Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phước Cái Chánh Hạnh Sở Tập Kinh [福蓋正行所集經] »» Bản Việt dịch quyển số 11 »»

Phước Cái Chánh Hạnh Sở Tập Kinh [福蓋正行所集經] »» Bản Việt dịch quyển số 11


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Phước Cái Chánh Hạnh Sở Tập

Kinh này có 12 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 |
Việt dịch: Thích Như Điển

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Trong này lại còn nói về người phá giới sẽ khó thành tựu được những công đức thiện pháp của các Đức Như Lai; giống như Nữ Vương bị giáng xuống làm người tham lam. Khi đến nhà kia rồi, nói với người chồng rằng: Ta là Nữ Vương, muốn được như ý. Nên đem những hoa hương thơm, đẹp và gồm những đồ anh lạc để trang sức cho thân ta. Tất cả những đồ vật trong kho đều đem ra cung ứng. Nếu được như vậy thì ta sẽ ở đây. Người chồng nghèo mới bảo rằng: Những đồ vật như thế cả nhà nầy đều chẳng có.
Khi Vương Nữ nghe rồi liền mắng nhiếc rằng: Như vậy là quá nghèo, ta phải đi khỏi nơi đây.
Phật dạy: Kẻ phá giới kia lại cũng như vậy; chẳng thể thành tựu được những sự giải thoát thanh tịnh tối thượng như Vương Nữ kia. Lại cũng chẳng được dâng cúng những loại hương thơm Noãn Đảnh Nhẫn. Lại chẳng được hoa Biệt Giải Thoát giới. Cũng chẳng thể cài tóc Thiền Định Giải Thoát. Lại chẳng thể được kho báu của các loại Bồ Đề Phần. Lại cũng chẳng thể thành tựu Trí Vương qua Văn, Tư, Tu. Lại chẳng thể được giác ngộ tối thắng chánh đẳng. Lại chẳng có những quyến thuộc Duyên Giác, Thanh Văn. Kẻ phá giới ấy do chẳng có nghiệp lành; nên khi sanh ra trong đời nầy chẳng có phước đức. Tất cả những người hiền chẳng vui cùng sống chung. Cho nên nói rằng: Người mà không dùng vào đâu được thì vĩnh viễn sẽ mất hết những công đức pháp tài của Như Lai ở quả vị xuất thế gian.
Lúc ấy ở trong hội chúng có Tôn Giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: Vì sao Đức Thế Tôn đối với đệ tử là những người hủy phạm giới cấm đã chẳng dạy dỗ sâu xa những pháp yếu, lại chẳng nhiếp thọ mà còn thấy xua đuổi. Hoặc vì Như Lai chẳng có lòng thương tưởng đến ?
Phật bảo Ngài A Nan rằng: Ta đối với tất cả chúng sanh ở trong thế gian đều bình đẳng thương yêu để nói pháp, tâm chẳng giữ lại một chút gì. Do người kia không phải là chỗ có thể gánh vác được. Cho nên chẳng thể nói. Kẻ trí nói pháp cho những người không đáng như thế ở thế gian này thì đối với chúng sanh lại có tướng sai khác. Nếu có việc sai khác thì chẳng nên tuyên nói, như cần đến một đồ vật mà chẳng thể dùng được. Như có một ông vua làm lễ bố thí lớn rồi mời các vị Sa Môn, Bà La Môn v.v... đến để cung cấp những đồ vật; nhưng có Bà La Môn từ phương khác đến đứng trước vua và xin thêm nhiều thức ăn. Vua nghe qua rồi tất chẳng vừa ý. Nhưng lúc ấy có vị cận thần thay vua bố thí cho Bà La Môn kia vừa ý. Vua đến nói rằng: Kẻ nầy vô đức cho nên đừng có cho. Phật dạy A Nan. Ta cũng như vậy. Do kẻ phá giới kia chẳng phải là pháp thí; cho nên chẳng nên nói. Giả sử vì kẻ kia mà nói thì kẻ ấy cũng chẳng lãnh thọ; như cái bình có lỗ; chẳng thể chứa nước được. Khiến cho cả ngày lẫn đêm đều rỉ nước. Tìm ra mới thấy chỗ lủng. Kẻ phá giới kia lại chẳng thể nhận được pháp công đức.
Lại cũng như vậy. Giả sử như có sai phạm một ít giới cấm thì người nầy đối với những phần giác ngộ và những loại pháp bảo cũng chẳng thể thành tựu biện tài. Nên biết người nầy dẫu cho có giữ tịnh giới thì cũng chẳng tròn đầy. Chẳng thể tăng trưởng. Từ đó giới hạnh cũng chẳng thể tăng thêm. Đối với pháp giải thoát cũng lại chẳng thể tăng trưởng; đối với pháp giải thoát, lại chẳng thể tăng trưởng. Người kia sẽ nhận được con đường chẳng yên tĩnh chút nào. Có thể kẻ kia cũng chứng được con đường giải thoát tương tợ. Đối với giới pháp kiên trì chẳng phạm, thì người nầy đối với các phần giác ngộ, các pháp tài; mỗi mỗi được nhập vào chỗ rõ biết. Như lý suy nghĩ, ở được chỗ yên. Nầy các Tỳ Kheo! Đối với kinh điển nầy thường vui thọ trì, vì người khác mà diễn nói công đức của thí, giới, sẽ được thành phước cái.
Nếu những Tỳ Kheo ở nơi chánh tư duy, gần gũi bạn hữu vui nghe chánh pháp thì có thể trừ được những buồn lo giận hờn của thế gian và những ác pháp kia chẳng thể sanh khởi; giống như dập ngọn lửa tắt, khiến chẳng còn nữa. Nếu những Tỳ Kheo trụ ở sự suy nghĩ không đúng đắn, dẫn đến sự buông lung, làm cho tâm trí loạn thì tức là chỉ nhiếp thủ nhơn duyên của năm món dục, làm cho các loài hữu tình sanh nơi phiền não, quyết định sẽ mất đi những pháp công đức. Giống như sấm chớp bất thường làm hư lúa thóc. Có thể mang đến cho thế gian nầy nhiều loại tai nạn. Thường nhớ đến việc dối trá chẳng có sự xấu hổ. Đối với người bạch y thì hủy báng khinh khi. Kẻ phi pháp như vậy thì ý chí rất yếu kém. Đối với quả vị thanh tịnh tốt đẹp của Sa Môn thì tâm chẳng hy vọng vui vẻ. Đối với pháp cam lồ của các Đức Như Lai thì chẳng thể uống được. Vui tạo các việc ác, cầu vào con đường nguy hiểm, lãnh lấy địa ngục ngạ quỷ, súc sanh, ở xứ thật ác và khổ. Lấy đó làm chỗ nương tựa chở che. Đối với lời Phật dạy thì tâm chẳng tin tưởng. Tuy chỉ phạm giới nhỏ mà còn thọ những quả báo kịch liệt như thế, hà huống là tạo tác những nghiệp ác to lớn hơn. Khi cảm quả đến thì cái khổ khó lường, như trong kinh Y La Diệp Long Vương Nhơn Duyên đã nói.
Ta nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại thành Phược La Noa, trong rừng Thí Lộc; nơi Chư Thiên Đọa Xứ (varanasi) ở trong đại chúng tuyên nói pháp yếu. Lúc ấy Y La Diệp Long Vương rõ biết Đức Phật ở tại nơi đó thuyết pháp; nên phát tâm thanh tịnh, muốn đến chỗ Phật để gần gũi cúng dường; liền suy nghĩ rằng: Ta thuộc thân rồng; có nhiều kẻ chẳng ưa; nếu mà mang thân nầy đến tất sẽ bị tổn hại. Nên đã biến thân nầy làm thân Chuyển Luân Vương, tướng mạo rất đẹp đẽ, oai đức tự tại. Những loại anh lạc quý giá đem cài vào thân và ngồi dưới lọng báu, đoạn lên xe để đến. Có 7.000 Thiên Tử, trong ngoài đầy khắp. Lại có đến 90 Cu Ti quân hầu, trước sau hộ tống. Lại có trăm ngàn ngoại đạo Phạm Chí, Bà La Môn v.v... Những người đi xin ăn cũng cùng theo sau, uy thần oai vệ, giống như Thiên Đế Thích rồi vội vã đến nơi pháp hội của Như Lai.
Lúc ấy Đức Thế Tôn cùng với Tứ Chúng Thiên Long Dược Xoa Càn Thát Bà v.v... cung kính vây quanh để nghe Ngài thuyết pháp. Thời trong chúng hội kia thấy có việc lạ, sanh ra nghi ngờ nên đến trước Đức Thế Tôn để hỏi về vị vua nầy cũng như uy đức v.v... Phật bảo đại chúng rằng: Đây không phải là vua cõi người hãy chờ chốc lát, tự nhiên sẽ rõ. Lúc ấy Long Vương liền đến chỗ Phật cúi đầu lễ chân Phật rồi ngồi qua một bên.
Phật bảo: Nầy Long Vương! Ngươi từ xưa do ngu si mà thọ báo thân nầy, lại có nhân duyên gì mà đi đến đây? Nên mau mau lìa khỏi nơi nầy, xả bỏ và hiện thân lại hình cũ, thì mới có thể đến lại nơi đây. Bày tỏ trong chúng hội, lúc ấy Long Vương bạch rằng:
Kính bạch Đức Thế Tôn! Con mang thân rồng, có nhiều người oán ghét; nếu mà gặp tướng ấy thì nhất định sẽ có tai nạn. Do vậy cho nên con biến hóa ra.
Lúc ấy Đức Phật nghe xong rồi liền bảo cho Kim Cang Thủ Đại Dược Xoa Thần vì con rồng kia đem đi nơi khác được an ổn. Sau đó hiện nguyên hình, thân thật dài, xấu xí khô khan, gồm đủ loại tướng ác, do nhiều việc tích tập thành là do ở nghiệp trước; nên có đến 7 cái đầu; mỗi mỗi chồng lên cái đầu chính và ở nơi cây Y La. Do nơi cây nầy khi lay động khô héo thì máu mủ chảy ra thật là hôi thối và đến ăn vô số côn trùng nơi ấy. Khi đã hiện nguyên hình rồi lại đến chỗ Phật. Cái đầu của con rồng nầy thì ở thành Phược La Noa; còn cái đuôi thì ở tận nước Đát Xoa Thi La. Lúc ấy đại chúng kẻ lâu lìa lòng tham thấy việc ác nầy liền sanh kinh sợ mới nghĩ rằng: Loài hữu tình nầy do cảm báo gì mà sanh ra như vậy để đến đây ?
Phật bảo đại chúng rằng: Con rồng nầy biến thành thân Chuyển Luân Vương đã đến đây và ta đã bảo đi nơi khác để hiện lại nguyên hình.
Lúc ấy các vị Sa Môn nghe Phật dạy rồi thật là áo não, yên lặng ngồi đó. Lúc đó vua rồng Y La Diệp liền làm thân rồng khóc lóc bạch Phật.
Duy nguyện Thế Tôn! Lòng từ lân mẫn thọ ký cho con lúc nào được thoát khỏi thân ác thú nầy.
Phật bào: Long Vương! Nay ta vì ngươi mà nói. Hãy lắng lòng nghe để tin tưởng. Về thời vị lai khi chúng sanh có thọ mạng 80.000 tuổi thì có một vị Phật ra đời tên là Từ Thị. Phật kia sẽ thọ ký cho ngươi trong thời gian để thoát khỏi thân rồng.
Lúc ấy Long Vương nghe Phật nói rồi liền cất tiếng khóc, nước mắt chảy như suối. Phật dùng lòng đại từ mà nói lời lành an ủi rằng: Ngươi phải tự biết! Đừng thêm buồn khổ. Nay ở trong hội chúng nầy khó có thể ở nơi xa xôi. Lúc ấy Long Vương sâu tự trách mình về nghiệp ác của hắn; chẳng có ai giống vậy. Nguyện nhờ Phật lực làm cho qua được khỏi sự khổ nầy. Rồi phát lời thệ nguyện rằng: Từ đây về sau, cho đến tận đời vị lai, tâm không suy nghĩ việc tà, chẳng sanh buông lung; cho đến trùng kiến cũng chẳng sát hại. Khi nói lời ấy rồi, đảnh lễ dưới chân Đức Phật và chẳng hiện ra giữa chúng hội nữa.
Lúc ấy Ngài A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy nhứt tâm chắp tay và hỏi Đức Như Lai về việc Long Vương kia. Do trước đây tạo ra tội gì mà bị đọa làm rồng ? Lại còn do nghiệp gì mà có 7 cái đầu và mỗi cái lại chồng lên trên ? Lại có cây Y La khi giao động sanh ra đau đớn khổ sở và máu mủ chảy ra vậy ? Duy nguyện Đức Như Lai hãy vì chúng con nói về nhơn duyên nầy để làm rõ những tội phạm kia.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn giải thích cho Ngài A Nan rằng: Ở một tiền kiếp trong quá khứ xa xăm nọ, khi thọ mạng của chúng sanh 20.000 tuổi có một vị Phật ra đời tên là Ca Nhiếp Ba Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Lúc ấy Long Vương đối với Phật Pháp đã xuất gia tu hành làm Tam Tạng Tỳ Kheo, xa rời phiền não, tu hạnh viễn ly, ở nơi yên lặng. Tập Xa Ma Tha cho đến khi xuất định. Khi ngày qua rồi, liền vào trong làng để hành hạnh khất thực; lúc được lúc không. Cũng có người chửi mắng nên sanh phiền não và đi ra khỏi làng cho đến một A Lan Nhã nọ; cho đến 4 nơi, lại đến lại đi. Lúc ấy Phật kia biết việc nầy rồi nên mới quở vị Tỳ Kheo kia và vì đó mà nói giới tướng, để làm cho kia sám hối tạ lỗi; nhưng vì kia chẳng tin nhận thọ lãnh mà nói lời rằng: Vật vô tình ấy đâu có chuyện gì. Do 2 nhơn duyên ấy mà thọ những sự khổ báo. Trải qua việc khất thực, sanh vào trong loài rồng là do sự chẳng tin tưởng vậy. Rồi sanh ra dưới cây Y La.
Đức Phật bảo các vị Tỳ Kheo rằng: Y La Diệp Long Vương kia do tạo nhơn ác ít mà bây giờ thọ khổ nhiều là do tự tạo ra nhơn nầy và tự thọ quả báo nầy. Chẳng phải ngoài đất, nước, lửa, gió mà có thể gọi mời vào. Tất cả đều do nội tâm tạo thành.
Nếu những chúng hữu tình cứu cánh tạo niềm vui thì chẳng có nghiệp đen tối. Ở trong cõi ác ấy nhứt định thọ những khổ báo. Nếu các loài hữu tình cứu cánh tạo những niềm vui thì sự nghiệp thanh tịnh trong suốt. Ở trong cõi Trời Người nhứt định sẽ thọ quả báo vui. Nếu các loài hữu tình chỗ tạo nghiệp thiện ác giống nhau thì sẽ thọ quả báo hỗn tạp. Cho nên các Tỳ Kheo! Đối với nghiệp đen rốt ráo đừng tạo. Đối với nghiệp trắng thì quyết định nên tạo tác. Quả báo khi đến rồi, giống như dòng thác. Thiện ác nghiệp ảnh hưởng chẳng sai khác, như bài kệ tụng sau đây:
Trải qua vô lượng kiếp
Nghiệp kia chẳng thể hoại
Quả báo chín muồi rồi
Chúng sanh quyết định thọ
Phật bảo rằng: Nầy các Tỳ Kheo! Hãy nương nơi lời của Phật để suy nghĩ như lý. Đối với những giới cấm chẳng nên phạm dầu là một ít. Cho nên nay ta nói phân biệt rõ ràng về sự hủy báng giới pháp sai quấy, để làm cho các loài hữu tình thấy cho rõ mà sanh ra sợ hãi, vĩnh viễn xa rời đường ác; siêng tu những việc lành. Nầy các Tỳ Kheo! Đối với kinh điển nầy nên vì người khác diễn nói để thành tựu phước ái.
Lúc ấy trong chúng hội Tôn Giả A Nan bạch rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Đây là việc giữ giới tướng, làm sao có thể rõ biết hết được ?
Phật bảo A Nan rằng: Muốn vào trong pháp của Phật, trước phải giữ 5 giới. Nghĩa là không sát sanh, lìa sự trộm cắp, xa rời việc tà hạnh, đoạn trừ hư ngôn vọng ngữ và không uống rượu buông lung. Những hành tướng như vậy mỗi mỗi nên rõ biết. A Nan! Ở tất cả mọi nơi, mọi lúc, thành ấp tụ lạc. Nếu có những thiện nam, thiện nữ thanh tịnh nương vào những pháp lành, vui trì tịnh giới, phát sanh tâm thanh tịnh thì đối với 5 giới phải nên giữ gìn chu đáo và phụng trì.
Nhưng trong kinh Tạo Tác Phước Nghiệp có nói vì sao mà những người giữ giới được thành tựu những phước đức ? - Nếu có người hay vì tất cả các loài hữu tình chẳng làm việc giết hại, thì người nầy được gọi là kẻ giữ giới không sát sanh. Còn kẻ sát sanh là từ lúc khởi lên tâm ban đầu quyết định sẽ giết hại một mạng nào đó; hoặc bảo người khác giết và khởi tâm đốc thúc vào để giết hại mạng của kẻ kia làm mất đi hẳn thì người nầy gọi là tội sát sanh.
Nếu đối với tài sản của kẻ khác mà chẳng lấy thì người nầy được gọi là kẻ giữ giới không trộm cướp. Nghĩa là vật của người kia chẳng giữ lấy. Còn tự mình lấy hay quên người kia rồi giấu đi; cho đến từ đầu khởi lên tâm hành động trộm lấy vật ấy. Người nầy gọi là tội ăm trộm
Nếu người hay lìa tất cả những dục nhiễm; hoặc đối với sắc đẹp kia chẳng sanh tâm xâm phạm thì người nầy gọi là giữ giới không dâm. Còn kẻ có tâm tà dục, không phải là người trong thân tộc thì bán gả đi xa, rồi sanh ra nhiễm dục. Tất cả chẳng nên qua lại; hoặc thân quyến kia thường gìn giữ rồi xảo ngôn tạo ra phương tiện giả dối, cho châu báu hay kia bị gặp nạn rồi sanh tâm cưỡng bách. Khi khởi tâm như vậy cho đến tạo tác, thì người nầy được gọi là tội tà dục.
Còn người hay lìa nói việc hư vọng, ăn nói thành thật. Tâm, miệng chẳng sai nhau. Người nầy được gọi là người giữ giới không nói dối. Vọng ngữ có nghĩa là thấy thì nói không thấy, chẳng thật thì nói có thật. Trong luật có nói rằng: Có một vị Tỳ Kheo tự đến nơi xa kia; hoặc có kẻ hỏi có thấy người nầy không? Ông ta đã có thấy; nhưng đáp rằng: Không thấy. Những loại như vậy gọi là tội nói dối.
Nếu người đối với rượu, giữ giới chẳng uống và ngay cả mùi lại cũng chẳng muốn ngửi. Người nầy được gọi là giữ giới không uống rượu. Rượu có 3 loại. Một là Tô La nghĩa là lấy gạo tạo thành. Thứ hai là Mai Lý; chỉ dùng trái cây hoặc hoa la v.v... lấy nước để tạo thành. Hai loại rượu nầy cả màu sắc và mùi vị khi nghe bay mùi đều muốn uống. Khi uống rồi thì mê say sanh ra buông lung. Loại thứ ba gọi là Ma Ninh. Ở đây lượt bớt chẳng nói hết. Đây là 3 loại rượu. Nếu người vui uống thì người nầy được gọi là mắc tội uống rượu. Lại như trong kinh Nan Nỉ Ca nói rằng: Kẻ uống rượu Ma Ninh chẳng nên tạo tác. Còn những Tỳ Kheo đã uống rồi thì sẽ sinh ra sự buông lung, tổn phí tài sản, bao nhiêu cũng chẳng đủ. Tăng thêm sự sân si; hoặc lại đánh nhau, gia tăng thêm những lời ác; khiến nhiều người cãi vả; nhiều khi mất cả quần áo, lõa lồ chẳng hề xấu hổ, tiếng xấu để đời, người lành xa lánh. Chẳng còn muốn tụng đọc kinh điển Đại Thừa nữa; giảm tổn trí tuệ, tăng trưởng vô minh; chẳng kính tin Tam Bảo, cha mẹ tông thân. Đối với trong gia tộc chẳng có tôn trọng. Phá giới như vậy là do uống một trong 3 loại rượu như trên; nên mới sanh ra những chuyện sai quấy như vậy. Cho nên phải rõ, đối với việc sát sanh v.v... chẳng nên tạo tác, mà hãy nên xa lìa.
Phước Cái Chánh Hạnh Sở Tập Kinh
Hết quyển 11

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 12 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Chuyện Vãng Sanh - Tập 3


Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa


Chuyển họa thành phúc


Kinh Duy-ma-cật (Hán-Việt)

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.118.122.46 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập