Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Phương Quảng Như Lai Bí Mật Tạng Kinh [大方廣如來祕密藏經] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Đại Phương Quảng Như Lai Bí Mật Tạng Kinh [大方廣如來祕密藏經] »» Bản Việt dịch quyển số 2


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.4 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.49 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Đại Phương Quảng Như Lai Bí Mật Tạng

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | Quyển cuối
Việt dịch: Thích Nữ Thuần Hạnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Thiện nam tử! Có bốn pháp chướng ngại, Bồ tát phải nên biết rõ :
1- Hủy báng chánh pháp.
2- Bỏn xẻn về giáo pháp.
3- Ôm lòng tăng thượng mạn.
4- Tu định vô sắc.
Đây là bốn. Phật thuyết kệ :
Có bốn điều chướng ngại
Tổn hại tâm Bồ đề
Bồ tát cần phải biết
Nên xa lìa chúng gấp
Đối chánh pháp hủy báng
Học rộng mà không dạy
Tăng thượng mạn, cống cao
Nhập thiền định bất thiện
Nên hộ trì chánh pháp
Học rồi phải truyền dạy
Bỏ kiêu mạn, cống cao
Xa thiền định, bất thiện.
Thiện nam tử! Bồ tát có bốn pháp cần phải mau chóng hành động :
1- Phải dùng sự hiểu biết để hành động chớ không dùng tâm kiêu mạn.
2- Có căn lành thì đem hồi hướng đạo Bồ đề không nên hướng đến hạ thừa.
3- Đối với các cõi không sanh tâm nhiễm trước. Nếu có sanh tâm nhiễm trước thì phải một lòng vì hóa độ chúng sanh ở đó.
4- Ngày đêm ba thời luôn luôn tu ba phần. Diệt trừ tội lỗi, ác nghiệp chưa đến không làm.
Đây là bốn. Phật thuyết kệ :
Dùng trí hành động, không dùng mạn
Hồi hướng vô thượng, không hạ thừa
Người trí không tin, nơi các hữu
Phát tâm lợi ích cho chúng sanh
Ngày đêm ba thời cũng như vậy
Ba phần hối lỗi diệt ác trược
Không làm điều ác tu việc thiện
Người trí nên tu thiện nghiệp này.
Thiện nam tử! Bồ tát có bốn pháp rất hoàn hảo.
1- Không tự khen mình.
2- Không khinh hủy người.
3- Xa lìa điều ác.
4- Diệt trừ các mạn.
Đây là bốn. Phật thuyết kệ :
Không tự khen mình, chẳng khinh người
Điều ác đã làm nguyện sám hối.
Không sanh kiêu mạn và tà mạn
Giữ tâm đoan chánh tu hạnh lành.
Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp mau chóng làm đoan nghiêm chơn chánh :
1- Nếu có ai hỏi điều gì thì như thật đáp.
2- Trước đã thấy điều gì thì không nên che giấu. Đây là hai. Phật thuyết kệ :
Trả lời theo câu hỏi
Không dấu điều đã thấy
Thà xả bỏ thân mạng
Không nói lời vọng ngữ
Chơn chánh nơi pháp này
Đây là gốc hiền thiện
Người ấy được chơn chất
Mau hiểu đạo Bồ đề.
Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp không có nịnh hót dối trá :
1- Tuy được nhiều lợi dưỡng hơn nhưng không muốn ca ngợi phước đức của mình.
2- Không được lợi dưỡng cũng không nên tự đề cao mình.
Đây là hai. Phật thuyết kệ :
Tuy được nhiều lợi dưỡng
Không tự thị phước đức
Người trí không ham muốn
Không nịnh hót để được
Giả sử không lợi dưỡng
Đây là nghiệp của mình
Không muốn hơn người khác
Để nghiệp kia thuần thục.
Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp không mong cầu người khác đền đáp :
1- Ta phải vì lợi ích cho chúng sanh chứ không bao giờ để cho chúng sanh làm lợi ích cho mình.
2- Ta cần phải hiểu biết, chỉ vì để giác ngộ.
Đây là hai. Phật thuyết kệ :
Nên lợi ích chúng sanh
Gánh vác cho mọi người
Ta cầu đạo vô vi
Không trông mong người khác
Không cầu pháp hữu vi
Chỉ cầu đạo vô vi
Ta hộ trì thế gian
Chẳng mong được đền đáp.
Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp, việc không nên làm cần phải làm :
1- Đối với người không biết ân nghĩa nhưng vẫn thường giúp đỡ.
2- Đối với người biết ân nghĩa càng gánh vác trọng trách.
Đây là hai. Phật thuyết kệ :
Chúng sanh không biết ân
Không mong cầu đền đáp
Các ấm, giới và nhập
Đều làm vì Bồ đề.
Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp, nên đến những chỗ này :
1- Thường diện kiến chư Phật.
2- Thường gặp chư Bồ tát.
Đây là hai. Phật thuyết kệ :
Hai chỗ thường nên gặp
Làm tăng trưởng chủng tánh
Thường gặp chư Như Lai
Bậc Bồ tát, tri thức.
Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp không nên tu:
1- Không cùng người tu hạnh Thanh Văn đồng ở chung.
2- Không sợ hãi những chỗ độc hại nhưng yên tỉnh.
Đây là hai. Phật thuyết kệ :
Không cùng ở chung với
Người tu hạnh Thanh Văn
Các nơi đều không sợ
Miễn sao được tịch tỉnh.
Thiện nam tử! Đây gọi là mới nhập vào pháp căn bản Như Lai Mật Tạng. Bồ tát nào nếu nhập vào sơ pháp căn bản này thì Bồ tát đó thành tựu được pháp Như Lai Bí Mật Tạng.
Khi Thế Tôn thuyết nhập vào sơ pháp Như Lai Mật Tạng này, sáu vạn chúng sanh trời, người đều phát tâm Vô Thượng Chánh Chơn, mười ngàn Bồ tát đắc pháp Vô sanh nhẫn. Năm trăm Tỳ kheo không nhiễm thọ các pháp, vĩnh viễn dứt trừ các lậu hoặc, tâm được giải thoát. Khi ấy, ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách, hào quang chiếu khắp, âm nhạc trời không đánh tự kêu. Trời, người, A tu la.v.v... đồng thanh xướng lên ba lần như vầy “Chúng sanh nào được nghe pháp Như Lai Mật Tạng chắc chắn được lợi ích an lạc. Nếu có ai viết chép, thọ trì, đọc tụng, tu hành đúng như lời thuyết thì các chúng sanh này sẽ không mất pháp Như Lai Bí Mật Tạng”.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương nghe pháp Như Lai Mật Tạng này bèn suy nghĩ : “Ta nên dùng pháp gì để cúng dường đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri”. Rồi lại nghĩ tiếp : “Vật ở ngoài dễ bỏ, vật bên trong khó xả. Ta nên dùng thân để cúng dường Như Lai Thế Tôn”. Liền bay lên hư không thuyết kệ :
Con xin dùng thân này
Cúng dường đấng Biến Giác
Dùng pháp xả Vô Thượng
Nguyện như bậc Đạo sư
Cúng dường Lưỡng Túc Tôn
Việc này không gì khó
Thế nào là hy hữu
Đó là thân cúng dường
Con cúng bậc Vô Đẳng
Dâng thân bậc Từ Nhãn
Vì trời người cúng dường
Như Đại trí Sư Tử.
Bấy giờ, Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương liền phóng thân đến chỗ Như Lai. Nhờ thần lực của Phật nên có hoa kỳ lạ với màu sắc đặc biệt khác lạ chưa từng thấy rất là đẹp, rực rỡ, trang nghiêm thanh tịnh rải trên Như Lai. Thân Bồ tát này không rơi xuống đất cũng không hiện ở hư không. Các loại hoa này bay đến trên thân Phật, tức khắc trở về trụ trong hư không biến thành tràng hoa lớn phủ khắp bốn thiên hạ. Trong tràng hoa này có loại hoa treo lủng lẳng, có hoa xâu thành dây đều phát ra ánh sáng lớn. Trong hào quang này lại hiện ra hoa sen tươi đẹp. Trên hoa sen các Bồ tát ngồi giống như Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương. Bồ tát này từ trên hoa bước xuống, đảnh lễ sát chân Phật, đồng thanh cất lời thỉnh cầu : “Cúi xin đức Thế Tôn thuyết pháp Như Lai Bí Mật Tạng khiến cho chánh pháp không bị đoạn tuyệt và giữ gìn quyến thuộc Như Lai Mật Tạng”.
Bấy giờ, Đại đức Ca Diếp sanh tâm hoan hỷ ca ngợi điều chưa từng có và bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương dùng thân trang nghiêm cúng dường Như Lai. Đã dùng thân cúng dường Như Lai rồi, Bồ tát lại thị hiện các điều trang nghiêm. Bạch Thế Tôn! Cúi xin ngài làm cho tất cả chúng sanh đươc thân trang nghiêm như vậy. Nguyện cầu Như Lai thường trụ ở đời. Bạch Thế Tôn! Chúng con rất sung sướng được lợi ích lớn mới thấy Đại Trượng Phu và được nghe thuyết pháp.
Phật dạy Đại Ca Diếp :
- Thầy thấy Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương không?
- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy!
Phật dạy :
- Ca Diếp! Thiện nam tử này đã ở hằng hà sa số chư Phật thường xuyên cung thỉnh luận bàn pháp Như Lai Bí Mật Tạng ở chỗ chư Phật hiền kiếp cũng sẽ thỉnh vấn pháp Như Lai Bí Mật Tạng như vậy.
Đại Ca Diếp bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Lành thay! Thế Tôn! Cúi xin ngài trình bày diễn thuyết pháp Như Lai Bí Mật Tạng như Bồ tát này đã cung thỉnh vậy.
Phật dạy Đại Ca Diếp :
- Thầy hãy chú ý lắng nghe một ít phần giáo pháp Như Lai Mật Tạng. Vì sao? Vì nếu ở trong một kiếp mà thuyết hết pháp này thì không thể hết được.
Ca Diếp bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy.
Ca Diếp và đại chúng đều thọ giáo lắng nghe. Phật dạy :
- Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Thầy cho rằng khi ta hành đạo Bồ tát, xả bỏ tay, chân, đầu, mắt, mũi, lưỡi, da, thịt, xương, tủy, máu mủ, vợ con cho đến tất cả tài sản. Nơi nào chốn nào Bồ tát cũng bị bức não. Các chúng sanh này không đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ và các đường ác. Vì sao? Vì chí nguyện của Bồ tát vốn thanh tịnh và đại thệ nguyện thanh tịnh, đầy đủ giới thể, nên đối với chúng sanh chỉ thuần nhất với tâm đại bi và lòng nhẫn nhục. Vì dùng lòng đại từ, đại công đức, kiên cường tinh tấn nhất định hướng đến đại thừa tự tâm thanh tịnh, đại nguyện rộng rãi, không chỉ tự vui. Các chúng sanh nào có xúc não hủy nhục Bồ tát thì nhờ ân đức của Bồ tát vẫn không đọa vào đường ác.
Ca Diếp! Ta dẫn một ví dụ để thầy hiểu rõ nghĩa này. Ví như có người bị bệnh đến lương y cho thuốc nhưng người bịnh này lại chê bai thuốc và vị lương y. Trước thì chê bai thuốc sau lại dùng thuốc. Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Thuốc bị chê bai nên không là thuốc chăng? Bệnh không chữa được chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không phải! Tuy bị chê bai nhưng dược tính của thuốc không mất, nên có thể chữa lành bệnh được.
- Đúng vậy! Ca Diếp! Bồ tát cũng giống như thuốc và vị lương y kia. Tuy không được cung kính và bị xúc não nhưng Bồ tát này vẫn thuần thanh tịnh, ý chí không bị khuyết giảm, giống như châu báu được thành tựu là do tánh chất của nó đã được gạn lọc trong sạch, không có vết bẩn. Nên có người chê bai không cung kính châu báu. Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Châu báu này bị chê bai có mất năng lực quý báu không?
- Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy :
- Ca Diếp! Châu báu trong sạch này giống như ý chí thanh tịnh của Bồ tát kia vậy. Tất cả chúng sanh tuy không cung kính nhưng công đức không bị tổn giảm. Giống như đèn dầu lớn, nếu có người phá hoại nó có bị tối đen đi không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Ca Diếp! Ý chí của Bồ tát thanh tịnh cũng như vậy. Tuy bị xúc não nhưng không mất đặc tánh ấy. Ca Diếp! Do điều này nên biết chúng sanh tuy có quấy nhiễu Bồ tát nhưng không bị rơi vào đường ác. Vì sao vậy? Vì do bổn nguyện của Bồ tát thanh tịnh, nên sở nguyện được thành tựu.
- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu ý nghĩa Phật dạy thì nếu ai khởi lên nghiệp bất thiện đối với Như Lai thì chúng sanh đó cũng không sợ rơi vào đường ác.
- Đúng vậy! Ca Diếp! Nếu có chúng sanh nào đối với lòng đại bi của Như Lai, sanh lòng tin tưởng cung kính, tinh tấn thâm nhập. Nếu Phật ở hiện tại hay sau khi Phật diệt độ, hoặc có cúng dường Như Lai và tháp, hoặc đem cờ đèn, tràng hoa, hương thơm, vật báu, y phục và thức ăn uống. Tùy theo vật dụng ở mỗi nơi hoặc lấy, hoặc ăn, hoặc tự mình lấy hay bảo người lấy. Ca Diếp! Ta nói người này không có phạm tội. Ca Diếp! Bần cùng là điều khổ nhất. Vì không biết cung kính nên làm việc cướp đoạt, không biết sợ hãi. Không tin tưởng cung kính nên không hiểu gì về nghiệp, không lo sợ quả báo. Vì lòng tham cầu nên khó điều phục. Nhiều tham, sân, si không có tàm quí, hung dữ, ngang tàn, ác độc, không suy nghĩ Như Lai có lòng đại từ bi, không tin Như Lai làm nhiều lợi ích cho chúng sanh, nên lấy vật trong tháp Như Lai cho đến dùng đủ mánh khóe hoặc tự mình lấy hoặc bảo người lấy. Ta nói người này không phạm tội nhỏ nào. Ta nói người kia không rơi vào đường ác. Ca Diếp! Nếu chúng sanh nào đối với vật của Như Lai và vật cúng tháp Phật, mà tự lấy hay bảo người lấy. Như Lai ắt biết người ấy thấy được người ấy sẽ rơi vào cõi ác. Lại dùng lý do này nên đoạn trừ kiết sử. Vì sao? Vì tâm hành của người này vì muốn ủng hộ Phật. Ca Diếp! Nếu đối với Như Lai hoặc tháp Như Lai, sanh tâm nhớ nghĩ cho đến khởi lên một chút lòng hối cải. Ca Diếp! Tâm chúng sanh này sẽ tự hối cải. Vì sanh tâm sám hối đối với Như Lai nên họ lìa khỏi tất cả tội lỗi sanh tử, kiết sử được bào mòn. Ca Diếp! Ví như có người rớt xuống mặt đất. Rớt xuống đất rồi lại dựa vào đất mà đứng dậy được. Cũng vậy, Ca Diếp! Chúng sanh nào đối với Như Lai sanh tâm bất thiện rơi ngay vào đường ác. Đã rớt xuống đường ác rồi lại nhờ ân đức Như Lai mau chóng được thoát khỏi tai nạn ấy. Vì sao gọi là nhờ ân đức Như Lai. Vì họ đã sanh trọng ân đối với Như Lai.
Bấy giờ, Đại Ca Diếp bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Người này dùng tâm xấu ác như vậy mà có thể sanh tâm nhớ nghĩ đến Như Lai được lợi ích lớn, huống chi người có tâm thanh tịnh.
Phật dạy :
- Ca Diếp! Đúng như lời thầy nói! Nếu có chúng sanh nào khởi niệm Như Lai, nhớ nghĩ đến Như Lai, quán tưởng Như Lai, thì tất cả đều sẽ chứng quả Niết bàn.
- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu lời Phật dạy là thà khởi nghiệp bất thiện đối với Như Lai còn hơn làm việc cúng dường theo cách bố thí của tà kiến ngoại đạo. Vì sao? Vì nếu khởi nghiệp bất thiện với Như Lai còn có thể sám hối, cuối cùng chắc chắn đến Niết Bàn. Còn theo tà kiến ngoại đạo sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.
Ca Diếp! Đúng như lời thầy nói! Giả sử có người mạ nhục, muốn trừ khử hương chiên đàn nên dùng tay cào đánh cho nó rớt xuống đất. Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Người như vậy, còn có hương gì không?
- Bạch Thế Tôn! Người đó vẫn còn hương chiên đàn.
- Đúng vậy! Ca Diếp! Nếu có chúng sanh nào dùng mắt thấy, tai nghe và miệng ca ngợi Như Lai. Nên biết người này có hương giải thoát. Ca Diếp! Nếu có người cầm phân ô uế rồi dùng các loại ca nhạc, hương hoa cúng dường Như Lai. Người như vậy có loại hương gì?
- Bạch Thế Tôn! Người này chỉ có mùi phân ô uế hôi thối.
- Đúng vậy! Ca Diếp! Người này có thân cận cúng dường các ngoại đạo. Nên biết người đó cũng như vậy, thấy sợ hãi ở địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ. Nếu thiện nam, thiện nữ nào tin tưởng Như Lai có tấm lòng từ bi rộng lớn, ân cần, tôn trọng, tin tưởng, cung kính trừ diệt tâm kiêu mạn, không có tham sân và ngu si, ý chí quyết định, hiểu rõ nghiệp báo, chân thật không giả dối lừa gạt, tín tâm đối với sở đắc thanh tịnh của Như Lai. Các căn không dối trá, ý chí không hư hoại, thành tựu thanh tịnh, tin Phật có lòng đại bi, lợi ích lớn cho chúng sanh, tin bổn hạnh Phật, tin tưởng nơi Như Lai không bỏ tất cả chúng sanh, có tâm như vậy, có ý như vậy. Giả sử như thiếu các vật cần dùng như cơm, nước, thuốc men nên chưa đắc đạo quả, chưa nhập chánh vị. Nếu được các vật cần dùng mà đắc đạo quả, nhập chánh vị. Hoặc có người đói khát, gầy ốm không thể tu thiện, không đắc đạo quả. Người này nếu lấy những vật cần dùng của Phật như y phục, cơm nước, thuốc men để ăn mặc. Ca Diếp! Ta nói người này không bị quả ác. Ca Diếp! Đây gọi là pháp Bí Mật Tạng của Như Lai. Nên biết, để khéo mật trì, giữ gìn, không nên trình bày trước những kẻ bị nhiễm trước sẽ làm cho họ tăng trưởng tà kiến.
- Ca Diếp! Sao gọi là hiểu? Nghĩa là hiểu rõ tất cả pháp của Như Lai thuyết. Sao gọi là triền phược? Ca Diếp! Triền phược là do tham trước. Sao gọi là giải mở? Nghĩa là không đắm trước, không phân biệt nhị biên. Ca Diếp! Ta không nói điều vô trước này gọi là phạm. Vì sao? Ca Diếp! Vì phiền não yếu kém từ hư không sanh ra. Ca Diếp! Nếu điều đó không thật, không bị sanh thì gọi là thật. Ca Diếp! Ta đưa ra ví dụ để trình bày điều không thật, vọng tưởng. Ca Diếp! Ví như có người đem đốm lửa nhỏ như hạt cải thổi cho nó lớn ra dần dần, thiêu đốt cả đồ vật thành đống lửa lớn. Cũng vậy, Ca Diếp! Người phàm phu ngu si chỉ khởi một tí suy nghĩ vọng niệm bất chánh đắm trước các cố chấp tùy theo sự vọng tưởng, do đó mà tăng trưởng kiết sử. Ca Diếp! Nếu có lửa lớn như núi Tu Di nhưng không dựa vào đâu cả. Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Lửa như vậy thì lan tràn hay tiêu diệt?
- Bạch Thế Tôn! Lửa này sẽ bị tắt, không có lan tràn.
- Ca Diếp! Các phiền não vọng tưởng không thật. Nếu đã không khởi, không đắm trước, không vọng tưởng, không ưa thích, không phân biệt, sẽ dần dần tiêu diệt không tăng trưởng. Ca Diếp! Do việc này nên biết phiền não vọng tưởng yếu kém không thật là không chân thật.
- Ca Diếp! Ví như có người đến nhà có nhiều chất độc hại nhưng không bị ngộ độc mà lại sợ hãi, ôm nỗi thống khổ kêu lớn: “Tôi bị ngộ độc rồi, tôi bị ngộ độc rồi”. Các vị lương y giỏi đem thuốc không thật đến cho người bịnh này để trị bệnh không thật, nên thoát khỏi các khổ. Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Nếu vị lương y đó đem thuốc thật đến cho người này thì người ấy có còn sống không?
- Bạch Thế Tôn! Không. Vì người này thật sự không ăn trúng độc, chỉ sanh tư tưởng ngộ độc, nên chỉ cần thuốc không thật dùng để trị bệnh.
- Đúng vậy! Ca Diếp! Các hàng phàm phu bị khổ não vì phiền não không thật cho nên Như Lai thuyết pháp không thật.
- Bạch Thế Tôn! Như Lai thuyết pháp không chơn thật sao?
- Ca Diếp! Theo chỗ thầy hiểu thì chơn thật này không không chơn thật sao?
- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu không có chơn thật. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì dùng bất tịnh để đối trị tham dục. Từ bi đối trị sân nhuế, nhân duyên đối trị ngu si. Bạch Thế Tôn! Nếu bất tịnh là thật thì không thể trừ tham dục không thật, cũng chẳng phải tham dục sanh quán bất tịnh. Nếu ngu si là thật, khởi tâm ngu si rồi thì chẳng phải nhân duyên đối trị, cũng chẳng phải nhân duyên có thể diệt trừ ngu si. Bạch Thế Tôn! Thế nên tất cả kiết sử và pháp đoạn trừ kiết sử, cả hai đều không thật, không có vật, không mất định, không có thành tựu. Cho nên các phiền não đều không thật. Đến gần với không thật liền bị trừ bỏ. Bạch Thế Tôn! Kiết sử không đi. Vì sao? Vì nếu có trừ bỏ thì là có đi. Nếu đã có đi liền có đến. Thế nên, bạch Thế Tôn! Tất cả kiết sử không đi không đến. Nên biết tất cả pháp hữu vi không đến không đi gọi là lìa phiền não.
- Ca Diếp! Như Lai Mật Tạng này, thuyết tất cả pháp tánh vốn thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Theo lời Như Lai thuyết thì mười đường ác, tánh nó vô cấu, bản tánh trong sạch sao?
- Đúng vậy! Đúng vậy! Ca Diếp! Vì sao? Vì không có quyền lực mà phạm tội sát sanh, không phải thân tín mà phạm tội trộm cướp. Người có chủ, có bảo hộ mà phạm tội tà dâm, chẳng phải vì bảo vệ người khác mà phạm tội vọng ngữ, chẳng phải vì điều phục mà phạm tội ác khẩu, chẳng phải vì sự phá hoại kiêu mạn khủng bố của tà kiến ngoại đạo mà phạm tội hai lưỡi, không vì thức ăn mà phạm tội ỷ ngữ, không dạy điều dối trá xấu xa mà phạm tội sân nhuế, không có mong cầu tăng trưởng thiện căn mà gọi là tham lam, không có gần gũi người có quyền lực, ý ít nói lời bất chánh mà phạm tội tà kiến. Ca Diếp! Mười ác đạo này nếu không chấp trước Ta nói người kia không có lỗi. Ca Diếp! Mười ác đạo này nếu không chấp trước gọi là không phạm. Như vậy, Ca Diếp! Tất cả phiền não nếu không chấp trước, Ta nói không phạm. Ca Diếp! Người không chấp trước gọi là lìa kiến chấp.
- Bạch Thế Tôn! Trong mười nghiệp ác thì cái nào là nặng nhất?
- Ca Diếp! Trong mười nghiệp ác này, sát sanh và tà kiến là nặng nhất. Ca Diếp! Các điều ác bất thiện bất cứ ở đâu. Nếu không trụ vững, không giữ vững, không nắm vững thì tất cả điều Ta nói gọi là không phạm. Ca Diếp! Năm tội về vô gián nếu không trú vững, cố giữ vững, cố nắm vững thì sanh tâm trụ nơi kiến thức. Ta nói người kia phạm tội. Huống chi lại trừ ít nghiệp ác bất thiện. Ca Diếp! Ta không dùng pháp bất thiện mà được Bồ đề, cũng không dùng thiện pháp mà được Bồ đề. Ca Diếp! Nếu dùng pháp bất thiện được Bồ đề thì các phàm phu cũng được Bồ đề, nếu dùng thiện pháp được Bồ đề thì tất cả cỏ cây rừng đều bị thiêu đốt sẽ được sanh trưởng trở lại. Ca Diếp! Ta hỏi thầy, vì sao Như Lai chứng đắc Bồ đề?
- Bạch Thế Tôn! Phật là pháp căn bổn, Thế Tôn là mắt. Thế Tôn là chỗ dựa. Theo lời Thế Tôn mà cùng nhau phụng hành.
Phật dạy :
- Ca Diếp! Hiểu rõ phiền não từ nhân duyên sanh gọi là Bồ đề. Ca Diếp! Sao gọi là hiểu rõ phiền não từ nhân duyên sanh? Hiểu rõ pháp khởi không tự tánh này là pháp vô sanh. Hiểu như vậy thì gọi là đắc Bồ đề. Ca Diếp! Chỉ ví dụ danh từ gọi là được Bồ đề nhưng Bồ đề này không dùng văn tự ngôn ngữ thuyết mà chứng đắc. Nếu không văn tự, không ngôn ngữ, không thuyết giảng, không chứng đắc Bồ đề. Đây là nghĩa đệ nhất. Ca Diếp! Theo lời thầy hỏi trong mười ác nghiệp điều gì là nặng nhất. Ca Diếp! Ví như người có cha đắc đạo Duyên Giác. Người con giết cha gọi là tội nặng trong giới sát sanh. Cướp đoạt vật của Tam Bảo gọi là tội nặng trong giới trộm cướp. Nếu lại có người mẹ xuất gia đắc đạo La hán, cùng làm điều bất tịnh, đây là tội nặng trong giới dâm dục. Nếu dùng điều không thật phỉ báng Như Lai, gọi là tội nặng trong giới vọng ngữ. Nếu nói hai lưỡi làm tổn hại hiền thánh tăng, đây là tội nặng trong giới lưỡng thiệc. Nếu mạ nhục Thánh nhơn là tội nặng trong giới ác khẩu. Nói lời não loạn người cầu pháp là tội nặng trong giới ỷ ngữ. Nếu phạm năm nghịch tội là tội nặng trong sân nhuế. Nếu muốn cướp đoạt vật của người trì giới thanh tịnh là tội nặng trong việc tham lam, tội nặng trong tà kiến. Đó gọi là biên kiến.
Ca Diếp! Mười ác đạo này là nặng nhất. Ca Diếp! Như Lai biết mười ác nghiệp này là nặng nhất. Ca Diếp! Nếu có một người phạm đủ mười ác nghiệp này. Ca Diếp! Chúng sanh ác này nếu hiểu rõ pháp nhân duyên Như Lai thuyết, trong đây không có thọ, mạng, chúng sanh, không nhơn, không trượng phu, không ngã, không tuổi nhỏ, không người tạo nghiệp, không người thọ, người khởi, không người biết người thấy không, không sanh không diệt. Đây là tận pháp không nhiễm không trước, không thiện bất thiện, bổn tánh thanh tịnh. Tất cả các pháp bổn tánh thường thanh tịnh, hiểu rõ, tin tưởng, thâm nhập. Ca Diếp! Ta không thuyết hướng đến ác đạo, không thuyết quả ác đạo. Vì sao? Ca Diếp! Vì pháp không tích tụ, pháp không tập họp, không não loạn. Ca Diếp! Tất cả các pháp sanh diệt bất trụ. Do nhân duyên hòa hợp mà sanh khởi, khởi rồi lại diệt. Ca Diếp! Nếu tâm sanh diệt thì tất cả kiết sử cũng sanh rồi diệt. Nếu hiểu như vậy thì không có phạm và chỗ phạm. Ca Diếp! Nếu phạm có trụ thì không có chỗ này. Ca Diếp! Ví như có cái nhà rất tối, trăm ngàn năm không thắp đèn, căn nhà tối tăm này không có cửa ra vào, cửa sổ cho đến không có một lỗ nhỏ bằng cây kim, không có một ánh sáng nhỏ nào của mặt trời mặt trăng có thể lọt vào. Ca Diếp! Nếu trong căn nhà tối tăm đó được đốt lên ánh sáng của đèn, lửa thì bóng tối đó có thể nói rằng : “Ta ở đây đã trăm ngàn năm rồi, nay không bỏ đi nữa”.
- Bạch Thế Tôn! Không thể được. Vì khi thắp đèn lên thì bóng tối sẽ tan mất.
- Đúng vậy! Ca Diếp! Đã tạo nghiệp chướng ở trong trăm ngàn vạn kiếp, nếu tin tưởng lời Như Lai, hiểu rõ pháp nhân duyên, tu hành quán sát chuyên tu định tuệ, quán vô ngã, vô mạng, không nhơn, không trượng phu.v.v... Ta nói người này không phạm, không chỗ phạm, không tập. Ca Diếp! Do đây nên biết các phiền não yếu kém, dùng trí huệ đốt sáng, nó không thể tồn tại được.
Ca Diếp! Như Lai thuyết Mật Tạng trụ xứ vô thượng này là rống tiếng Đại Sư Tử, chuyển pháp luân thanh tịnh. Trời, người, ma, phạm không thể chuyển được. Ca Diếp! Nếu có chúng sanh nào tin pháp Như Lai Bí Mật Tạng này, thọ trì như vậy, quán sát như vậy, người kia sẽ rống tiếng sư tử cũng như vậy.
Khi ấy, đại đức A Nan bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương tự này dùng thân mình cúng dường Như Lai, thì sẽ dùng thân nào để giác ngộ đạo Bồ đề?
Bấy giờ, các Bồ tát trong Hoa Đài hỏi A Nan :
- Ý thầy thế nào? Có thể dùng thân để giác ngộ Bồ đề sao? A Nan! Chớ nên nhận xét như vậy, phải dùng thân tâm để giác ngộ Bồ đề.
A Nan hỏi :
- Các bậc trượng phu! Nếu chẳng phải thân tâm giác ngộ Bồ đề, thì nên dùng cái gì để giác ngộ Bồ đề?
Chư Bồ tát đáp :
- Đại đức A Nan! Thật tánh của thân là thật tánh Bồ đề. Thật tánh Bồ đề là thật tánh của tâm. Thật tánh tâm tức là thật tánh tất cả pháp, hiểu rõ tất cả các thật tánh này gọi là giác ngộ Bồ đề.
Khi ấy, các vị Bồ tát ở Hoa Đài, đảnh lễ sát chân Phật, bạch rằng :
- Bạch Thế Tôn! Khi chúng con đến trái đất này thì Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương mới đắc đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
A Nan bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Chư vị Bồ tát ở Hoa Đài đến cõi này đã bao lâu rồi?
Phật dạy A Nan :
- Chư vị Bồ tát này đến chỗ chư Phật Như Lai ở hạ phương thế giới và hằng hà sa thế giới, thỉnh vấn pháp Như Lai Bí Mật Tạng này, nghe rồi hiểu nghĩa.
A Nan bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương Thành Vô Thượng Chánh Đẳng Giác đã bao lâu?
Phật dạy :
- A Nan! Ngàn đức Phật đã xuất hiện sẽ xuất hiện trong hiền kiếp này. A Nan! Đức Như Lai cuối cùng hiệu là Lô Chí. A Nan! Lô Chí Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác, chúng Thanh Văn rất nhiều.Có chúng Thanh Văn tăng nhiều hơn chúng Thanh Văn của chư Phật trước đó. A Nan! Đức Lô Chí Như Lai này thọ ký cho Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương thành đạo Vô Thượng. Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương trải qua chín mươi tám kiếp sẽ được thành Phật hiệu Trang Nghiêm Vương, cũng ở trong cõi này chứng đắc đạo Vô Thượng. Khi đức Như Lai Trang Nghiêm Vương ngồi ở cõi này, thì các vị Bồ tát ở trong Hoa Đài mới đến cõi này, lại được nghe pháp Như Lai Mật Tạng này.
A Nan! Khi ấy thế giới của Như Lai Trang Nghiêm Vương gọi là Vô Lượng Công Đức Trang Nghiêm. A Nan! Tất cả cung điện chư thiên đều ở cõi Dục, trong cõi Phật Trang Nghiêm Vương có một đài báu là thế giới Ta Bà, bấy giờ gọi là cõi Diệu Hảo Sắc. A Nan! Thọ mạng của Như Lai Trang Nghiêm Vương là một trăm kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp trụ đời đủ mười kiếp, chỉ thuần là Bồ tát tăng.
Khi nói lời thọ ký Như Lai Trang Nghiêm Vương rồi, lọng hoa phía trên Phật liền biến mất. Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương đứng phía trước Phật.
Bấy giờ, A Nan bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Hộ trì pháp này thế nào khiến cho được trụ lâu dài ở cõi Diêm phù đề, tăng trưởng lưu bố cùng khắp, làm cho bậc trượng phu có thể giữ gìn pháp Như Lai Mật Tạng thành tựu công đức chứng đắc pháp này.
Khi ấy, Thế Tôn dạy A Nan :
- Giả sử tánh bốn đại đều biến đổi, tất cả không phải là trương phu, không nghe pháp này nhưng giữ lấy khi thọ mạng chúng. A Nan! Nếu người viết chép, thọ trì, đọc tụng nên biết người này tức là thọ trì pháp của Như Lai. A Nan! Nếu có người dùng tay phải cầm bảy báu đầy khắp hằng hà sa cõi Phật, tay trái lại cầm bảy báu đầy khắp hằng hà sa cõi Phật, suốt ngày ba thời, đêm ba thời, đem vật ra bố thí. Người này không giãi đãi, trải qua hằng hà sa kiếp. A Nan! Công đức bố thí của người này rất lớn, Nhưng nếu có người nào viết chép, thọ trì, đọc tụng kinh điển này thì công đức đã tạo hơn người trên rất nhiều. Cho nên, A Nan! Quí thầy nên thọ trì, đọc tụng Kinh này làm cho pháp khí được phổ biến. Những vị này là thọ trì pháp Như Lai Bí Mật Tạng.
Phật thuyết Kinh này rồi, Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, đại đức A Nan, đại đức Ca Diếp, tất cả đại chúng trời, người, A tu la.v.v... nghe Phật thuyết đều rất vui mừng.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 2 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Đại Bát Niết bàn Tập 1


Hai Gốc Cây


Những Đêm Mưa


Sống và chết theo quan niệm Phật giáo

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.131.83.105 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập