoặc chịu pháp thuật của Sa môn. Những kẻ ăn xin đó cầu nhiều không chán. Có thứ đạo gì lạ vậy ?” Nói lời đó rồi, bà lại phát ác nguyện rằng : “ Khi nào sẽ được chẳng nghe danh Phật, chẳng nghe danh Pháp, chẳng thấy những người cạo đầu nhuộm áo ?” Như vậy tiếng ác được một người nghe rồi, lại hai người nghe... đắp đổi đầy khắp trong thành Xá vệ. Bà Mạt Lợi phu nhân nghe lời nói này rồi mà nói rằng : “ Tại sao ông Tu Đạt như hoa sen đẹp, mọi người ưa nhìn thấy ? Tại sao ông lại có con rắn độc hộ trì ?” Nói lời đó xong, sắc bảo ông Tu Đạt rằng : “ Ông hãy sai vợ ông đến, ta muốn nói chuyện với bà ấy !” Bà A Na Bân Đê đi mau đến cung vua, đến làm lễ xong, lui đứng một bên. Phu nhân Mạt Lợi lệnh cho tòa ngồi, khách ngồi xong, phu nhân nói rằng : “ Lão tỷ của gia đình ngươi ác khẩu, bài báng sao chẳng xua đuổi đi !” Bà A Na Bân Đê quì xuống bạch rằng : “ Mặt trời Phật ra đời được nhiều sự nhuận ích ! Ương Quật Ma người đại ác, Ni Đề kẻ hèn hạ, Khí Hư hạng Chiên Đà La... đức Phật đều có thể điều phục, huống gì một lão tỳ mà chẳng thể điều phục ?” Mạt Lợi phu nhân nghe lời nói đó rồi, lòng rất vui mừng nói rằng : “ Ta muốn thỉnh đức Phật, bà hãy sai người lão tỳ đó đến !” Sáng ngày, đến giờ ăn, phu nhân thỉnh đức Phật và Tăng chúng vào cung cúng dường. Ông trưởng giả sai người lão tỳ mang đầy bình ngọc Ma ni vàng đến khuyến trợ nhà vua cúng dường chúng Tăng và bảo rằng : “ Này người đáng tin cậy ! Ngươi hãy đem cống vật này dâng lên vương gia !” Người lão tỳ nghe lời nói đó vui mừng nhảy nhót mang bình báu chạy đi. Phu nhân Mạt Lợi thấy người lão tỳ kia đến thì nghĩ rằng : “ Người tà kiến đức Phật sẽ hóa độ. Ta thấy người này khi chịu sự hóa độ nhất định thu hoạch được pháp lợi”.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ cửa chính đi vào, Nan Đà ở bên trái, A-nan ở bên phải, La Hầu La ở sau đức Phật. Lão mẫu thấy đức Phật, lòng kinh hãi dựng tóc gáy nghĩ rằng : “ Thật đáng ghét ! Người này theo ta đến sau !” Tức thời bà muốn thoái lui, theo lỗ chó chui ra thì lỗ chó liền đóng lại, những hẻm nhỏ bốn hướng đều nhất thời đóng chặc lại, chỉ có con đường chính mở ra. Lão mẫu che mặt bằng quạt, tự ngăn chẳng ưa thấy đức Phật. Nhưng đức Phật ở trước bà khiến cho quạt như gương, không có gì ngăn ngại. Bà quay đầu về Đông nhìn thấy phương Đông có Phật, về Nam nhìn thấy phương Nam có Phật, về Tây nhìn thấy phương Tây có Phật, về Bắc nhìn thấy phương Bắc có Phật, ngẩng đầu ngước nhìn lên phương trên có Phật, cúi đầu sát đất thì đất hóa làm Phật, dùng tay che mặt thì mười ngón tay đều hóa làm Phật. Lão mẫu nhắm mắt lại thì tâm nhãn liền mở ra, thấy trong hư không tất cả hóa Phật đầy cõi mười phương. Khi tướng này hiện thì trong thành Xá Vệ có hai mươi lăm người con gái Chiên đà la, năm mươi người con gái Bàlamôn và các tạp loại cùng với năm trăm người con gái trong cung của Mạt Lợi phu nhân, lòng phát sinh bài báng, chẳng tin Phật pháp. Bọn họ thấy đức Phật Như Lai, chân bước đi trong hư không, vì lão mẫu hiện ra vô số thân thì lòng rất vui mừng, xé tan lưới tà kiến, đầu não đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn dùng âm thanh Phạm an ủi những người con gái mà bảo rằng :
- Này những người con gái ! Các ngươi hôm nay có thể xưng lên Thích Ca Mâu Ni ! Xưng danh hiệu của ta, quán tưởng thân tướng của ta có thể được giải thoát.
Đức Phật nói lời đó xong thì những người con gái đồng thanh xưng lên : “Nam mô Phật”. Đức Phật phóng ra ánh sáng tướng Bạch Hào vùng mày soi sáng lòng của những người con gái. Những người con gái thấy đức Phật bước đi oai nghi tường tự, dưới chân mưa hoa giống như hoa cái, hóa Phật nhiều như rừng chẳng thể kể xiết. Những người con gái nhìn thấy rồi đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lão mẫu thấy đức Phật, tà kiến chẳng tin mà còn trừ được tội sinh tử của tám mươi vạn ức kiếp, huống là lại có thiện ý cung kính lễ bái. Lúc bấy giờ, lão mẫu nhờ được thấy đức Phật nên hẻm nhỏ, lối mòn mở ra trở lại, liền chạy vội về nhà, bạch với đại gia rằng :
- Ngày hôm nay, tôi gặp phải điều rất xấu là phải đối mặt với ông Sa môn Cù Đàm tại cửa cung vua, trước mặt nhiều người. Ông ấy làm những điều yêu mị huyễn hóa, thân như núi vàng, mọi thứ hoa ánh lên trang sức, mắt hơn hẳn đóa sen xanh có hàng vạn ức ánh sáng, chẳng thể thấy đủ được. Samôn giỏi huyễn thuật, thế gian không ai sánh. Đại gia tuổi nhỏ có thể chẳng ưa nhìn thấy.
Nói lời đó rồi, bà vào trong lồng gỗ, dùng hàng trăm trướng bằng da che bên trên lồng gỗ, dùng vải trắng buộc đầu, lui vào nằm chỗ tối. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn trở lại rừng Kỳ Đà. Phu nhân Mạt Lợi bạch rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Nguyện xin ngài hóa độ người tà nữ, chớ trở lại tinh xá !
Đức Phật bảo bà Mạt Lợi rằng :
- Người đàn bà này tội nặng, đối với Phật không có duyên, nhưng đối với La Hầu La thì có nhân duyên lớn. Ngày hôm nay Phật đi vì bà ấy tiêu trừ tội.
Nói lời đó rồi, đức Phật liền trở về tinh xá, bảo La Hầu La rằng :
- Ông hãy đi đến nhà ông đại trưởng giả Tu Đạt, hóa độ bà lão mẫu ác!
Khi đức Phật nói lời đó thì một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa môn đều thưa rằng :
- Chúng con hôm nay nguyện xin đi theo !
Lúc bấy giờ, ngài La Hầu La thừa uy thần đức Phật, vào định Như Ý, lễ bái đã xong, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, liền tự hóa thân làm Chuyển Luân Thánh Vương, A-nan hầu bên trái, Nan Đà hầu bên phải. Một ngàn hai trăm năm chục vị Tỳ kheo hóa làm một ngàn người con, A-nan làm Điển Tạng thần, Nan Đà làm Chủ Binh thần, bảy báu bốn binh đều đầy đủ hết. Lúc đó, báu bánh xe vàng ở trong hư không, cởi đài hoa sen dẫn đường đến nhà trưởng giả Tu Đạt. Quỉ Dạ xoa xướng lên rằng :
- Thánh vương ra đời, đuổi hết những người ác, tuyên dương pháp thiện!
Lão mẫu nghe rồi, lòng rất vui mừng nghĩ rằng : “Thánh vương xuất hiện thì có ngọc Như Ý. Không có điều cầu xin gì mà chẳng thể nói ở đây !”
Lúc bấy giờ, Thánh vương khua chuông, đánh trống, cưỡi xe báu lớn đi đến nhà ông Tu Đạt. Lão mẫu thấy rồi rất vui mừng nghĩ rằng : “Thánh vương ra đời đem lại nhiều ơn nhuần lợi ích, biết phân biệt thiện ác, nhất định sẽ chẳng bị sự mê hoặc của Samôn”. Bà từ lồng cây chui ra, lễ kính Thánh vương. Thánh vương liền sai Chủ Bảo Tạng thần đi đến chỗ bà bảo rằng :
- Này chị em ! Đời trước của ngươi có phước ứng với tướng Vương giả. Hôm nay Thánh vương muốn dùng chị em làm Ngọc Nữ bảo !
Lão mẫu bạch rằng :
- Thân con ty tiện giống như phân bẩn, được Thánh vương hạ cố hỏi đến là vui mừng không lường ! Làm sao đủ sức làm Ngọc nữ bảo ? Nếu ngài ngó nghĩ đến con thì lệnh cho đại gia của con thả cho con được giải thoát. Sự ân tứ này đã là nhiều lắm rồi !
Lúc bấy giờ, Thánh vương bảo ngài Tu Đạt rằng :
- Lão nữ của khanh gia, mọi tướng lồng lộng, ta nay muốn đem sung làm Ngọc nữ bảo !
Ngài Tu Đạt bạch rằng :
- Tuân mạng ! Theo lệnh ngài, nguyện dâng lên Đại vương !
Lão tỳ nghe được phóng thích vui sướng phi thường. Thánh vương liền dùng ngọc Như Ý soi sáng mặt người nữ tỳ khiến cho nữ tỳ tự thấy mình như Ngọc nữ bảo nên hoan hỷ bội phần mà nói lên rằng :
- Các Samôn.v.v... bàn cao nói lớn, tự nói có đạo mà không một chút hiệu nghiệm ! Bậc Thánh vương ra đời đem lại nhiều lợi ích rộng lớn, khiến cho thân già tệ hại của ta giống như Ngọc nữ bảo.
Nói lời đó rồi, bà gieo mình xuống đất, làm lễ Thánh vương. Điển Tạng thần tuyên bố giáo lệnh của vua là xiển dương mười pháp thiện. Người nữ tỳ nghe mười pháp thiện, lòng rất vui mừng, liền nghĩ rằng : “ Ý nghĩa lời nói của Thánh vương thì không gì chẳng thiện !” Rồi bà vì đức vua làm lễ hối lỗi tự trách nên lòng liền điều phục. Lúc đó, ngài La Hầu La trở lại thân cũ, lão mẫu ngẩng đầu lên thấy một ngàn hai trăm năm chục vị Tỳ kheo, liền nói rằng :
- Phật pháp thanh tịnh chẳng bỏ chúng sinh ! Tệ ác như ta mà còn được hóa độ !
Nói lời đó rồi, bà cầu thọ năm giới. Ngài La Hầu La vì bà nói pháp Tam Qui và trao cho năm giới. Lão mẫu nghe pháp này thì trong khoảnh khắc chưa cất đầu lên đã thành Tu đà hoàn. Thần đất vui mừng, từ đất vọt lên bảo ngài Tu Đạt rằng :
- Hay thay ! Thưa Trưởng giả ! Xé tan lưới tà kiến ! Đức Như Lai ra đời chính vì điều này vậy !
Ngài La Hầu La đem lão mẫu này đến rừng Kỳ Đà. Đến nơi rồi, lão mẫu thấy thân tướng đức Phật màu vàng tía, hoan hỉ chắp tay làm lễ đức Phật, sám hối tội trước, cầu xin đức Phật được xuất gia. Đức Phật bảo ngài La Hầu La rằng :
- Ông đem lão mẫu này đến chỗ di mẫu Kiều Đàm Di !
Trong khoảng thời gian chưa đến nơi, ngài La Hầu La vì bà nói pháp khổ, không, phi thường, vô ngã.v.v... Lão mẫu nghe pháp rồi thì đầu tóc tự rụng, thành Tỳ kheo ni với ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát, thân bay lên hư không làm 18 sự biến hóa. Phu nhân Mạt Lợi của vua Ba Tư Nặc thấy sự biến hóa này, lòng rất vui mừng khen rằng :
- Hay thay ! Mặt trời Phật xuất hiện ở thế gian phá tan tối vô minh, khiến cho tà kiến được ứng chân đạo.
Nói lời đó xong, làm lễ đức Phật, bạch rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Như lão mẫu này đời trước có tội gì mà sinh ra chỗ ti tiện, làm tỳ sứ của người ? Lại có phước gì mà may mắn được đức Thế Tôn, như tấm vải trắng tốt dễ nhuộm màu sắc, ngay tức thời được đạo A la hán ?
Đức Phật bảo rằng :
- Này Đại vương ! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Khéo suy nghĩ điều đó ! Như Lai vì nhà vua phân biệt giải nói ! Thuở quá khứ xa xưa vô số kiếp, có đức Phật Thế Tôn hiệu là Nhất Bảo Cái Đăng Vương Như Lai... đầy đủ mười hiệu. Sau khi đức Phật đó diệt độ, ở trong đời Tượng Pháp, có vị vua tên là Tạp Bảo Hoa Quang. Vua ấy có người con tên là Khoái Kiến, cầu xin muốn xuất gia. Vua cha liền hứa cho. Vương tử đi vào núi, đến trong Tăng phường cầu xin muốn xuất gia thì có một vị Tỳ kheo thông minh, đa trí, hiểu sâu thật tướng nhận làm đệ tử. Lại có một Tỳ kheo tên là Đức Hoa Quang, giỏi nói pháp yếu khuyến dụ, sách tấn lúc mới học. Vương tử Tỳ kheo tuy đã xuất gia nhưng còn mang kiêu mạng. Hòa thượng vì vương tử nói diệu pháp thậm thâm, ý nghĩa đại không của Bát nhã Balamật. Vương tử nghe rồi lý giải lầm lẫn, giảng nói tà bậy. Sau khi vị Tỳ kheo diệt độ, vương tử liền nói rằng : “Đại hòa thượng của ta rỗng không, không trí tuệ, chỉ có thể khen ngợi việc hư vô, rỗng không. Nguyện xin đời sau của ta, chẳng ưa thấy vậy. Vị A xà lê của ta trí tuệ biện tài, nguyện xin đời đời làm thiện tri thức”. Tỳ kheo vương tử nói lời đó xong thì từ đó, hễ pháp là nói phi pháp, phi pháp nói là pháp, dạy đồ chúng đều hành tà kiến. Tuy giữ gìn cấm giới uy nghi chẳng khuyết lậu, nhưng do lý giải lầm lẫn nên sau khi mạng chung, nhanh chóng như tên bắn đi, bị đọa vào địa ngục A tỳ, tám mươi ức kiếp luôn chịu khổ não, tội hết mời ra làm người nghèo hèn, năm trăm thân làm người tai điếc, mắt mù, một ngàn hai trăm thân luôn làm tôi tớ cho người.
Khi đức Phật nói điều đó, phu nhân Mạt Lợi có năm trăm nữ tỳ sám hối, tự trách, phát tâm Bồ đề, nguyện xin đời sau lý giải được pháp không sâu sắc.
Đức Phật bảo đại vương rằng :
- Vị Hòa thượng lúc bấy giờ, nay là thân ta đó ! Vị A xà lê nay chính là La Hầu La đó ! Vị Tỳ kheo vương tử là người lão mẫu này đó ! Đồ chúng đệ tử thì hôm nay là những người con gái tà kiến phát tâm Bồ đề đó !
Khi đức Phật nói điều này thì hai vạn Ưu bà tắc trong thành Xá vệ đều phát tâm Bồ đề, được Niệm Phật định, thường ở trong định thấy đức Phật nói pháp. Đức Phật nói với phụ vương rằng :
- Người ác tà kiến khi thấy đức Phật đi còn được vô lượng phước đức như thế này, huống gì là người quán tưởng Phật đi và tượng Phật đi.
Phụ vương bạch đức Phật rằng :
- Phật mẫu Ma Gia sinh lên trời Đao Lợi. Đức Phật hôm nay tướng ánh sáng thần thông đầy đủ, chừng nào sẽ đến vì mẹ nói pháp ?
Đức Phật bảo với Phụ vương rằng :
- Như Lai sẽ đúng như phép đi chân của Chuyển Luân Thánh Vương từ cõi Diêm Phù Đề lên cõi trời Đao Lợi thăm hỏi đàn việt và nói pháp nhiệm mầu.
Lúc bấy giờ, trong hội có vị Đại Bồ tát tên là Trì Địa liền đứng dậy nhập Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Nhờ sức tam muội nên từ bờ cõi Kim cương mà Kim cương làm vòng, Kim cương căn (rễ), Kim cương làm hoa rồi từng hoa từng hoa kế tiếp nhau ra khỏi cõi Diêm Phù Đề. Bốn vua rồng Nan Đà, Bạt Nan Đà, A Nậu Đạt Đa, Ta Gia La.v.v... đều đem thất bảo đi đến chỗ ngài Trì Địa. Họ dâng lên thất bảo để vì đức Phật Thế Tôn làm ba đường thềm báu, bên trái bằng bạch ngân, bên phải bằng pha lê, ở chính giữa bằng hoàng kim, từ bờ cõi Kim cương của Diêm Phù Đề lên đến cung trời Đao Lợi. Mỗi một thềm báu có bảy lớp lan can. Những lan can đó do trăm ức báu tạo thành có trăm ức ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có trăm ức hoa báu. Trong mỗi một hoa có vô lượng nhạc khí tự nhiên vọt ra.
Lúc bấy giờ, ngài Trì Địa đem hằng hà sa số hoa sen bảy báu bày ra ở chỗ đạp chân của đức Phật. Ở bên đường thềm dựng lên các bảo tràng có vô lượng bảo phan treo trên đầu những bảo tràng ấy. Che khắp bên trên chúng là hàng trăm ức bảo cái. Chư thiên của trời Đao Lợi mưa xuống hoa Mạn đà la, hoa đại Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa đại Mạn thù sa để nghiêm sức vùng ấy. Vua trời Phạm tay nâng lò hương cùng với hàng vạn Phạm chúng đều đứng hầu bên thềm. Mỗi một làn khói thơm như mây lưu ly đầy khắp hư không. Ở trong mây ấy có trăm ngàn kỹ nhạc, chẳng tấu mà tự kêu lên. Vua rồng Nan Đà.v.v... đem bột thơm Chiên đàn của bờ bên này tung rải tràn lan trong đường đi. Ánh sáng hương thơm tỏa lên như ánh vàng rực sáng cao đến một cây Đa la, rồi hóa làm cái đài vàng. Vô lượng chư thiên đem chuỗi ngọc của trời nghiêm sức con đường thềm (bậc). Đồ cung cấp như vậy nhiều chẳng thể kể xiết.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, ở cõi Diêm Phù Đề, cầm giữ ba y (áo), sắc bảo ngài A-nan, ngài Nan Đà, ngài La Hầu La.v.v... và năm trăm vị Tỳ kheo bước chân lên đất mà đi. Khi nhấc bước chân đầu tiên thì đất sáu thứ chấn động. Khi hạ chân xuống thì đất sinh ra cung điện báu như cung của vua Phạm. Từng cung từng cung tiếp theo nhau treo ở không trung, ánh theo sau đức Phật. Ở bên đường bậc thang, Bồ tát Trì Địa, Bồ tát Di Lặc.v.v... cùng một ngàn vị Bồ tát nhất thời chắp tay, dùng hàng vạn ức âm thanh ca vịnh đức hành không lường của đức Như Lai.
Lúc bấy giờ, Phạm vương với vô số trăm ngàn những Phạm thiên.v.v... tay nâng lò hương và vô lượng kỹ nhạc để cúng dường đức Phật, đứng hầu ở bậc thềm bên trái. Thích Đề Hoàn Nhân và vô số thiên tử cùng hàng trăm ngàn thiên nữ tấu nhạc đờn ca cũng đứng hầu ở bậc thềm bên trái. Vô số đại chúng Thanh văn Bồ tát đứng hầu ở bậc thềm bên phải.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn chiếu soi bên đường bậc thang. Ánh sáng ấy như mây với trăm ngàn ức màu sắc giống như trùng các (nhiều lầu các). Đức Phật ở trong ấy với tám muôn bốn ngàn vị hóa Phật vây quanh. Các đức Phật của năm trăm phân thân cùng với đức Phật bằng nhau nắm giữ y bát, uy nghi tường tự. Các đức Phật phân thân cũng có ngài A-nan, ngài Nan Đà làm thị giả. Ma Ba Tuần, ở trong hư không, cùng với những ma chúng tán tụng diệu kệ ngợi khen công đức của đức Như Lai. Ngài Thích Đề Hoàn Nhân bạch với bà Ma Gia rằng :
- Đấng Thế Hùng Như Lai vì báo ơn nên đi đến chỗ này !
Bà Ma Gia phu nhân nghe đức Phật đến rồi nên sai các thiên nữ đem những báu trời và kỹ nhạc trời, hoa Mạn đà la đứng ở bên đường bậc thang mà nghênh đón đức Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, đức Như Lai nhấc chân, hạ chân hiện ra vô số cung điện. Mỗi một cung điện có năm trăm vị hóa Phật ngồi kiết già. Mỗi một đức Như Lai có năm trăm vị Bồ tát làm thị giả.
Lúc đó, năm trăm phân thân, những Thích Ca Văn, vào cung trời Đao Lợi, chư thiên vui mừng mà nói kệ này :
Tỳ Bà Thi Phật
Đấng Cát Tường nhất
Cũng phóng ánh quang
Chỗ này bước sang.
Đức Thi Khí Phật
Đấng Cát Tướng nhất
Hóa thân không lường
Chỗ này bước sang.
Tỳ Xá Phù Phật
Phóng hào quang bạch
Soi sáng khắp cùng
Chỗ này bước sang.
Câu Lâu Tôn Phật
Phát sáng từ mặt
Soi cõi mười phương
Chỗ này bước sang.
Câu Na Hàm Phật
Hóa thân không xiết
Phóng ánh đại quang
Chỗ này bước sang.
Đức Ca Diếp Phật
Thân như bảo các (đài)
Chân bước hư không
Chỗ này bước sang.
Thích Ca Văn Phật
Năm trăm phân thân
Vô số hóa Phật
Soi sáng khắp cùng
Chỗ này bước sang.
Bồ tát Di Lặc
Tôn giả Hiền Kiếp
Cũng phóng hào quang
Chỗ này bước sang.
Chỗ này lành tốt
Vô vi an lạc
Chỗ Phật du hành
Đất Mâu Ni sanh
Tên Niết Bàn Quật
Người tuệ, trí độ.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vào cung Đao Lợi, liền phóng ra ánh sáng tướng Bạch Hào vùng lông mày. Ánh sáng ấy hóa làm một Thất Bảo Cái lớn che bên trên bà Ma Gia hóa ra giường trang sức bằng bảy báu dâng lên cho bà Ma Gia ngồi. Phật mẫu Ma Gia thấy đức Phật vào cung, chắp tay cung kính làm lễ đức Phật. Năm trăm vị hóa Phật nhất thời duỗi cánh tay, chư thiên phò trì, chẳng cho bà lễ kính. Tám muôn bốn ngàn những vị hóa Như Lai đều đứng dậy hết. Lúc ấy trong cung của Ma Gia phu nhân tự nhiên vọt ra năm trăm ức ánh sáng. Trong ánh sáng này có đài báu lớn. Trên mỗi một bảo đài có mười phương Phật. Các đức Phật như vậy tự nói lên danh hiệu và an ủi đức Phật mẫu.
Phương Đông, đức Phật Thiện Đức đem hoa diệu bảo tung lên trên đức Thích Ca Mâu Ni và bà Ma Gia. Hoa hóa thành hoa cái, trong hoa cái ấy có hàng trăm ức vị hóa Phật chắp tay, đứng dậy thăm hỏi Phật mẫu.
Nam phương, đức Phật Chiên Đàn Đức đem hoa sen báu tung lên trên đức Thích Ca Mâu Ni và đức Phật mẫu. Hoa hóa thành hoa cái. Ở trong hoa cái có vô số hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi đức Phật mẫu.
Tây phương, đức Phật Vô Lượng Minh dùng hoa sen báu tung lên trên đức Thích Ca Mâu Ni và đức Phật mẫu. Hoa hóa thành hoa cái. Vô số vị hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi đức Phật mẫu.
Bắc phương, đức Phật Tướng Đức dùng hoa sen báu tung lên trên đức Thích Ca Mâu Ni và Phật mẫu. Hoa hóa thành hoa cái. Vô số vị hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi đức Phật mẫu.
Đông nam phương, đức Phật Vô Ưu Đức; Tây nam phương, đức Phật Bảo Thí; Tây Bắc phương, đức Phật Hoa Đức; Đông Bắc phương đức Phật Tam Thừa Hạnh; thượng phương, đức Phật Quảng Chúng Đức; hạ phương, đức Phật Minh Đức. Những đức Phật như vậy.v.v... đều dùng hoa báu tung lên trên đức Thích Ca Mâu Ni và đức Phật mẫu. Hoa hóa thành hoa cái. Trong mỗi một hoa cái có vô số vị hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi đức Phật mẫu. Lúc này trong cung Đao Lợi đầy những vị hóa Phật. Phật mẫu Ma Gia, trên đỉnh đầu tự nhiên hiện ra những đồ cúng dường, vô lượng tràng phan cúng dường các đức Phật. Trong tràng phan có âm thanh nhiệm mầu khen Phật, khen pháp, khen Tỳ kheo tăng. Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Đó gọi là Như Lai từ cõi Diêm Phù Đề thăng lên cung trời Đao Lợi với ánh sáng sắc tướng và những việc thần hóa. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nếu quán tưởng được như vậy thì đó gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Người tác khởi sự quán tưởng này trừ được một ức kiếp tội sinh tử, lúc sắp mạng chung thấy được chư Phật mười phương, nhất định được sinh đến cõi Phật thanh tịnh của phương khác - Đức Phật bảo ngài A-nan - Ông đem lời nói đó vì những chúng sinh đời vị lai, phải tuyên nói rộng rãi. Người nghe lời này, suy nghĩ ý nghĩa đó thì phải biết người đó được sự che chở hộ trì của các đức Phật mười phương, mạng chung nhất định sẽ sinh ra trước mặt các đức Phật.
Đức Phật bảo với vua cha rằng :
- Sao gọi là Như Lai lúc từ trời Đao Lợi xuống cõi Diêm Phù Đề với sự ứng biến của tướng ánh sáng ? Lúc ta mới xuống, vô số thiên tử, trăm ngàn thiên nữ theo hầu Thế Tôn, chỉ độc thấy một vừng tròn ánh sáng của Phật rộng một tầm, phóng ra hàng trăm ngàn ánh sáng, chân bước vào hư không, đi theo bậc thềm mà xuống. Trong ánh sáng của Phật có hình tượng Thất Phật hiện ra, theo ánh sáng của Phật phát ra dẫn đường đi trước Phật. Lúc đó (dưới cõi Diêm Phù Đề) vua Ưu Điền luyến mộ đức Thế Tôn, đúc vàng làm tượng. Nghe Phật sẽ xuống, vua cho voi chở tượng vàng đi nghênh đón Thế Tôn. Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc hóa làm núi Lưu Ly, ngồi kiết già ở trong hang núi với vô lượng đồ cúng dường phụng nghinh Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, tượng vàng từ trên mình voi hạ xuống giống như Phật sống, chân bước vào hư không, dưới chân mưa hoa, cũng phóng ra ánh sáng đến nghênh đón Thế Tôn. Tượng vàng đúc chắp tay vòng làm lễ Phật . Lúc bấy giờ Thế Tôn cũng lại quỳ dài chắp tay hướng về tượng. Lúc ấy trong hư không có hàng trăm ngàn vị hóa Phật cũng đều chắp tay quì dài hướng về tượng.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói với tượng rằng :
- Ngài, vào đời sau, sẽ đại tác Phật sự ! Sau khi ta diệt độ, những đệ tử của ta, xin đem phú chúc cho ngài !
Các vị hóa Phật ở trong hư không, khác miệng nhưng đồng âm, đều nói lên rằng :
- Nếu có chúng sinh, sau khi ta diệt độ, tạo lập hình tượng, rồi dùng tràng phan, hoa cái, mọi thứ hương thơm cúng dường thì người đó đời sau nhất định được Niệm Phật Thanh Tịnh tam muội. Nếu có chúng sinh biết Phật từ trời Đao Lợi hạ xuống với đủ thứ tướng mạo mà ràng buộc ý niệm để suy nghĩ thì nhất định được thấy Phật.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật biết việc Phật Như Lai xuống từ cõi trời Đao Lợi và thấy tượng Phật thì trừ khước được một ngàn kiếp nghiệp ác rất nặng. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
- Quyển thứ sáu hết-

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Vô niệm (Pháp bảo Đàn kinh)


Nguồn chân lẽ thật


Bhutan có gì lạ


Thiếu Thất lục môn

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.216.177.94 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập