Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh [佛說觀佛三昧海經] »» Bản Việt dịch quyển số 5 »»

Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh [佛說觀佛三昧海經] »» Bản Việt dịch quyển số 5


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.57 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.68 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Quán Phật Tam Muội Hải

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Tuệ Khai

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

PHẨM THỨ TƯ : QUÁN PHẬT TÂM.
Lúc bấy giờ, tim Phật như đóa hoa sen hồng. Ở cánh hoa sen có tám muôn bốn ngàn những ánh sáng màu trắng. Ánh sáng ấy soi khắp chúng sinh của năm đường. Khi ánh sáng này phát ra thì chúng sinh thọ khổ đều xuất hiện. Đó là khổ của địa ngục A tỳ, mười tám địa ngục nhỏ, mười tám địa ngục lạnh, mười tám địa ngục Hắc ám, mười tám địa ngục tiểu nhiệt, mười tám địa ngục bánh xe đao, mười tám địa ngục bánh xe kiếm, mười tám địa ngục xe lửa, mười tám địa ngục nước phân sôi, mười tám địa ngục vạc nước sôi, mười tám địa ngục sông tro, địa ngục năm trăm ức rừng kiếm, địa ngục năm trăm ức rừng gai, địa ngục năm trăm ức trụ đồng, địa ngục năm trăm ức mây sắt, địa ngục năm trăm ức lưới sắt, mười tám địa ngục hang sắt, mười tám địa ngục hòn sắt, mười tám địa ngục đá nhọn, mười tám địa ngục uống nước đồng... nhiều những địa ngục như vậy. Đức Phật bảo rằng :
- Này A-nan ! Sao gọi là địa ngục A tỳ ? A là không, Tỳ là ngăn, a là không, tỳ là cứu, a là không ngưng, tỳ là không động, a là rất nóng, tỳ là rất não, a là chẳng nhàn, tỳ là chẳng trụ, chẳng nhàn chẳng trụ gọi là địa ngục A tỳ. A là lửa lớn, tỳ là nóng dữ. Lửa dữ vào tim gọi là địa ngục A tỳ.
Đức Phật bảo :
- Này A-nan ! Địa ngục A tỳ dọc ngang bằng đều tám ngàn do tuần với bảy lớp thành sắt, bảy tầng lưới sắt, xuống dưới mười tám ngăn, vây giáp vòng bảy lớp đều là rừng đao. Bên trong bảy lớp thành lại có rừng kiếm. Dưới mười tám ngăn, mỗi ngăn có tám muôn bốn ngàn lớp. Ở bốn góc của ngăn ấy có bốn con chó đồng lớn mà thân dài rồng đến bốn mươi do tuần, mắt như chớp kéo, nanh như cây gươm, hàm răng như núi dao, lưỡi như mũi nhọn sắt, tất cả lông trên thân đều phát ra lửa dữ mà khói thì hôi thối, vật hôi thối của thế gian không gì có thể ví dụ được. Có mười tám ngục tốt, đầu là đầu la sát, miệng là miệng dạ xoa, sáu mươi tư mắt, mắt tung đuổi hòn sắt như cái xe mười dặm. Trên nanh chó chìa ra cao bốn do tuần, đầu nanh lửa tuông ra, thiêu đốt xe sắt trước khiến cho bánh xe sắt, mỗi một vành bánh xe hóa làm một ức ngọn lửa. Dao bén, mũi nhọn, kiếm, kích... đều từ lửa phát ra. Lửa tuông như vậy thiêu đốt thành A tỳ khiến cho thành A tỳ đỏ như nước đồng. Trên đầu ngục tốt có tám đầu trâu. Mỗi một đầu trâu có mười tám cái sừng. Đầu mỗi một sừng đều phát ra đám lửa. Đám lửa lại hóa thành mười tám vành bánh xe. Vành bánh xe lửa lại biến làm vòng dao lửa như bánh xe vậy. Từng vòng, từng vòng tiếp nhau tại vùng lửa rực, đầy trong thành A tỳ. Chó đồng há miệng le lưỡi tại đất, lưỡi như sắt nhọn. Khi lưỡi lè ra thì hóa thành vô lượng lưỡi, đầy trong thành A tỳ. Bên trong bảy lớp thành có bảy tràng bằng sắt. Đầu tràng lửa vọt ra như suối nước sôi trào lên. Dòng sắt ấy (?) lan đi đầy thành A tỳ. Bốn cửa của ngục A tỳ, ở trên then cửa có tám mươi cái chõ đồng đựng nước đồng sôi trút xuống từ cửa, lan tràn đầy trong thành A tỳ. Mỗi một khoản ngăn có tám vạn bốn ngàn con rắn sắt lớn, phun ra độc, phun ra lửa. Thân của chúng đầy trong thành. Những con rắn ấy gào rống như sấm trời động, mưa xuống những hòn sắt lớn đầy thành A tỳ. Việc khổ của thành này có đến hàng tám muôn ức ngàn. Những sự khổ nhất trong các sự khổ đều gom lại tại thành này. Có năm trăm ức trùng, mỗi trùng có tám muôn bốn ngàn mỏ. Đầu mỏ lửa tuông ra như mưa xuống đầy thành A tỳ. Khi những trùng này xuống thì lửa dữ của A tỳ càng cháy lớn thêm. Lửa cháy ánh sáng đỏ soi sáng đến tám muôn bốn ngàn do tuần, từ địa ngục A tỳ xông lên biển lớn, đốt cháy thêm dưới núi. Giọt nước biển lớn như trục bánh xe trở thành cây sắt lớn nhọn đầy trong thành A tỳ.
Đức Phật bảo rằng :
- Này A-nan ! Nếu có chúng sinh giết cha, hại mẹ, nhục mạ sáu thân thì người tạo những tội đó, sau khi mạng chung, con chó đồng há miệng hóa ra mười tám cái xe, hình trạng như xe vàng với bảo cái ở trên. Tất cả lửa cháy hóa làm ngọc nữ. Tội nhân từ xa nhìn thấy lòng phát sinh vui mừng nghĩ : “ Ta muốn đến trong đó ! Ta muốn đến trong đó !” Khi gió đao thổi thì lạnh quá, thất thanh nghĩ rằng : “ Thà được lửa cháy ở trên xe mà để lửa cháy tự đốt”. Tác khởi ý nghĩ đó rồi, người ấy liền mạng chung. Hồn lìa khỏi xác đã thấy ngồi xe vàng, ngắm nhìn ngọc nữ thì họ đều cầm búa sắt chém chặt thân tội nhân ấy. Bên dưới thân thì lửa dậy như vòng lửa xoáy, ví như khoảng thời gian người tráng sĩ co duỗi cánh tay, đã rơi thẳng trong địa ngục A tỳ. Tội nhân ấy từ ở ngăn trên, như bị vòng lửa xoáy, đưa xuống đến mép ngăn cuối, thân khắp bên trong các ngăn. Con chó đồng sủa lớn, nhai xương hút tủy. Ngục tốt La sát cầm chỉa sắt lớn đâm vào đầu khiến cho lửa cháy khắp thân thể, tràn đầy thành A tỳ. Lưới sắt mưa dao theo lỗ chân lông vào thân thể tội nhân. Hóa Diêm La Vương lớn tiếng ra lệnh rằng : “ Này giống ngục nhân ngu si ! Khi ngươi còn tại thế, chẳng hiếu với cha mẹ, tà kiến, kiêu mạn, vô đạo ! Chỗ ngươi hôm nay sinh ra gọi là địa ngục A tỳ.Ngươi chẳng biết ơn, không có tàm quí (hổ thẹn), chịu sự khổ não này có vui không vậy ? Nói lời đó xong liền biến mất.
Lúc bấy giờ, ngục tốt lại đuổi tội nhân từ ngăn dưới lên cho đến ngăn trên, trải qua trong tám muôn bốn ngàn ngăn. Thân tội nhân này qua đến mép lưới sắt thì phải mất một ngày một đêm nơi ấy mới khắp cùng.Một ngày một đêm ở địa ngục A tỳ tính theo ngày tháng năm của cõi Diêm Phù Đề này là sáu mươi tiểu kiếp. Tội nhân ngũ nghịch không tàm không quí, tạo tác ngũ nghịch. Người phạm tội ngũ nghịch nên khi sắp mạng chung, bị mười tám ngọn gió đao như xe lửa sắt cắt phanh thân thể. Do sức nóng bức bách nên họ liền nói rằng : “ Được ở dưới cây lớn mát mẻ, hoa màu đẹp dạo chơi thì chẳng vui lắm ư ?” Khi tác khởi ý niệm này thì tám muôn bốn ngàn những rừng kiếm ác của địa ngục A tỳ hóa làm cây báu, hoa trái sum suê, hàng hàng lớp lớp ở trước mặt. Lửa cháy rất nóng hóa làm hoa sen ở dưới những gốc cây kia. Tội nhân thấy rồi nói rằng : “Sở nguyện của ta, nay đã được kết quả”. Khi nói lời nói đó thì nhanh như mưa rào, tội nhân lên ngồi trên hoa sen. Ngồi trong giây lát thì các trùng mỏ sắt từ hoa lửa khởi lên, xuyên qua xương vào trong tủy, thấu qua tim xuyên vào não, vin theo cây mà lên. Tất cả rừng kiếm nạo thịt thấu xương, vô lượng rừng đao đang ở trên mà hạ xuống, xe lửa, lò than... mười tám việc khổ cùng một lúc rước đến. Khi tướng này hiện thì tội nhân bị vùi lấp dưới đất, từ ngăn dưới lên, thân như hoa nở đầy khắp ngăn dưới. Từ ngăn dưới khởi lên lửa cháy dữ dội lên đến ngăn trên. Đến ngăn trên rồi, thân tội nhân đầy trong đó, nóng bức khổ não lắm nên họ há miệng, thè lưỡi. Do tội người này nên hàng vạn ức nước đồng, hàng trăm ngàn vòng đao, từ không trung hạ xuống, vào ở đầu, ra ở chân. Tất cả việc khổ ở đây quá hơn nói ở trước gấp trăm ngàn vạn lần. Người đủ năm nghịch tội thì người ấy chịu tội đầy đủ năm kiếp. Lại có chúng sinh phạm bốn trọng cấm, luống ăn của tín thí, bài báng, tà kiến, chẳng biết nhân quả, đoạn học Bát nhã, hủy hoại Phật mười phương, ăn trộm đồ vật của tăng, dâm dật vô đạo, lược bức các Tỳ kheo ni tịnh giới, chị, em thân thích mà chẳng biết hổ thẹn, hủy nhục người thân, tạo mọi việc ác. Tội báo người này là khi sắp mạng chung thì gió đao phanh thây, nằm nghỉ chẳng định như bị đánh đập khổ sở. Lòng người ấy mê man phát khởi tư tưởng cuồng si, thấy nhà cửa, trai gái lớn nhỏ, tất cả đều là vật bất tịnh, cứt đái hôi thối tràn đầy chảy ra bên ngoài.
Lúc bấy giờ, tội nhân liền nói rằng : “ Tại sao chỗ này không có thành bang đẹp và núi rừng đẹp để ta dạo chơi mà đến chỗ như nơi vật bất tịnh này ?” Nói lời nói đó rồi thì ngục tốt dùng chỉa sắt lớn nâng cao ngục A tỳ và những rừng đao hóa làm cây báu và ao nước mát mẻ, lửa rực hóa làm hoa sen cánh vàng, các con trùng mỏ sắt hóa làm le le và nhạn, tiếng thống khổ của địa ngục nghe như âm thanh ca vịnh. Tội nhân nghe rồi nghĩ rằng : “ Như chỗ đẹp này, ta phải vào dạo chơi !” Nghĩ rồi, tức thì người ấy ngồi trên hoa sen lửa, các loài trùng mỏ sắt theo lỗ chân lông của thân ăn nuốt thân thể người ấy, hàng trăm ngàn vòng sắt từ trên đỉnh đầu nhập vào, hằng hà sa số chỉa sắt móc tròng mắt người ấy, con chó đồng của địa ngục hóa làm trăm ức chó sắt tranh nhau phanh thây người ấy lấy tim mà ăn, trong chốc lát thân người ấy như hoa bị cắt xén đầy mười tám ngăn. Mỗi một hoa có tám muôn bốn ngàn cánh. Mỗi một cánh có đủ chi tiết đầu, thân, tay... ở tại một ngăn địa ngục mà địa ngục chẳng lớn, thân người này chẳng nhỏ, đầy khắp như trong đại địa ngục này. Những tội nhân đó đọa vào địa ngục này trải qua tám muôn bốn ngàn đại kiếp Nê lê này diệt, người ấy lại vào trong mười tám ngăn địa ngục ở phương đông chịu khổ như trước. Ngục A tỳ này ở phía Nam cũng có mười tám ngăn, phía Tây cũng có mười tám ngăn, ở phía Bắc cũng có mười tám ngăn và các phương bàng.v.v.... Người ấy phải trải qua đầy đủ. Tội ngũ nghịch, phá hoại Tăng kỳ, làm ô uế Tỳ kheo ni, đoạn các căn lành... như tội nhân này đầy đủ mọi tội thì thân đầy trong ngục A tỳ, bốn chi lại đầy trong mười tám ngăn. Ngục A tỳ này chỉ thiêu đốt như những ngục chủng chúng sinh này. Khi kiếp sắp hết thì cửa Đông liền mở, tội nhân thấy ngoài cửa Đông, suối trong tuông nước, rừng cây hoa trái, tất cả đều hiện ra. Những tội nhân đó thấy lửa cháy tạm tan nên từ ngăn dưới uyển chuyển trườn lên (đi bằng bụng) chạy đến trong ngăn trên, tay vịn vào bánh xe dao thì trong hư không mưa xuống hòn sắt nóng. Tội nhân chạy về hướng cửa Đông, đến nơi thì cửa cài then, ngục tốt La sát tay cầm chĩa sắt đâm ngược vào mắt họ, chó sắt nhai tim, buồn bực tuyệt vọng mà chết. Chết rồi sống lại, tội nhân thấy cửa Nam mở... như trước không khác. Như vậy, cửa Tây, cửa Bắc cũng đều như vậy. Thời gian này trải qua nửa kiếp. Ở địa ngục A tỳ chết thì sinh trong băng lạnh. Ở ngục băng lạnh chết thì sinh vào chỗ Hắc ám, chịu cảnh mắt không thấy gì trong tám ngàn vạn năm, chịu thân trùng lớn uyển chuyển trườn đi, các tình tối tăm không hiểu biết gì, bị hàng trăm ngàn chồn sói kéo dắt nhau ăn thịt. Sau khi mạng chung, tội nhân sinh vào trong loài súc sinh, chịu hình hài chim thú năm ngàn vạn thân. Trở lại sinh trong loài người thì tội nhân chịu thân điếc, đui, câm ngọng, ghẻ lở, ung thư, nghèo cùng, hạ tiện... tất cả mọi tướng suy bại đều phải mang vào thân. Chịu hình hài ti tiện này trải qua năm trăm thân, sau tội nhân trở lại sinh trong đường ngã quỉ. Trong đường ngã quỉ, tội nhân gặp được thiện tri thức, các vị Đại Bồ tát quở trách tội nhân ấy rằng : “ Ngươi ở vô lượng đời, tiền thân đã làm tội nhiều vô hạn, bài báng chẳng tin, đọa vào địa ngục, chịu các khổ não chẳng thể nói đủ được. Hôm nay, ngươi phải phát lòng từ bi !” Các ngã quỉ nghe lời nói đó rồi, xưng “Nam mô Phật”. Nhờ ân lực niệm Phật, tức thời mạng chung sinh lên cõi bốn trời. Sinh lên cõi đó rồi, người ấy hối lỗi tự trách phát tâm Bồ đề. Tâm quang của chư Phật chẳng bỏ qua những điều này nên nhiếp thọ hết nhóm người đó, thương xót những người đó như thương La Hầu La, dạy bảo họ tránh địa ngục như yêu tròng mắt con ngươi.
Đức Phật nói với Đại vương rằng :
- Muốn biết chỗ soi rọi của ánh sáng tâm đức Phật thì phải biết là, tâm quang của Phật thường soi chiếu những chúng sinh khổ không gián đoạn, không cứu này. Sở duyên của tâm Phật thương duyên với những chúng sinh cực ác này. Dùng tâm lực của Phật tự trang nghiêm nên qua vô số kiếp khiến cho tội nhân kia phát tâm Bồ đề - Đức Phật bảo ngài A-nan - Sao gọi là mười tám địa ngục lạnh. Địa ngục lạnh là nơi tám phương có núi băng. Mỗi núi băng có mười tám ngăn. Lại có mười tám những núi băng nhỏ màu như pha lê. Những băng lạnh này chứa đầy vùng núi băng như hoa sen, cao mười tám do tuần, bên trên có bánh xe băng, ngang dọc ngang bằng mười hai do tuần. Như trời mưa đá, từ hư không mà rơi xuống. Thế gian tự có kẻ không lòng từ, cướp đoạt vô đạo, lấy trộm, bóc lột, giết hại chúng sinh... Tội báo của người này là khi sắp mạng chung, tất cả gió đao hóa làm lửa nóng. Tội nhân nghĩ : “ Hôm nay, tại sao ta chẳng nằm trên băng”. Bị lửa bức bách nên khi tác khởi ý niệm đó thì ngục tốt La sát, tay cầm bánh xe băng, như con nhạn trắng bay liệng nhẹ nhàng trên hư không mà đến. Tội nhân thấy rồi hết nóng được mát mẻ, lòng liền ái niệm, đứt hơi mạng chung, sinh lên trên núi băng. Sau khi đã sinh lên đó thì mười tám núi băng như cái quạt, quạt tất cả băng lạnh theo lỗ chân lông mà vào đầy khắp trong mười tám ngăn. Mỗi ngăn mổ, cắt, bửa, tách tội nhân ra như hoa sen đỏ. Bên trên bánh xe băng hạ xuống che khắp thân tội nhân ấy. Rồi núi băng tám phương nhất thời đều hợp lại, không nói từ nào khác chỉ kêu rằng : “ A la la !”. Lúc bấy giờ, tội nhân liền nghĩ rằng : “ Ta khi nào sẽ khỏi được băng lạnh sinh ra trong lửa nóng ?”
Lúc bấy giờ, trong hư không có những con chim sắt miệng mỏ phun ra lửa từ không trung hạ xuống phá đầu mổ não ăn, tội nhân chết liền. Sau khi mạng chung ngục tốt lại dùng chỉa sắt đánh xuống đất, kêu lên rằng : “ Sống dậy ! Sống dậy !” Ứng theo tiếng kêu, tội nhân sống trở lại và dấy lên suy nghĩ rằng : “ Ta nay, trên thân lửa lớn rực cháy, nguyện xin được băng lạnh như trước để diệt lửa này !”. Ngục tốt lại dùng bánh xe băng tiếp đón, đặt tội nhân vào trong ngục khác. Như vậy, trong mười tám ngăn không ngăn nào mà tội nhân chẳng trải qua. Số năm thọ mạng của tội nhân ở địa ngục lạnh này như ngày tháng tám ngàn vạn năm của Tứ thiên vương. Tội đã hết rồi, người đó sinh trong lớp tiện nhân nghèo cùng hèn hạ, trong năm trăm đời làm nô tỳ cho người, áo chẳng đủ che thân, ăn chẳng no miệng. Tội này hết rồi, người ấy gặp thiện trithức, phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo ngài A-nan :
- Sao gọi là địa ngục Hắc ám ? Địa ngục Hắc ám là mười tám lớp núi đen, mười tám lớp lưới đen, mười tám lớp giường sắt, mười tám lớp màn sắt. Mỗi một ngọn núi cao tám muôn bốn ngàn do tuần. Mỗi một màn sắt cũng dày tám muôn bốn ngàn do tuần. Mỗi một tấm màu có mười tám lớp núi Thiết vi đen la liệt như rừng che tối núi này. Thế gian tự có chúng sinh ngu si, bạc bẽo với ánh sáng đèn Phật, Pháp, Tăng, trộm cắp của cha mẹ, sư trưởng, hòa thượng bài báng người nói pháp, cũng hủy hoại thầy luận nghị của thế tục.v.v... chẳng kỵ tôn ty, chẳng biết hổ thẹn. Do tội này nên người đó khi mạng chung, mắt có ánh điện chớp chớp chẳng dừng, liền nghĩ rằng : “ Ta có tội gì mà thường thấy lửa đó ?” Tội nhân liền nhắm hai mắt lại, chẳng cam lòng muốn thấy nó và ánh sáng mặt trời mặt trăng. Khi mạng sắp hết thì ngục tốt La sát nâng giường sắt lớn, trương tán che bằng sắt lớn lên như đám mây lớn, cưỡi hư không mà đi.
Lúc bấy giờ, ở không trung không hình có tiếng nói rằng : “ Chỗ này tối tăm, ngươi có muốn đến không ?” Tội nhân nghe tiếng tức thời dấy lòng muốn đến chỗ đó. Hơi thở đứt, tội nhân mạng chung liền ngồi trên giường sắt, như con nhạn chúa liệng đáp xuống chỗ tối đen. Đã vào trong đó rồi thì tội nhân bị bánh xe đao từ trên xuống chém, chặt thân minh. Có con quạ sắt lớn mỏ lớn dài sắt bén, từ núi bay lại, mổ lấy tội nhân ăn. Đau đớn quá, tội nhân vội chạy đi tìm ánh sáng chẳng được mà dưới chân bị gai tật lê xuyên xương, thấu tủy... Tội nhân sợ hãi như vậy trải qua năm trăm vạn ức năm, cũng như số ngày tháng năm của Tứ Thiên Vương. Đầu người đó đánh vào những núi Hắc ám, não chảy, mắt lòi, ngục tốt La sát dùng chỉa sắt xiềng mắt đặt yên trở lại trong hốc mắt. Tội hết mới ra làm người bần cùng, mắt mờ tối mù, không thấy. Hoặc bị bệnh ghẻ lở, mọi người xua đuổi. Chịu tội báo như vậy trải qua năm trăm thân. Qua khỏi những việc đó, về sau tội nhân gặp được thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là mười tám địa ngục nóng nhỏ ? Mười tám địa ngục nóng nhỏ là như ngục A tỳ, cùng có bảy lớp thành, bảy lớp lưới sắt và trang nghiêm bằng vô lượng những việc ác. Tự có chúng sinh chẳng thuận lời dạy của thầy, dấy khởi lòng ác nghịch, chẳng biết ơn nuôi dạy, trộm của thầy, làm hại thầy, làm bẩn đồ ăn tịnh của thầy, ngồi lên giường, tòa ngồi của thầy, lấy chén, bình bát của thầy, che giấu đồ bất tịnh, làm năm thứ ác. Sao gọi là năm ? - Đó là mắng thầy, bài báng thầy, đánh thầy, giết thầy và đem những thứ thuốc độc cho thầy uống. Nếu Sa môn, Bàlamôn làm các việc phi pháp, hại thầy, bài báng thầy, người tội ác này không có tàm quí, lột tượng, phá tháp, cướp lấy vật pháp bảo, giết chết bác, chú, cha, mẹ, anh em, chị em. Người tội như vậy khi sắp mạng chung thì ngục tốt của mười tám từng địa ngục A tỳ đều dùng chỉa sắt nâng lên một ngăn ngục. Mọi ngục như vậy giống như đại bảo cái. Rồi mưa xuống cơm mưa li ti, giọt mưa như hoa. Tội báo của người này bị nhiệt não vào tim như lửa thiêu đốt, nhìn thấy mưa mát mẻ liền nghĩ rằng : “ Nguyện cho ta được ngồi dưới bóng mát của bảo cái. Mưa mát xối thân ta chẳng cũng vui lắm sao ?” Nói lời đó xong, đứt hơi mạng chung. Như khoảnh khắc ném quả cầu, người ấy liền ngồi ở trên giường gươm lớn với trăm ức mũi kiếm nhọn. Mỗi mũi nhọn đều phát ra lửa, vừa thiêu đốt vừa đâm thân người ấy. Ở không trung, bảo cái làm bánh xe lửa, từ trên mà xuống, bổ thẳng vào đỉnh đầu người ấy. Thân người ấy tan nát thành hàng ngàn đoạn. Bên trên mưa xuống những viên đồng, chúng theo lỗ chân lông vào thân tội nhân. Ngục tốt la sát dùng chỉa sắt lớn đâm vào mắt tội nhân, hoặc dùng tên sắt bắn vào tim người ấy. Tội nhân ngất đi mà chết, trong giây lát, sống trở lại ngồi lên trên giường gươm, rồi bị gió chướng xoáy thổi rơi vào địa ngục. Đã vào ngục rồi thì vua Diêm la cùng cung điện đều ở trong hư không, bảo rằng : “ Này ngục chủng ! Ngươi làm mọi thứ ác, giết thầy, bài báng thầy... chỗ sinh hôm nay của ngươi gọi là Bạt Thiệc A tỳ (ngục cắt lưỡi). Ngươi ở tại ngục này phải trải qua ba kiếp”. Nói lời đó rồi liền biến mất. Sự thống khổ của ngục này như trên đã nói.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là mười tám địa ngục Đao Luân ? Địa ngục Đao Luân là núi đao bốn mặt. Ở mọi vùng núi chứa dao như gạch. Trong hư không có tám trăm ức vạn bánh xe đao cực lớn theo thứ lớp mà hạ xuống giống như giọt mưa. Tự có chúng sinh ưa làm khổ não người khác, giết hại chúng sinh... đến khi mệnh chung bị bệnh khí ngược làm khổ, lòng đầy phiền muộn, tim cứng như đá liền nguyện rằng : “ Được một lưỡi dao bén tước bỏ những khổ hoạn này thì chẳng cũng sướng lắm ư ?” Lúc đó, ngục tốt, đỉnh đầu đội bánh xe đao che khuất thân quỉ, đi đến chỗ tội nhân, hạ giọng xúi rằng : “ Ta có dao bén có thể cắt được bịnh nặng”. Tội nhân vui mừng liền tự nghĩ rằng : “ Chỉ việc này là nhanh thôi !” Nghĩ rồi đứt hơi, mạng chung sinh lên trên bánh xe đao, tội nhân như con voi say chạy, rơi vào vùng núi đao. Khi đó, bốn ngọn núi đao cùng một lúc hợp lại. Bốn thứ núi đao cắt nát thân tội nhân ấy chẳng tự chịu đựng được, ngất đi mà chết. Ngục tốt La sát đuổi ép tội nhân chạy lên núi đao. Chưa đến đỉnh núi, dao đã gây thương tích từ dưới chân cho đến tận tim. Sợ ngục tốt nên tội nhân lổm ngổm bò lên. Đã đến đỉnh núi thì ngục tốt tay cầm tất cả cây đao đánh giết tội nhân. Trong thời gian chưa chết, bị con dao cắt nhai tim ăn, khổ sở trăm bề. Trùng sắt ăn thịt đều hết sạch, tội nhân liền sống lại, chân mang bánh xe sắt từ trên không hạ xuống. Một ngày một đêm, tội nhân có sáu mươi ức lần sinh, sáu mươi ức lần chết. Như vậy người nhiều, thường có mười tám thứ nhưng do tội của người này nên lại càng thêm kịch liệt. Họ thọ như vua bốn trời, những tám ngàn vạn năm. Tội hết sinh ra đời phải đọa vào loài súc sinh, năm trăm đời đem thân cung cấp cho miệng mọi người. Lại năm trăm đời nữa chịu hình hài ty tiện, nhiên hậu họ mới gặp được bậc đại thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là địa ngục Kiếm Luân ? Địa ngục Kiếm Luân là nơi ngang dọc bằng nhau những năm mươi do tuần, bên trong chứa đầy cây gươm. Số cây ấy nhiều ít như lúa, mè, tre, cỏ. Mỗi một cây gươm cao bốn mươi do tuần, lá là tám muôn bốn ngàn bánh xe gươm, hoa là tám muôn bốn ngàn bánh xe gươm, trái là tám muôn bốn ngàn bánh xe gươm, cành lá tám muôn bốn ngàn chỗ đựng nước đồng sôi... Thế gian tự có chúng sinh ngu si ưa giết hại không chán. Những tội nhân này khi sắp mạng chung gặp bệnh đại nhiệt (rất nóng), liền nghĩ rằng : “ Hôm nay thân thể ta lúc nóng lúc lạnh, toàn thân cứng ngắt giống như cái chày bằng sắt”. Người ấy liền phát nguyện rằng : “ Nguyện được cây gươm Kim cương để cắt bỏ cái khổ hoạn này thì vui chẳng thể nói được !”. Lúc đó, ngục tốt liền tự hóa thân giống như hình dáng cha mẹ, bạn bè ở tại trước mặt người ấy mà bảo rằng : “ Ta có phép bí mật, như ý ngươi muốn ta sẽ trao cho !”. Tội nhân nghe rồi, lòng rất ưa thích, muốn được thấy gấp gấp thì đứt hơi, mạng chung. Nhanh như ngựa chạy, người ấy sinh vào trong hoa kiếm, bị vô lượng kiếm nhọn nạo xương, xẻ thịt, nát tan như đậu hũ. Lại có con chim sắt từ trên cây đáp xuống móc mắt mổ ăn. Có quỉ Đại La sát, tay cầm búa sắt bủa đầu lòi não, chó sắt đến liếm ăn. Chết rồi, sống lại, tội nhân bị đuổi lên cây, chưa đến đầu cây, thân đã nát như bụi. Trong một ngày thân kinh qua các cây. Trong một đêm thân lại kinh qua các cây. Một ngày một đêm thân bị giết nhiều như bụi, chẳng thể kể số lượng. Do tội giết người nên phải chịu tai ương như thế này trải qua tám vạn ức năm, rồi sinh vào loài súc sinh. Làm súc sinh, thân thường gánh vác nặng nhọc, chết rồi lại bị lột da. Trải qua năm trăm đời, người ấy lại sinh trong loài người, chịu thân nghèo cùng, đoản mạng, nhiều bệnh, ốm gầy... Qua khỏi kiếp đó rồi, về sau mới gặp được bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo ngài A-nan :
- Sao gọi là địa ngục xe lửa. Địa ngục xe lửa là nơi có những cái vạc đồng mà mỗi một cái dọc ngang bằng nhau, bốn mươi do tuần, bên trong chứa đầy lửa, bên dưới có mười hai bánh xe, bên trên có chín mươi bốn vòng lửa. Tự có chúng sinh là đệ tử của Phật và thờ chín mươi sáu thứ Phạm thiên. Đồ chúng xuất gia và tại gia thì lừa dối, mê hoặc, tà mạng, dua nịnh, làm ác.... Những tội nhân như thế này lúc sắp mạng chung thì phong đại (một trong bốn đại) dấy động trước làm cho thân thể lạnh như băng, liền nghĩ rằng : “ Lúc nào sẽ được đám lửa mạnh mà ngồi vào trong thì dứt trừ vĩnh viễn bệnh lạnh”. Khởi niệm đó rồi, ngục tốt La sát hóa làm xe lửa như hoa sen vàng, ngục tốt ở trên đó, dáng như đồng nam, tay cầm cây phất trắng, cổ vũ mà đến. Tội nhân thấy rồi, lòng sinh ái trước mà nghĩ rằng : “ Như màu rực rỡ của ánh sáng hoa vàng này mà soi rọi ta nóng lên thì nhất định trừ tan lạnh buốc. Nếu được ngồi lên trên xe đó thì sướng chẳng thể nói !”. Nghĩ như vậy rồi thì người ấy đứt hơi, mạng chung, được chở trên xe lửa, chi tiết bị lửa cháy, rơi vào trong đám lửa, thân thể cháy tan. Ngục tốt xướng lên : “ Sống lại !” Ứng theo tiếng kêu, tội nhân sống trở lại. Thường thường xe lửa nghiến qua thân đến mười tám lần, thân nát như bụi. Trời mưa nước đồng sôi tưới khắp thân thể, liền sống trở lại. Như vậy qua lại, lên đến mép nước sôi, rơi xuống trong vạc, bị xe lửa nghiến nát... một ngày một đêm có đến chín mươi ức lần chết, chín mươi ức lần sống. Hết tội, người này sinh vào nhà bần cùng, bị sự sai khiến của người, bị ràng buộc với người khác, chẳng được tự tại. Đền bồi lợi dưỡng cho người xong, họ mới được thoát. Do công đức thiện tâm xuất gia đời trước nên họ gặp được bậc thiện tri thức vì họ nói pháp, lòng mở ra, ý thông suốt, thành A la hán.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là địa ngục nước phân sôi (cứt sôi). Địa ngục phân sôi là nơi rộng tám mươi do tuần có mười tám vòng thánh sắt. Mỗi một thành sắt có mười tám ngăn. Trong mỗi một ngăn, bốn vách đều có trăm ức vạn cây kiếm. Đất như dao nhọn, mũi nhọn dày ba thước. Ở trên mũi nhọn ấy có trăm ngàn gai tật lê nhiều chẳng thể kể xiết. Mỗi một gai tật lê và vùng cây kiếm đã sinh ra những con trùng sắt nhiều không lường. Mỗi một con trùng sắt có trăm ngàn đầu. Mỗi một đầu có trăm ngàn mỏ, đầu mỏ đều có trăm ngàn con giun (lãi) mà miệng phun phân nóng sôi như nước đồng, chứa đầy bên trong thành sắt. Bên trên ngục có lưới sắt và quạ sắt. Thế gian tự có chúng sinh phá tám giới trai (bát quan trai giới), làm bẩn Sadi giới, Sadini giới, làm bẩn Thức xoa ma ni giới... tự làm ô uế tịnh giới, làm ô uế Tỳ kheo giới, Tỳ kheo ni giới, làm ô uế Ưu bà tắc giới, Ưu bà di giới... Các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, các Ưu bà tắc, Ưu bà di, Sa di, Sa di ni, thức xoa ma ni... bảy chúng như vậy và tất cả chúng khác làm ô uế đồ ăn sạch của tăng, làm ô uế đồ ăn của cha mẹ, trộm cắp ăn trước, tay chẳng sạch cầm nắm, và người tri sự của tăng vì cậy thế mình nên làm ô uế đồ ăn sạch của tăng. Bốn bộ đệ tử do chẳng tịnh thân ngồi trên giường tăng kỳ, phạm “thân lan già” lâu chẳng sám hối, huống ăn đồ ăn của tăng, ngồi trong tăng chúng cùng tăng Bố tát... Những người như vậy nhiều không lường. Những tội nhân nghiệp ác bất tịnh, khi sắp mạng chung toàn thân đều có mùi như con xạ hương, chẳng thể chịu nỗi, liền nghĩ rằng : “ Phải ở chỗ nào chẳng nghe mùi này. Như có hơi khác giống như cuồng phong đến xông ướp tâm ta !” Tội nhân nghĩ thế rồi thì ngục tốt La sát tự hóa thân mình giống như cái bình vẽ, bên trong đựng đầy phân dơ, đi đến chỗ tội nhân, dùng tay sờ mó khiến cho tội nhân lòng sinh ái trước, đứt hơi mạng chung, giống như bị gió thổi, tội nhân rơi vào trong phân sôi. Rơi vào đó rồi thối rữa bị mọi loài trùng ăn. Khi chạy khắp nơi mòn xương, lòi tủy, đói khát bức bách nên tội nhân uống nước phân sôi nóng, giun, giòi ăn lưỡi của họ. Một ngày một đêm có chín mươi ức lần sinh, chín mươi ức lần chết. Tội hết, người ấy mới sinh vào gia đình bần tiện, bị ràng buộc với người khác, chẳng được tự tại. Giả sử khi sinh ra đời, người ấy luôn gặp vua ác, lệ thuộc vào người chủ tà kiến, bị đủ thứ việc ác bức thiết thân họ, bướu nhọt, ghẻ dữ là y phục. Do nhân duyên nghe pháp thiện đời trước nên gặp được bậc thiện tri thức, xuất gia học đạo, thành A la hán với ba minh sáu thông và đủ tám giải thoát.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là mười tám địa ngục Vạc nước sôi. Địa ngục Vạc nước sôi là nơi có mười tám vạc. Mỗi một cái vạc dọc ngang bằng nhau bốn mươi do tuần, bảy lớp lưới sắt, bên trong chứa đầy nước đồng sôi. Có năm trăm quỉ La sát chụm than đá lớn thiêu đốt vạc đồng ấy. Lửa than đá này cháy hừng hực liên tục trải qua sáu mươi ngày mà lửa chẳng thể tắt, so với ngày của cõi Diêm Phù Đề là tròn hai mươi vạn năm. Trên vạc nước sôi như vậy, nước đồng vọt lên như sao, rồi hóa thành vòng lửa trở lại vào trong vạc... Thế gian tự có chúng sinh hủy phạm cấm giới của Phật, giết sinh vật cúng tế, vì ăn thịt nên thiêu đốt núi non, đồng trống làm thương hại chúng sinh, hâm nấu sống chúng sinh dùng lửa đốt cháy... Như những tội nhân này khi sắp mạng chung, thân tâm phiền muộn, mắc đại tiểu tiện chẳng tự kiềm chế, hoặc nóng như nước sôi, hoặc lạnh như băng, liền nghĩ rằng : “ Nếu được vào trong nước rất ấm để tắm gội thì chẳng cũng vui ư ?” Ngục tốt La sát hóa làm kẻ đồng bộc, tay bưng âu nước sôi đi đến chỗ tội nhân. Lòng tội nhân vui mừng, ưa thích âu nước sôi này, đứt hơi mạng chung sinh vào trong vạc nước sôi. Thân thể người ấy mau chóng tan rã chỉ còn lại xương, chỉa sắt cào ra, chó sắt ăn lấy rồi mửa ói ra đất. Tội nhân liền sống trở lại. Ngục tốt lại xua đuổi họ vào trở lại trong vạc. Sợ vạc nóng nên họ vin cây kiếm trèo lên, xương thịt bị cắt lìa rơi vào trong vạc nước sôi. Do tội sát sinh nên một ngày đêm có hằng hà sa số lần chết, hằng hà sa số lần sống. Tội hết, họ mới sinh vào trong loài súc sinh, chỗ lợn, dê, gà, chó mạng ngắn ngủi. Thọ thân như vậy tám ngàn vạn năm, sau khi mạng chung, tội nhân trở lại sinh trong loài người mà phải chịu hai thứ quả báo. Một là nhiều bệnh, hai là thọ mạng ngắn ngủi. Lấy thọ mạng ngắn ngủi và nhiều bệnh làm quyến thuộc qua nhiều kiếp không tính toán được, người đó gặp được bậc thiện tri thức, thọ trì năm giới, hành sáu Ba la mật.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là địa ngục sông tro ? Địa ngục sông tro dài hai trăm do tuần, rộng mười hai do tuần, bên dưới có dao bén, trên bờ có cây gươm, chứa đầy bên trong lửa dữ dày mười hai trượng. Lại có tro tàn che bên trên lửa dày bốn mươi trượng. Thế gian tự có chúng sinh không tàm quí, trộm cắp của cha mẹ, trộm cắp của sư trưởng, trộm cắp của bạn lành, anh em, chị em. Người ngu si như vậy không có tàm quí, chẳng biết ơn nuôi dưỡng, lòng không đền đáp lại, tham lợi muốn được, chẳng biết ương họa, chẳng thuận lời dạy của thầy. Tội báo người này, khi sắp mạng chung, tim bụng đầy hơi, nghẹn thở chẳng liên tục, liền nghĩ rằng : “ Tim ta như bùn, khí đầy trong ngực, được một chút lửa để hơ nóng thân ta thì chẳng cũng sướng lắm ư ?” Ngục tốt La sát đáp ứng ý nghĩ đó, liền đến hóa làm vợ con, tay nâng lò lửa có ít tro phủ lên trên đi đến chỗ tội nhân. Lúc đó lòng tội nhân rất vui mừng. Do vui mừng nên đứt hơi mạng chung, sinh vào trong dòng sông tro. Chỗ các cây gươm có một La sát, tay cầm gươm bén muốn đến gây tổn hại. Người đó sợ hãi chạy vào sông tro, nhấc chân hạ chân, dao đều gây tổn thương cho chân người ấy. Cây gươm mưa xuống toàn dao, dao theo lỗ chân lông mà vào. La sát dùng chĩa móc tim người ấy ra. Người tội ấy đau buồn ngã lăn ra đất mà chết, rồi liền sống trở lại ngay. Do nhân duyên tội trộm cắp sư trưởng, cha mẹ của người đó nên một ngày một đêm 500 ức lần sinh, 500 ức lần chết. Bị đói khát bức bách nên tội nhân há miệng muốn ăn, cây gươm dao xuống theo đầu lưỡi vào bụng mổ bụng cắt tim, ngất đi mà chết. Do đời trước nghe tên Phật, Pháp, Tăng nên sau khi hết tội được sinh vào trong loài người, nghèo cùng hèn hạ. Người ấy giác ngộ đời là vô thường, xuất gia học đạo, gặp lúc đời không Phật thì thành Bích Chi Phật, gặp đời có Phật thì thành A la hán.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là địa ngục rừng gươm ? Địa ngục rừng gươm rộng tám ngàn do tuần, bên trong chứa đầy cây gươm mà trái là hòn sắt nóng. Như cây kiếm này cao hai mươi bốn do tuần. Tự có chúng sinh chẳng hiếu với cha mẹ, chẳng kính sư trưởng, tạo tác nghiệp ác khẩu, không lòng từ ái, dùng dao gậy gia hại người. Tội báo người này khi sắp lâm chung, tim như keo sơn bám chặt vào sự sống, liền nghĩ rằng : “ Tim ta bị trói buộc, đụng việc gì chẳng bỏ như đắm rượu tham sắc. Thân tuy gặp hoạn, tim còn chẳng dứt, nếu được dao bén cắt đứt cái yêu thích này”. Ngục tốt La sát ứng tiếng liền đến hóa làm người hầu, cầm gươm sáng bày nói với tội nhân rằng : “ Tim ngài nhiều tham trước có thể xem kính này !” Khi xem tấm gương đó, tội nhân thấy bên trong có hình dạng gươm bén liền nghĩ rằng : “ Nay thân thể ta gầy yếu chẳng kham nỗi việc ham muốn, nếu được lưỡi gươm bén này cắt đứt tim ta thì chẳng cũng khoái lắm ư ?” Khi tác khởi ý niệm này thì đứt hơi mạng chung thọ thân ngã quỉ, từ trong những cây gươm bỗng nhiên hóa sinh ra. Sinh ra rồi thì hòn sắt nóng từ trên đỉnh đầu vào và theo miệng mà ra, ruột, bao tử cháy đen tan rã, ngã lăn ra đất. Ngục tốt lại dùng chĩa sắt đánh đập xua đuổi chạy lên cây, lên một cây rồi, bị trùng mỏ sắt ăn. Do sợ hãi nên tội nhân nhảy vọt lên cây khác. Như vậy đắp đổi, tội nhân trải qua hết rừng cây kiếm, một ngày một đêm tám vạn lần sinh, tám vạn lần chết. Sau khi hết tội, người đó sinh vào đời đói kém và kiếp dịch bệnh, làm người thấp hèn, miệng luôn hôi thối, mọi người thấy ghét. Qua hết kiếp số, người đó gặp được bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là địa ngục năm trăm ức rừng gai nhọn ? Địa ngục rừng gai nhọn rộng tám ngàn do tuần, bên trong chứa đầy gai nhọn bằng sắt. Đầu mỗi một gai nhọn có mười hai lưỡi kiếm. Trên cây lại có cái kìm lớn bằng sắt nóng. Thế gian tự có chúng sinh ngu si, ác khẩu, lưỡng thiệc, nói thêu dệt, nói bất nghĩa, đùa cợt không tiết chế, lời nói dối gạt thị phi, nói lỗi của kinh điển, hủy báng thầy luận bàn nghĩa lý. Như tội báo này thì lúc sắp mạng chung, tội nhân thấy yết hầu nóng, lưỡi khô, liền nghĩ rằng : “ Nếu được một mũi nhọn bén đâm vào cổ cho chảy máu, khiến cho các mạch máu rót nước mát vào thì cũng chẳng khoái lắm ư ?” Khi tác khởi ý nghĩ này, ngục tốt La sát hóa làm cha mẹ, tay cầm nguyệt châu, đầu viên ngọc sinh ra mũi nhọn, đem cho vào miệng như nước sắp rót. Tội nhân vui mừng nghĩ rằng : “ Sở nguyện của ta nay đã được kết quả”. Nghĩ vậy rồi, đứt hơi mạng chung, nhanh như ánh chớp, người ấy sinh vào rừng gai nhọn. Sau khi đã sinh ra, ngục tốt La sát, tay cầm kìm sắt kéo bật lưỡi tội nhân ra, rồi tám mươi con trâu sắt kéo cái cày sắt lớn cày phá cái lưỡi của tội nhân ấy. Các cây của rừng gai nhọn, có gió thổi lại, đánh đập thân thể người ấy. Một ngày một đêm, người ấy sáu trăm lần sinh ra, sáu trăm lần chết đi. Qua khỏi kiếp nạn đó rồi, về sau được sinh trong loài người thì môi hở, mặt nhăn, lời nói lắp bắp. Như tội nhân này thì thân thể sinh ra các thương tích máu mủ tràn lan, trải qua năm trăm đời, người nhìn thấy gớm ghiếc. Qua hết những việc đó rồi, về sau, tuy có lời nói ra người chẳng tín thọ, nhưng gặp được bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là địa ngục năm trăm ức trụ đồng ? Địa ngục trụ đồng là nơi có một trụ đồng giống như ngọn núi lớn, cao sáu trăm do tuần, bên dưới có lửa mạnh, trên lửa có giường sắt, bên trên giường có bánh xe dao. Ở chỗ các bánh xe dao có trùng mỏ sắt và quạ sắt ở bên cạnh. Thế gian tự có chúng sinh ngu si tham lam mê hoặc nhiều, nhiễm ái cũng lắm, chẳng thanh tịnh, phạm hạnh tà dâm, chẳng phải nơi, chẳng phải lúc làm nghiệp bất tịnh. Giả sử có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Bàlamôn.v.v... Những người phạm hạnh, nếu ở chẳng phải lúc, chẳng phải nơi phạm pháp bất tịnh... cho đến tất cả kẻ phạm tà hạnh, tạo tác nghiệp bất tịnh. Như những tội nhân này khi sắp mạng chung, thì toàn thân cựa quậy rung động mạnh mẽ chẳng định yên giống như cung nỏ chẳng tự kiềm chế được, liền nghĩ rằng : “ Nếu được một cây trụ bằng đồng hay sắt cứng chắc to lớn để trói thân thể này khiến cho chẳng lay động được”. Ngục tốt La sát ngay lúc đó liền đến, hóa làm người sai bảo, tay cầm gậy sắt, đi đến chỗ tội nhân bạch rằng : “ Hôm nay, thân ngài mạnh mẽ còn vật khác đều yếu mềm. Ngài có thể nắm lấy cây gậy này !” Lòng liền vui mừng, đứt hơi mạng chung. Như khoảnh khắc ngắn của cây gậy quay, người ấy sinh vào đầu trụ đồng, lửa mạnh cháy hừng hực thiêu đốt thân người ấy. Tội nhân sợ hãi nhìn xuống thấy trên giường sắt có người con gái đoan chính. Nếu người con gái đó xem ra đoan chính thì nam tâm phát sinh ái trước. Tội nhân từ trên trụ đồng muốn gieo xuống đất thì bị trụ đồng xuyên suốt thân, lưới sắt quấn quanh cổ, các trùng mỏ sắt rỉa ăn thân thể người ấy. Rơi xuống trên giường sắt, cả nam lẫn nữ đều cùng lúc sáu căn bốc lửa. Có con trùng sắt theo mắt mà vào, rồi từ nam căn và nữ căn mà ra. Nếu người làm ô uế giới thì riêng có chín ức những bọn trùng nhỏ như trùng tiếu thư (một thứ nhọt lở đầu ngón chân, ngón tay) có mười hai mỏ, đầu mỏ phát ra lửa, rỉa ăn thân thể người ấy. Quả báo tà dâm này, một ngày một đêm chín trăm ức lần sinh, chín trăm ức lần chết. Thọ hết mới ra khỏi, sinh vào trong loài tu hú, bồ câu. Thọ thân tu hú, bồ câu trải qua năm trăm đời, lại sinh trong loài rồng trải qua năm trăm thân. Về sau, tội nhân sinh trong loài người phải chịu thân hoàng môn (?) không căn, hai căn và căn chẳng định, trải qua năm trăm đời. Giả sử người ấy được làm người thì vợ chẳng trinh tiết tốt lành, con chẳng từ hiếu, nô tỳ chẳng thuận thảo. Sau khi qua khỏi những việc đó rồi, thì người tội ấy gặp được bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là địa ngục năm trăm ức máy sắt ? Địa ngục máy sắt là nơi có một cái giường sắt, ngang dọc bằng nhau bốn trăm do tuần, bên trên đặt những cái bệ, trong bệ đều có hàng vạn ức nỏ sắt mà đầu nỏ nhọn có hàng trăm ức mũi nhọn. Thế gian tự có chúng sinh ngu si, vì tham dục nên chẳng hiếu với cha mẹ, chẳng kính sư trưởng, chẳng vâng thuận lời dạy tốt, giết hại chúng sinh, ăn lộc theo những người gian... Tội báo của người này, khi sắp mạng chung, thân thể chấn động, những sáu lỗ của thân nước tự chảy ra. Như tội nhân này, tự thấy giường của mình như gấm Đâu la, liền sinh ý nghĩ rằng : “ Khi nào được một chỗ bền chắc mát mẻ để an thân nằm ngủ thì chẳng cũng khoái lắm sao ?” Khi khởi ý nghĩ đó thì ngục tốt La sát dùng chỉa nâng giường lên đem bày cái giường nệm lớn đến chỗ tội nhân. Tội nhân thấy rồi, lòng sinh vui mừng, muốn nằm lên giường nệm thì đứt hơi mạng chung sinh lên trên giường sắt vạn ức của bệ sắt từ dưới khởi động, bệ sắt thấp dơ lên, vô lượng nỏ sắt đồng thời đều trương lên, tất cả tên sắt bắn vào tim tội nhân. Một ngày một đêm sáu mươi ức lần sinh, sáu mươi ức lần chết. Như vậy tội nhân chịu hết tội rồi thì sinh vào trong loài súc sinh trải qua năm trăm đời, rồi sinh trở lại trong cõi người làm kẻ bần cùng hạ tiện, bị sự sai khiến của người khác, chịu nhiều hình ngục, luôn bị đánh đập. Qua khỏi những việc đó rồi, về sau gặp bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là địa ngục lưới sắt ? Địa ngục lưới sắt là nơi0 có tám mươi chín lớp những lưới sắt. Trong mỗi một lớp lưới có trăm ức kim sắt. Mỗi một kim sắc thi triển ra năm bệ cửa. Thế gian tự có chúng sinh hư dối tà dâm, dua nịnh, yêu mị mê hoặc người, lòng luôn mê sảng, ngày đêm nghĩ ác, từng sát na, sát na luôn thành tựu ác niệm. Tội báo của người này là khi sắp mạng chung thân thể ngứa ngáy, liền nghĩ rằng : “ Nếu được một cái gai, cây kim hay cái lẹm mà đâm con trùng ghẻ thì chẳng cũng vui lắm ư ?” Khi khởi ý niệm đó thì ngục tốt La sát hóa làm lương y, tay cầm kim báu xướng lên rằng: “Trị bệnh đây !” Tội nhân nghe, lòng vui mừng đứt hơi mạng chung sinh vào vùng lưới sắt. Thân tội nhân rơi xuống thì mọi bệ đều khởi động, vô lượng những kim bắn vào lỗ chân lông. Như vậy, uyển chuyển trong những lưới sắt từng sát na chết, từng sát na sống. Tội hết, người ấy mới sinh vào chỗ biên địa không có Phật pháp, cũng chẳng nghe nói lời thiện của thế gian, huống gì là chính pháp. Tuy họ sinh trong loài người nhưng bị ba đường ác nhiếp lấy. Qua khỏi kiếp số đó thì gặp được bậc thiện tri thức, tuy được nghe pháp nhưng lòng chẳng hiểu rõ.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là địa ngục hang sắt ? Địa ngục hang sắt là pháp khổ tối thượng trong đường ngã quỉ. Có một núi sắt ngang dọc bằng nhau hai mươi lăm do tuần. Trên núi lại có năm trăm vạn ức hòn sắt nóng lớn. Mỗi một hòn sắt tròn xoe đúng mười ba do tuần. Ngọn núi lại có năm ngàn đao kiếm. Lúc đó hướng đông của núi kia mở ra, có một lỗ nhỏ như miệng của Ma Dà Đà to như cái đấu, chỉ phát ra khói đen. Thế gian tự có chúng sinh bị xan tham trói buộc, lòng như Kim cương, chỉ ưa cầu tìm không có chán đủ, cha mẹ vợ con đều chẳng cấp cho, sư trưởng giáo thọ xem như phân dơ, nô tỳ thân hữu chẳng cho ăn mặc. Người keo kiệt như vậy chẳng nghĩ đến vô thường, tiếc giữ của cải giống như tròng mắt. Tội báo người này là khi sắp mạng chung, các tình bế tắc, cấm khẩu chẳng nói, trong lòng lặng nghĩ rằng : “ Sau khi ta chết, những người ác đó ăn của cải của ta như nuốt hòn sắt, ở nhà của ta như ở trong nhà tối !” Nghĩ thế rồi, ngục tốt La sát hóa làm người xan tham giả thâu lấy của cải đem đến chỗ tội nhân, rồi dùng lửa đốt chúng. Lòng tội nhân vui mừng, đứt hơi mạng chung, sinh lên trên núi lửa, giống như trong hang sắt luyện chung với đồng. Đã vào trong hang thì thân thể người ấy bị trùng kiến, trùng đao rỉa ăn. Khói xông mắt người ấy làm họ chẳng thấy lửa cháy, sợ hãi kinh hoàng xô chạy khắp đông tây, đầu va vào núi sắt, những hòn sắt từ trên rơi xuống theo đỉnh đầu mà vào, rồi từ chân mà ra, khoảnh khắc một niệm chết, khoảnh khắc một niệm sống. Tội hết, người ấy mới sinh ra trong loài ngã quỉ. Thân quỉ ấy cao lớn đến mười do tuần mà cổ họng như cây kim, bụng lớn như núi, kiếm ăn khắp nơi mà chỉ có nước đồng rót vào cổ họng. Trải qua tám ngàn năm mới được hết khổ, người ấy lại sinh vào loài quỉ ăn đồ khạc nhổ, quỉ ăn mũ, quỉ ăn máu. Tội hết lại sinh làm thần chuồng xí heo, chó. Tội hết lại sinh làm người nghèo cùng, ti tiện không quần áo, đồ ăn, chỗ ở, rồi gặp bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là địa ngục Thiết hoàn ? Địa ngục Thiết hoàn là nơi rộng tám mươi do tuần, chứa bên trong tám mươi tám ngăn thành sắt. Trong mỗi một ngăn có năm núi đao che phủ bên trên, bên dưới có mười tám con rắn sắt lớn hung dữ. Mỗi con rắn đều lè lưỡi, lưỡi phát ra kiếm sắt. Đầu kiếm có lửa cháy. Thế gian tự có chúng sinh ngu si hủy nhục hạnh Bố thí, cho rằng bố thí không có quả báo, khuyên người tàng trữ. Người ngu si như vậy hướng về quốc vương, đại thần, Samôn, Bàlamôn và tất cả mọi người nói rằng, bố thí không nhân, cũng không quả báo. Như tội nhân này thì lúc sắp mạng chung, cổ cứng, mạch co lại, xoay chuyển chẳng nói lên lời, chẳng ưa thấy người, cúi nhìn mà nằm, trong lòng chỉ nghĩ : “ Ta chứa của báu, của ấy nếu được ở cùng ta thì khoái chẳng thể nói”. Ngục tốt La sát hóa làm vợ người ấy cầm hòn sắt nóng hóa làm đồ quí báu, ở trước người ấy nói rằng : “ Tôi theo ngài chết, đắp đổi có nhau, trọn chẳng lìa nhau !” Người ấy đứt hơi mạng chung sinh vào trong thành sắt, chạy rong khắp nơi, bị con rắn sắt tiết ra độc quấn quanh thân người ấy. Trên đầu bị lửa cháy, người ấy liền nghĩ : “ Nguyện xin trời thương ta tuông xuống mưa ngọt ngào !” Ứng theo ý nghĩ đó, trời mưa xuống những hòn sắt nóng lớn, chúng theo đỉnh đầu mà vào và từ dưới chân mà ra. Hết tội, người ấy mới được làm người nghèo cùng cô độc, câm ngọng. Số năm phải chịu của người đó như số năm của người ở địa ngục hang sắt nói trên. Về sau người ấy gặp bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là địa ngục đá nhọn ? Địa ngục đá nhọn là nơi có hai mươi lăm núi đá. Mỗi một núi đá có tám ao băng (nước đá). Mỗi một ao băng có năm con rồng độc. Thế gian tự có chúng sinh ngu si, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chín mươi lăm những Phạm chí.v.v... họ nhận thức : Pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp. Hoặc họ phạm khinh giới lâu chẳng sám hối, lòng không xấu hổ giống như loài khỉ vượn. Tội báo của người này lúc sắp mạng chung thì dưới tim khí đầy, bụng căng như trống, ăn uống bị ói mữa, nước uống vào chẳng xuống, họ liền nghĩ rằng : “ Như được một viên đá nhọn khai thông yết hầu của ta thì chẳng cũng khoái lắm ư ?” Khi dấy ý niệm đó thì ngục tốt La sát hóa làm vị lương y, giả cầm viên đá nhọn làm hoàn thuốc lớn, đặt vào trong miệng người ấy, bảo rằng : “ Ngậm miệng !”. Người ấy, lòng sinh vui mừng, đứt hơi mạng chung, sinh vào vùng núi đá, vô lượng đá nhọn từ trên lưng mà vào, rồi từ trước ngực mà ra. Ngục tốt lại dùng chỉa sắt đâm vào miệng lấy đá bên trong ra. Một ngày một đêm có đến sáu mươi ức lần chết, sáu mươi ức lần sinh. Đây là sinh báo, từ lúc mạng chung này, tội nhân bị đọa vào địa ngục dây đen (hắc thằng). Địa ngục dây đen là nơi có tám trăm khóa sắt, tám trăm núi sắt, dựng “đại thiết tràng”, hai đầu buộc khóa. Ngục tốt La sát xua đuổi tội nhân bắt cõng núi sắt, chạy trên dây sắt, chẳng đi được rơi xuống đất thì lọt vào trong vạc nước sôi, la sát đuổi dậy, khát quá thì uống nước sắt, nuốt lấy đá mà chạy. Một ngày một đêm trải qua nỗi khổ đó đến mười vạn lần. Tội hết sinh ra đời làm tôi tớ cho người, gặp bậc thiện tri thức vì người ấy nói pháp chân thật thì như vải trắng tốt dễ nhuộm lấy màu, được A la hán với ba minh, sáu thông đủ tám giải thoát.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sao gọi là mười tám địa ngục uống đồng ? Địa ngục uống đồng là nơi có một ngàn hai trăm thứ xe đồng đủ màu. Trên mỗi xe đồng có sáu ngàn viên đồng. Tự có chúng sinh xan tham, tật đố, tà kiến, ác thuyết, chẳng cung cấp cho cha mẹ, vợ con, quyến thuộc và cùng tất cả. Lòng phát sinh xan tham, tật đố, thấy kẻ khác được lợi như tên bắn vào tim. Tội nhân như vậy lúc sắp mạng chung thì nhiều bệnh, gầy còm, hôn mê nói nhảm, trong miệng tự nói, muốn được trái cây để ăn. Khi nói lời đó thì ngục tốt La sát hóa xe đồng thành xe chở đầy trái cây, đi đến chỗ tội nhân. Tội nhân được rồi, lòng sinh vui mừng, liền nghĩ rằng : “ Được những trái ngon này ăn chẳng biết chán, rất thích hợp với ước nguyện của ta”, rồi vui mừng nhảy nhót, đứt hơi mạng chung. Chưa qua bao lâu, tội nhân đã sinh lên trên xe đồng, chẳng lâu liền sinh đến vùng núi đồng, xe đồng chẹt lấy cổ, ngục tốt La sát dùng kìm cạy miệng bắt uống đồng nấu chảy(nước đồng sôi). Uống đồng nước rồi mê muội ngã lăn ra đất, xướng lên rằng: “ Đói ! Đói !” đồng thời ngục tốt tách miệng cho mở ra, rồi dùng hòn đồng, sắt đặt vào trong miệng người ấy, nuốt luôn mười tám hòn, từng đốt từng đốt trên thân lửa bốc cháy. Tội nhân xô chạy khắp đông tây trải qua một ngày mới mạng chung. Ngục tốt xướng lên rằng : “ Thân đời trước của ngươi dua nịnh, tà tà kiến, xan tham, tật đố. Do nhân duyên đó nên phải chịu quả báo thiết hoàn. Hoặc đã từng xuất gia hủy phạm khinh giới lâu chẳng hối lỗi, luống ăn của tín thí. Do nhân duyên này nên phải ăn những hòn sắt”. Tội báo của người này là trải qua hàng ức ngàn vạn năm chẳng biết đến nước uống và lúa gạo. Thọ tội xong rồi trở lại sinh trong cõi người, người ấy suốt trong năm trăm đời nói năng lắp bắp, chẳng tự biện luận rõ ràng. Do tập nhiễm đời trước nên ăn uống đời sau họ phải ăn hòn than và ăn đất cục. Qua khỏi đó về sau, họ gặp bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.
- Hết quyển thứ năm –

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Một trăm truyện tích nhân duyên (Trăm bài kinh Phật)


Kinh Duy-ma-cật (Việt dịch)


Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 2


Gõ cửa thiền

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.137.173.168 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập