Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phật Thuyết Xuất Sanh Nhứt Thiết Như Lai Pháp Nhãn Biến Chiếu Đại Lực Minh Vương Kinh [佛說出生一切如來法眼遍照大力明王經] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Phật Thuyết Xuất Sanh Nhứt Thiết Như Lai Pháp Nhãn Biến Chiếu Đại Lực Minh Vương Kinh [佛說出生一切如來法眼遍照大力明王經] »» Bản Việt dịch quyển số 1


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.45 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.47 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Biến Chiếu Đại Lực Minh Vương Xuất Sanh Hết Thảy Pháp Nhãn Như Lai

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 |
Việt dịch: Huyền Thanh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Thế Tôn ngự ở trong lầu gác Đại Bảo trên núi Ma Ha Mẫu Chất Lân Na vì Chúng nói Pháp.
Bấy giờ tất cả chư Phật xưng dương tán thán. Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát ( Vajra Pànïi Bodhisatvàya mahà satvàya ) ở nơi Chúng ấy cùng đến hội tọa, ngồi ngay đầu bên trên phía Đông của Tòa Phổ Biến Diễm Man Liên Hoa của Đức Thế Tôn.Đức Phật đưa bàn tay phải an ủi chúng sinh. Tiếp bên phải Đức Phật có vị Tứ Tý Đại Lực Minh Vương ( Caturbhùja mahà Bala Vidyaràja ) hướng tay trái về Đức Phật đỉnh lễ, tay phải cầm cây phất trần, tay trên bên trái cầm sợi dây Kim Cương, tay trên bên phải cầm cây gậy Kim Cương ( Kim Cương Bổng ) mắt của vị ấy như tóc màu đỏ, như đám lửa mạnh, như đỉnh cao vót trên ngọn lửa.
Tiếp theo là Kim Cương Thủ với các quyến thuộc
Tiếp bên phải là Giáng Tam Thế Minh Vương ( Trailokya Vijaya Vidyaràja )
Bên phải là Cam Lộ Quân Noa Lợi ( Amrïta Kunïdïlali ) với hình như nửa vành trăng phấn tấn uy mãnh, hình dung hung ác màu đỏ như Chu Sa. Vị Đại Khủng Bố Kim Cương này hay phá tất cả phiền não, nắm chắc Bản Tâm.
Tiếp theo là Thánh Giáng Tam Thế Minh Vương, Thánh Ma Ma Kế (Mamàki ) , Cam Lộ Quân Noa Lợi, Kim Cương Câu ( Vajra Anõku’sa ) , Kim Cương Sách ( Vajra Pà’sa ). Ở bên trong cửa ấy lại có 2 vị Phẫn Nộ Kim Cương (Krodha Vajra ) , bên trái là Trì Kim Cương Tố ( Vajra Pà’sa Dhàra ), bên phải là Chấp Kim Cương Bổng ( Vajra Danïdïa Dhàra )
Tiếp bên trái Đức Phật là Quán Tự Tại Bồ Tát ( Avalokite’savara Bodhisatva ) với các Quyến Thuộc ( Saheyàya ).
Tiếp bên phải Đức Phật là Thánh Bạch Y Quán Tự Tại Bồ Tát ( Aørya Panïdïara Vàsïinïi Avalokite’svara Bodhisatva ) với Đa La Bồ Tát ( Tàrà Bodhisatva) , Tỳ Câu Đê Bồ Tát ( Bhrïkutïi Bodhisatva ). Bên trái là Mã Đầu Minh Vương (Hàyagriva Vidyaràja ). Tiếp theo là Ma Ha Đại Bạch ( Mahà ‘Sveta ) , Đại Cát Tường Bồ Tát ( Mahà ‘Srì Bodhisatva ) . Nhóm như vậy có trăm ngàn vị Bồ Tát Ma Ha Tát.
Lại ở phương Đông là hàng Nhật Nguyệt Thiên ( Aøditya Deva và Candra Deva ) , Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương ( Dhrïta Rasïtïra Devaràja ) , Đế Thích Thiên Vương ( Indra Devaràja ).
Phương Đông Nam là Diễm Ma ( Yama ) với Hỏa Thiên ( Agni Deva ) và các Đại Tiên ( Mahà Rïsïì )
Phương Nam là Diêm Mô Na La Diên ( Yamo Nàrayanïa )
Phương Tây Nam là La Sát Chủ ( Ràksïasa Adhipati )
Phương Tây là Thủy Thiên Long Chủ ( Udakadeva Nàga Adhipati )
Phương Tây Bắc là Phong Thiên ( Vàyu Deva )
Phương Bắc là Câu Vĩ La ( Kubera hay Kuvera )
Phương Đông Bắc là I Xả Nẵng ( I’sana ) , Đế Thích Thiên Chủ ( Indra Devàdhipati ) , Na La Diên Thiên ( Nàrayanïa Deva ) Sa Ha Thế Giới Đại Phạm Thiên Vương ( Sahalokàdhipati Mahà Bràhma Devaràja ), Ma Hê Thủ La (Mahe’svara ) , các Thiên Chúng ( Devànàmï )
Nhóm như vậy có vô lượng vô số chư Thiên với các Thiên Nhân thanh tịnh , mỗi mỗi vị đều có quyến thuộc của mình vây chung quanh , đứng trước mặt Đức Như Lai , cung kính chắp tay chiêm ngưỡng Tôn Nhan ( Khuôn mặt của Đức Thế Tôn ).
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ ( Vajrapànïi Guhyakàdhipati ) rằng:” Này Bí Mật Chủ ! Nếu có người trì Đại Giáo Minh Vương Kinh này thì vì họ mà nói Chú là:
Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã
Nẵng mạc thất-chiến noa phộc nhật-la bá noa y, ma hạ dược xoa tế nẵng bát đa y
Án. Chỉ ly chỉ ly , phộc nhật-la , kế ly chỉ la dã, sa-phộc hạ
Án. Mụ lật-đà-nẵng dã, sa-phộc hạ
La la tra dã, sa-phộc hạ
Tác sô sa dã, sa-phộc hạ
Ô nga-la dã, sa-phộc hạ
Át để-dục nga-la dã, sa-phộc hạ
Lạc cát-đam bà dã, sa-phộc hạ
Phộc nhật-la khát tắc-đa dã, sa-phộc hạ
Bá thiết hát tắc-đa dã, sa-phộc hạ
Khát đăng-nga , hát tắc-đa dã, sa-phộc hạ
Ba la truật, hát tắc-đa dã, sa-phộc hạ
Đạt nậu lật-đà la dã, sa-phộc hạ
Mẫu sa la , hát tắc-đa dã, sa-phộc hạ
Tác ca-la , hát tắc-đa dã, sa-phộc hạ
Để-lị thâu la , hát tắc-đa dã, sa-phộc hạ
Hột-lị na dạ dã, sa-phộc hạ
Ô ba hột-lị na dạ dã, sa-phộc hạ
Tán noa , kế ly chỉ la dã, sa-phộc hạ
Phộc la , kế ly chỉ la dã, sa-phộc hạ
La đát-nẵng , kế ly chỉ la dã, sa-phộc hạ
Ma đắng nga dã, sa-phộc hạ
Nghê phộc lật-đà nẵng dã, sa-phộc hạ
Ma hạ phộc la dã, sa-phộc hạ
Nhạ trí la dã, sa-phộc hạ
La mộ na la dã, sa-phộc hạ
Ô thô sáp-ma cốt lỗ đà dã, sa-phộc hạ
Khắc nga dã, sa-phộc hạ
Diễm mẫu nẵng dã, sa-phộc hạ
Diễm ma lạc khất-xoa sa dã , sa-phộc hạ
Ma hạ tán noa dã, sa-phộc hạ
Nhạ la đà la dã, sa-phộc hạ
Ba lật-phộc đá la nhạ dã, sa-phộc hạ
Ba lật-phộc đá, đà la dã, sa-phộc hạ
Phộc nhật-la nan noa dã, sa-phộc hạ
Ma hạ thí la phộc dã, sa-phộc hạ
Cát đăng cát tra, thí la phộc dã, sa-phộc hạ
Đán nhạ nẵng dã, sa-phộc hạ
Phộc nhật-la hướng cát la dã, sa-phộc hạ
Phộc nhật-la nạp-bà la dã, sa-phộc hạ
Phộc nhật-lãm na-nga la dã, sa-phộc hạ
Nại-la ni noa dã, sa-phộc hạ
A mật-lị đá dã, sa-phộc hạ
Đát ba đà la dã, sa-phộc hạ
Đát bổ đà la dã, sa-phộc hạ
Ương nghê thí dã, sa-phộc hạ
A mục khư dã, sa-phộc hạ
Ô sắt-nị sa , la dã, sa-phộc hạ
Tất-vĩ đát đá phộc lan-noa dã, sa-phộc hạ
Tả sa phộc-lan noa dã, sa-phộc hạ
La ma duệ, sa-phộc hạ
Ma đắng nga, hát tắc-đá dã, sa-phộc hạ
Nghê phộc lật-đà nẵng, hát tắc-đá dã , sa-phộc hạ
Ma la vĩ ca la noa dã, sa-phộc hạ
Tát lật-ba mính khư la dã, sa-phộc hạ
Phộc nhật-la chỉ la dã, sa-phộc hạ
A bà dã, hát tắc-đá dã, sa-phộc hạ
Ác. Phộc nhật-la hát tắc-đá dã, sa-phộc hạ
Nhập-phộc la , bát-la giáng ca la dã, sa-phộc hạ
Mạt đề tất-thể la, phộc nhật-la dã, sa-phộc hạ
Ương câu la dã, sa-phộc hạ
Bát-la giáng câu la dã, sa-phộc hạ
Phộc nhật-la vĩ ná la noa dã, sa-phộc hạ
Phộc nhật-la mẫu sắt-tra duệ, sa-phộc hạ
Mính già vĩ na la noa dã, sa-phộc hạ
Phộc khất-xoa tát-đam bà nẵng dã, sa-phộc hạ
Ương nghê sắt-xá la nhạ dã, sa-phộc hạ
Nan noa la nhạ dã, sa-phộc hạ
Khát lăng-nga la nhạ dã, sa-phộc hạ
Ca phộc tả phộc la nhạ dã, sa-phộc hạ
Án, địa, a.
NAMO RATNATRAYÀYA
NAMAHÏ ‘SCANÏDÏA VAJRAPÀNÏÀYE MAHÀ YAKSÏA SENÀPATÀYE
OMÏ _ KILI KILI _ VAJRA KÌLIKÌLÀYA _ SVÀHÀ
OMÏ _ MÙRTTÀYA _ SVÀHÀ
LALÀTÀYA _ SVÀHÀ
CAKSÏUSÏÀYA _ SVÀHÀ
UGRÀYA _ SVÀHÀ
ATYA UGRÀYA _ SVÀHÀ
RAKTÀBHÀYA _ SVÀHÀ
VAJRA HASTÀYA _ SVÀHÀ
PÀ’SA HASTÀYA_ SVÀHÀ
KHANÕGA HASTÀYA _ SVÀHÀ
PARA’SU HASTÀYA _ SVÀHÀ
DHANURDHARÀYA _ SVÀHÀ
MUSALA HASTÀYA _ SVÀHÀ
CAKRA HASTÀYA _ SVÀHÀ
TRI’SÙLA HASTÀYA _ SVÀHÀ
HRÏDAYÀYA _ SVÀHÀ
UPAHRÏDAYÀYA _ SVÀHÀ
CANÏDÏA KÌLIKÌLÀYA _ SVÀHÀ
VARA KÌLIKÌLÀYA _ SVÀHÀ
RATNA KÌLIKÌLÀYA _ SVÀHÀ
MATANÕGÀYA _ SVÀHÀ
GOVARDHANÀYA _ SVÀHÀ
MAHÀ BALÀYA _ SVÀHÀ
JÀTÏHARÀYA _ SVÀHÀ
RAMODARÀYA _ SVÀHÀ
UCCHUSÏMA KRODHÀYA _ SVÀHÀ
KHANÕGÀYA _ SVÀHÀ
YAMA UDÀYA _ SVÀHÀ
YAMA RÀKSÏASÀYA _ SVÀHÀ
MAHÀ CANÏDÏÀYA _ SVÀHÀ
JÀLA DHÀRÀYA _ SVÀHÀ
PARVATA RÀJÀYA _ SVÀHÀ
PARVATA DHÀRÀYA _ SVÀHÀ
VAJRA DANÏDÏÀYA _ SVÀHÀ
MAHÀ ‘SIRA BALÀYA _ SVÀHÀ
KATÏAMÏ KATÏA ‘SIRA BALÀYA _ SVÀHÀ
DANSANÀYA _ SVÀHÀ
VAJRA SANÕKARÀYA _ SVÀHÀ
VAJRA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
VAJRA ANÕGARÀYA _ SVÀHÀ
DRANINÏÀYA _ SVÀHÀ
AMRÏTÀYA _SVÀHÀ
TÀPA DHÀRÀYA _ SVÀHÀ
TÀPA UTTÀRÀYA _ SVÀHÀ
ANÕGÙ’SIYA _ SVÀHÀ
A MUKHÀYA _ SVÀHÀ
USÏNÏÌSÏA RÀJA _ SVÀHÀ
‘SVETATÀ VARNÏÀYA _ SVÀHÀ
‘SA’SA VARNÏÀYA _ SVÀHÀ
RÀMÀYE _ SVÀHÀ
MATANÕGA HASTÀYA _ SVÀHÀ
GOVARDHANA HASTÀYA _ SVÀHÀ
MÀRÀ VIKÀRANÏÀYA _ SVÀHÀ
SARVA MEKHARÀYA _ SVÀHÀ
VAJRA KÌLÀYA _ SVÀHÀ
ABHAYA HASTÀYA _ SVÀHÀ
AHÏ _ VAJRA HASTÀYA _ SVÀHÀ
JVALA PRAGAM KARÀYA _ SVÀHÀ
MATI STHIRA VAJRÀYA _ SVÀHÀ
ANÕKURÀYA _ SVÀHÀ
PRAGAM KULÀYA _ SVÀHÀ
VAJRA VIDARANÏÀYA _ SVÀHÀ
VAJRA MUSÏTÏÀYE _ SVÀHÀ
MEGHA VIDARANÏÀYA _ SVÀHÀ
BHAKSÏA STAMÏBHÀNÀYA _ SVÀHÀ
ANÕGUSÏTÏHA RÀJÀYA _ SVÀHÀ
DANÏDÏA RÀJÀYA _ SVÀHÀ
KHATVANÕGA RÀJÀYA _ SVÀHÀ
KAVACA BALA JAYA _ SVÀHÀ
OMÏ _DHÌ _ A
Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã
Nẵng mạc thất-chiến noa, phộc nhật-la bá na duệ, ma hạ dược xoa tế nẵng bát đá duệ
Đát nễ-dã tha: Hổ lỗ hổ, để sắt-xá để sắt-xá, mãn đà mãn đà, hạ nẵng hạ nẵng, na hạ na hạ, bát tả bát tả, amật-lị đế, hồng, phán tra, sa-phộc hạ
Án. A mật-lị đế, hồng, phán tra
Nễ-lị đá la sắt-tra-la dã, sa-phộc hạ
Vĩ lỗ trà ca dã, sa-phộc hạ
Vĩ lỗ bạc xoa dã, sa-phộc hạ
Củ vị la dã, sa-phộc hạ
Án nại-la dã, sa-phộc hạ
Tán nại-la dã, sa-phộc hạ
Aùt nễ để-dã dã, sa-phộc hạ
A ngân-nẵng duệ, sa-phộc hạ
Tát lật-phộc ma hạ lật-thủy vĩ-dã, sa-phộc hạ
Diễm ma dã, sa-phộc hạ
Vô-phối sắt-nỗ vị, sa-phộc hạ
Lạc khất-xoa sa địa bát đá duệ, sa-phộc hạ
Nẵng nga địa bát đá duệ, sa-phộc hạ
Phộc dã vị, sa-phộc hạ
Đạt nẵng địa bát đá duệ, sa-phộc hạ
Y sái nẵng dã, sa-phộc hạ
Ma hê thấp-phộc la dã, sa-phộc hạ
Thiết ngật-la dã, sa-phộc hạ
Phộc tố nễ phộc dã, sa-phộc hạ
Ma hạ một-la hám-ma nãi, sa-phộc hạ
Tất-lị thể vị, sa-phộc hạ
Sa la sa-phộc đế, sa-phộc hạ
Ổ ma nễ vị , sa-phộc hạ
NAMO RATNATRAYÀYA
NAMAHÏ ‘SCANÏDÏA VAJRAPÀNÏÀYE MAHÀ YAKSÏA SENÀPATÀYE
TADYATHÀ : HURU HURU _ TISÏTÏA TISÏTÏA _ BANDHA BANDHA _ HANA HANA _ DAHA DAHA _ PACA PACA _ AMRÏTE HÙMÏ PHATÏ _ SVÀHÀ
OMÏ _ AMRÏTE HÙMÏ PHATÏ
DHRÏTA RASÏTÏRÀYA _ SVÀHÀ
VIRÙDHAKÀYA _ SVÀHÀ
VIRÙPAKSÏÀYA _ SVÀHÀ
KUVERÀYA _ SVÀHÀ
INDRÀYA _ SVÀHÀ
CANDRÀYA _ SVÀHÀ
ÀDITYÀYA _ SVÀHÀ
AGNÀYE _ SVÀHÀ
SARVA MAHÀ RÏSÏÌ VIDYA _ SVÀHÀ
YAMÀYA _ SVÀHÀ
VISÏNÏUVI _ SVÀHÀ
RÀKSÏASÀDHIPATÀYE _ SVÀHÀ
NÀGÀDHIPATÀYE _ SVÀHÀ
VÀYUVI _ SVÀHÀ
DHÀNÀDHIPATÀYE _ SVÀHÀ
I’SANÀYA _ SVÀHÀ
MAHE’SVARÀYA _ SVÀHÀ
‘SUKRÀYA _ SVÀHÀ
VASUDEVÀYA _ SVÀHÀ
MAHÀ BRAHMANÏI _ SVÀHÀ
PRÏTHIVI _ SVÀHÀ
SARASVATI _ SVÀHÀ
UMA DEVI _ SVÀHÀ
Như vậy Minh Chú này nên ở trong Mạn Noa La ( Manïdïala _ Đàn) an trí Đại Lực Minh Vương ( Mahà Bala Vidyaràja ) , sau đó tác quán, mật tác hộ trì
Tiếp nên quy mệnh đỉnh lễ tất cả Phật, Pháp, Tăng, Độc Giác, Trưởng Lão Xá Lợi Phất, Chúng Thanh Văn…
Quy mệnh Đại Mâu Ni, tất cả Chúng Đại Bồ Tát của hàng Từ Thị (Maitrìya )
Đỉnh lễ Đức Chính Biến Tri
Quy mệnh Trì Kim Cương ( Vajradhàra ) với các quyến thuộc.
Lại nói Chân Ngôn là:
Án. Mẫu ninh, ma hạ mẫu ninh, ma hạ mẫu ninh
Chỉ ly chỉ ly, chỉ la vĩ kế
Ca tra, ca tra
Tam ma, tam ma
Phiến đá, phiến đá
Nan đá, nan đá
Địa la, địa la
Ma hạ mính già nậu lật-đà la
Hạ lị. Hạ lị
Củ chi, củ chi
Thân na, thân na
Tần na, tần na
Tát lật-phộc nậu sắt-tra nẫm
Nghê mẫu, nghê mẫu
Hạ la, nại-la ninh duệ kế tức
Ma ma ( Xưng tên mình )
Hề đế thủy noa
Tát lật-phộc thiết yết-la ninh
Na mạt đề, na mạt đề
Na ma ni, na ma ni
Tha, tha, tha, tha
Tả, tả, tả, tả
Bát tả, bát tả, bát tả, bát tả
Hồng, hồng, hồng, hồng
Thấp-lị phộc, ma hạ thấp-lị phộc
Ma đắng nghê, tán noa la
Hổ, hổ, hổ , hổ
Nhu hộ, nhu hộ
Hát thư
Bát-la để-dã lật-thể nẵng
Ma ma
Tát lật-phộc tát đát-phộc nẫm
Lạc khất-xoa, lạc khất-xoa
Tức ly, tức ly, tức ly, tức ly
Để sắt-xá tha, để sắt-xá tha, để sắt-xá tha, để sắt-xá tha
Ma để yết-lam mạt tha
Hồng, hồng, hồng, hồng
Hê, hê, hê, hê
Phán tra, phán tra, phán tra, phán tra
Diễn nễ nẵng để sắt-xá tha
Mãn đà hát tắc-đa
Bá na mục khư, cật-lị phộc, tác sô , hột-lị na dã, phộc tá,táùt lật-phộc
Ma ma
Hạ la, hạ la
Nhạ la, nhạ la, nhạ la, nhạ la
Một độ, một độ, một độ,một độ
Mãn đà, mãn đà, mãn đà, mãn đà
Ninh la, ninh la, ninh la, ninh la
Ninh lăng nga, phộc nhật-la đà la
Tam-ma la, tam-ma la
Hột-lị na diêm, ma ha ma lăng, nẵng mạc
Câu chi, câu chi, câu chi ninh
Tát lật-phộc bố đa ninh
Phộc nhật-la ma ly ninh
Phộc nhật-la đà la
Phộc nhật-la tra hạ tả
Tả lật-tả, tả lật-tả
Nan đá, nan đá
Mãn đá, mãn đá
Yết la, yết la, yết la
Chỉ lị, chỉ lị, chỉ lị, chỉ lị
Củ lỗ, củ lỗ, củ lỗ, củ lỗ
Hộ la, hộ la, hộ la, hộ la
Tam-ma la, ma hạ tát đát-phộc
Hồng, hồng, hồng, hồng
Hê, hê, hê, hê
Phán tra, phán tra, phán tra, phán tra
Tán noa, tán noa, tán noa, tán noa
Ma hạ tán noa
Hổ lỗ, hổ lỗ, hổ lỗ, hổ lỗ
Mẫu lỗ, mẫu lỗ, mẫu lỗ, mẫu lỗ
Ngật-lị hận-noa, ngật-lị hận noa, ngật-lị hận-noa, ngật-lị hận-noa
Phộc nhật-la bá ni
Hạ nẵng, hạ nẵng, hạ nẵng, hạ nẵng
Ma ma
Tát lật-phộc tát đát-phộc nẫm tả
Lạc khất-xoa, lạc khất-xoa
Tát lật-phộc thiết đốt-lỗ, mẫu lật-đà-nẵng đát nỗ dã, phán tra
Củ lỗ, củ lỗ, củ lỗ, củ lỗ
Phộc nhật-la bá ni, yết lật-ma , ma để yết-lan ma tha
Tam ma dã, ma đế, tam ma duệ, phộc địa phiến để
Đát tha nga đổ phộc vĩ nễ đổ bà vĩ, phiến để
Y hàm ninh mãn đát-la , diễn ná ninh nậu ca
Hạ la, hạ la, hạ la, hạ la
Phán tra, phán tra, phán tra, phán tra
Đát bà để, đát bà để, đát bà để, đát bà để
Bát tả để, bát tả để, bát tả để, bát tả để , bát tả để, tam-ma la
Phộc nhật-la bá ni, hột-lị na dựng
Đát tha nga đá, địa sắt-xá nẵng
Di ly, di ly, di ly, di ly
Hộ, hộ, hộ, hộ
Dã nễ tá đát, bà nga phộc
Y năng hột-lị na dã
Mạt để, yết-lãm mê dựng, dát tha nga đá
Bát-lỗ cát-đái băng tả, tần la nan đá lật-dã, tam bát-la dục cốt-đô bà vị dựng
Nại lị-bổ, nại lị-bổ, nại lị-bổ, nại lị-bổ
Nẵng mô Phộc nhật-la đà la dã, tát ba lê phộc la dã, tất đình đô mãn đát-la , bá na ninh, sa-phộc hạ
Nẵng mô phộc nhật-la đà la dã, ma hạ đế nhạ dã, sa-phộc hạ
Án. Hồng, phán tra, sa-phộc ha
Minh Vương này thường dùng uy đức bí mật làm hộ trì khiến cho tất cả chỗ làm đều được thành tựu.
Bấy giờ Đức Thích Ca Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác ở ngay lúc đó phóng tỏa ánh sáng Diễm Man thanh tịnh chiếu khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, thiêu đốt tất cả cung điện của các Ma Vương ( Màrà ràja ) , lửa mạnh bao quanh làm thành một tụ, thiêu đốt không còn dư sót.
Khi ấy Ma Vương dùng Nghiệp Lực của mình mà chẳng khuất phục nổi. Các Ma Vương với Ma Chúng đó chuyển sinh độc hại, mỗi mỗi đều phẫn nộ. Tay cầm kiếm bén, cung tên, đao, vành xe, mọi loại khí trượng.Thời Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ như Sở Hiện của Đức Phật vượt qua 21 hằng hà sa đẳng Thế Giới ở phương Đông đều khiến giáng phục hết tất cả Ma Vương. Hiện ra thân màu đỏ, mắt xanh biếc, ló 4 răng nanh ra bên ngồi, chau mày, trợn mắt, tóc dựng như trái châu, có uy đức lớn, tay phải cầm cây Bổng, tay trái cầm chày Kim Cương, dùng Rồng trang nghiêm, khốc áo da cọp.
Như vậy phương Nam, Tây, Bắc cũng lại vượt qua 21 hằng hà sa đẳng Thế Giới thảy đều hiện thân mà giáng phục.
Lúc đó vô số câu chi na dữu đa trăm ngàn vạn Ma Vương độc hại bị Ô Thô Sáp-Ma Đại Lực Minh Vương ( Ucchusïma mahà Bala Vidyaràja ) nhiếp phục, khủng bố làm cho tâm run sợ, rối loạn , mê muộn, tứ chi không còn sức, không còn hay biết, chẳng đối hồi thân mệnh. Tự Nghiệp của Ma Vương bị 5 loại cột trói.
Khi Kim Cương Thủ làm việc đó xong. Tức thời Dạ Ma Thiên Chúng, Đẩu Suất Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên Chúng đều cầm mọi loại dầu thơm, hương đốt với mọi Diệu Hoa, phướng,phan, dù, lọng, cột trụ… đến nơi Đức Thích Ca ngự mà cúng dường. Nhiễu quanh theo bên phải Đức Phật xong, liền lui về ngồi một bên
Khi đ1 Kim Cương Thủ Bồ Tát vì các Như Lai xưng dương tán thán xong. Đức Như Lai Đại Trí ở trong Pháp Đại Giáo Tối Thắng diễn ra Nhất Thiết Sở Cầu Tùy Ý Tự Tại Vô Lượng Uy Đức Dũng Mãnh Đại Lực Chân Ngôn. Vì muốn lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh ở trên Trời với Thế Gian, liền nói Chú là:
“Án. Phộc nhật-la cốt-lỗ đà, ma hạ mạt la, hạ nẵng, na hạ, bát tả, mạt tha, vĩ ca la, vĩ đà-noan sa dã, nhạ chi la la mạo na la, ô thô sáp-ma cốt-lỗ đà, hồng, phán tra, sa-phộc hạ”
OMÏ _ VAJRA KRODHA MAHÀ BALA_ HANA DAHA PACA MATHA VIKIRA VIDHAVAMÏSAYA _ JÀTÏHARA RAMODARA UCCHUSÏMA KRODHA HÙMÏ PHATÏ _ SVÀHÀ
Bấy giờ Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng:” Thế Tôn ! Nếu có kẻ trai lành,người nữ thiện nghe Chính Pháp này mà thọ trì, đọc tụng , rộng vì người khác nói, ân cần,tinh tiến , tôn trọng, cúng dường thì người ấy được Quán Đỉnh trong tất cả Mạn Noa La. Được Chân Ngôn này liền hay nhiếp phục , phá hoại tất cả Chú Thuật”
Khi ấy Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ lại bạch Phật rằng:” Thế Tôn ! Đức Phật nói Đại Lực Minh Vương Tâm Đà La Ni này. Nếu có người thọ trì liền được Dược Xoa ( Yaksïa ) , Dược Xoa Chúng, Lạc Khất-Xoa tô ( Ràksïasa _ La Sát ), Lạc Khất-Xoa Tô Chúng, Cấm Biện Noa ( Kumïbhanïdïa ) , Cấm Biện Noa Chúng, Nga Lỗ Noa ( Garudïda _ Kim Xí Điểu ) , Nga Lỗ Noa Chúng đều phát Thệ Nguyện mà tác Hộ Trì. Lại có Long Vương ( Nàgaràja ), Càn Đạt Bà ( Gandharva_ Tầm Hương Thần ) , Tất Xá Già ( Pi’sàca ) , Cưu Nạp-Ma Na, Noa Chỉ Ninh ( Dïàkinïì ) , Tát Dạ (Cchàya ) , Tát Hề La ( ‘Sabara ) , Câu Ba Tam-Ma La, Yết Tra Bố Đát Nẵng (Katïaputana ), Vị Đát Noa ( Vetàdïa ) … Tất cả Chúng ác danh khủng bố như vậy với các quyến thuộc chẳng có thể gây hại được”
Lúc đó Đức Thế Tôn khen Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ rằng:” Lành thay ! Lành thay ! Ông dùng Đại Bi, vì các chúng sinh mà rộng hưng Phật sự”
Thời Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ bạch Phật rằng:” Thế Tôn ! Nếu có người thọ trì, đọc tụng Kinh Điển này, nhớ giữ chẳng quên, rộng vì người khác nói thì người ấy liền được mau lìa Luân Hồi. Người nhìn thấy đều vui vẻ, cúng dường, lễ bái”
Thời Kim Cương Thủ lại nói Vô Lượng Dũng Mãnh Lực Chân Ngôn. Liền nói Chú là:
“ Án. Hồng, hồng, hồng, hồng. Phán, phán, phán, phán. Ốc Ngật-la, thâu la bá ni. Hồng, hồng, hồng, hồng,phán, phán, phán, phán.Án. Tô-tế để ninh nẵng na, hồng,hồng, hồng, hồng. Án, án, án, án,phán, phán, phán, phán. Nẵng mô ma hạ phộc la dã, sa-phộc hạ”
OMÏ _ HÙMÏ HÙMÏ HÙMÏ HÙMÏ _ PHATÏ PHATÏ PHATÏ PHAT_ UGRA ‘SÙRA PÀNÏIÏ_ HÙMÏ HÙMÏ HÙMÏ HÙMÏ_ PHATÏ PHATÏ PHATÏ PHATÏ
OMÏ_ JYOTIRNÀDA _ HÙMÏ HÙMÏ HÙMÏ HÙMÏ_ OMÏ OMÏ OMÏ OMÏ _ PHATÏ PHATÏ PHATÏ PHATÏ
NAMO MAHÀ BALÀYA SVÀHÀ
_ Án. Nhập-phộc la, nhập-phộc la. Tát lật-phộc nậu sắt-tra, ninh phộc la dã, ma ma. Tát lật-phộc tát đát-phộc nẫm tả, lậc khất-xoa, lạc khất-xoa, sa-phộc hạ.
Đỉnh Mật Ngôn:
OMÏ_ JVALA JVALA_ SARVA DUSÏTÏA STAMÏBHAYA STAMÏBHAYA _ DHURTA DUSÏTÏA NIVÀRAYA_ MAMA SARVA SATVÀNÀMÏ CA _ RAKSÏA RAKSÏA _ SVÀHÀ
_ Án. A nan đá, vĩ nhạ di, ma hạ tán noa, hồng, phán tra, sa-phộc hạ
Tọa Mật Ngôn:
OMÏ _ ANANDA VIJAYA _ MAHÀ CANÏDÏA HÙMÏ PHATÏ _ SVÀHÀ
_ Án. Phộc nhật-la địa-lị ca, hồng , phán tra, sa-phộc hạ
OMÏ_ VAJRA DHRÏK HÙMÏ PHATÏ _ SVÀHÀ
_ Án. Thất-lị thất-lị , thất la, ma ly ninh. Thất-lị , thất-lị thất ninh , thất-lị thất ninh, thất-lị thất ninh , thất-lị thất ninh, hồng, phán tra, sa-phộc hạ
Đỉnh Kế Mật Ngôn:
OMÏ SIRI _ SIRI ’SIRA _ MÀLINI SIRI _ SIRI SINI, SIRI SINI, SIRI SINI, SIRI SINI _ HÙMÏ PHATÏ _ SVÀHÀ
_ Án. Tát lật-phộc đát-ma nhạ, phộc nhật-la bát thiết. Nẵng mạc bát-la vĩ sắt-tra. Tát lật-phộc nậu sắt-tra, tát-đam phách dã. Hồng, hồng, hồng, hồng,phán tra, phán tra, phán tra, phán tra
OMÏ _ SARVA DHVAJA VAJRA PÀ’SE. NAMAHÏ PRAVISÏTÏA SARVA DUSÏTÏA STAMÏBHAYA _ HÙMÏ HÙMÏ HÙMÏ HÙMÏ _ PHATÏ PHATÏ PHATÏ PHATÏ
_ Án. Tô lỗ tô lỗ, ổ thô sáp-ma cốt-lỗ đà, thương khư, hạ la hạ la, hồng, phán tra
Khí Trượng Mật Ngôn:
OMÏ _ TURU TURU _ UCCHUSÏMA KRODHA ‘SANÕKHA _ HÀRA HÀRA HÙMÏ PHẠTÏ
_ Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã
Nẵng mạc thất-chiến noa phộc nhật-la bá noa duệ, ma hạ dược xoa tế nẵng bát đá duệ
Án. Phộc nhật-la cốt-lỗ đà, ma hạ tán noa, hạ nẵng, na hạ, bát tả, mạt địa, vĩ-đặc noan sa dã
Y hê hề bà nga noan_ Hạ nẵng, hạ nẵng_ Hạ sa, hạ sa_ Na hạ, na hạ_ Bát tả, bát tả_ Vĩ đặc-noan sa dã
Nễ phộc nãi dần nại-la, bổ nĩ đế _Tát lật-phộc đát-ma nĩ đá_Tát lật-phộc đát-ma nhạ _Ma hạ đế nhạ_ Tô lỗ, tô lỗ _ Bổ lỗ, bổ lỗ _ Hổ lỗ, hổ lỗ _Cốt lỗ-vãn, cốt lỗ-vãn, ma hạ cốt-lỗ vãn _Cô nẵng trí, cô nẵng trí _Thất ninh, thất ninh _Chỉ ninh, chỉ ninh _ Khế ninh, khế ninh _Kha kha, kha hế kha hế _Cổ lỗ, cổ lỗ _ Tô lỗ, tô lỗ _ Củ lỗ, củ lỗ _ Đốt tra, đốt tra _ Đô la, đô la_ Hạ nẵng, hạ nẵng
Bố đá địa bát để, A tố la bổ la, vĩ đặc-phộc sa nẵng,ca la
Ổ thô sáp-ma cốt-lỗ đà, ma hạ phộc la_ Đạt ma, đạt ma_ Ca la, ca la_ Chỉ lị, chỉ lị _ Củ lỗ, củ lỗ _ Hồng, phán tra
Tô lỗ, tô lỗ_ Hồng, phán tra
Hạ nẵng, hạ nẵng _Hồng, phán tra
Na hạ, na hạ_Hồng, phán tra
Hột-lị duệ, hồng, phán, phán, phán, phán, sa-phộc hạ
Phụng Thỉnh Mật Ngôn:
NAMO RATNATRAYÀYA
NAMAHÏ ‘SCANÏDÏA VAJRAPÀNÏÀYE MAHÀ YAKSÏA SENÀPATÀYE
OMÏ _ VAJRA KRODHA MAHÀ CANÏDÏA _ HANA DAHA PACA MATHA VIDHVAMÏSAYA
EHYEHI BHAGAVAN_ HANA HANA _ HASA HASA _ DAHA DAHA _ PACA PACA _ VIDHVAMÏSAYA VIDHVAMÏSAYA
DEVÀNÀMÏ INDRA PÙJITE
SARVA ATMA JITA_ SARVA DHVAJA MAHÀ TEJA _ TURU TURU _ BHURU BHURU _ HURU HURU _ KURU KURU _ KURBAMÏ KURBAMÏ MAHÀ KURBAMÏ _ GUNÏATI GUNÏATI _ SINI SINI _ KINI KINI _ KHINI KHINI _ KHAKHA KHAHI KHAHI _ GURU GURU _ TURU TURU _ KURU KURU _ TUTÏTÏA TUTÏTÏA _ DHURA DHURA _ HANA HANA
BHÙTÀDHIPATI ASURA PÙLA _ VIDHVAMÏSANA KARA
UCCHUSÏMA KRODHA MAHÀ BALA _ DHAMA DHAMA _ KARA KARA _ KÌRI KÌRI _ KURU KURU _ HÙMÏ PHATÏ
TURU TURU HÙMÏ PHATÏ
HANA HANA HÙMÏ PHATÏ
DAHA DAHA HÙMÏ PHATÏ
AGRIYE HÙMÏ _ PHATÏ PHATÏ PHATÏ PHATÏ _ SVÀHÀ
_ Án. Phộc nhật-la cốt-lỗ đà, ma hạ đà la, đà la đà la, đa la dã đà la dã, hồng,phán tra
OMÏ _ VAJRA KRODHA MAHÀ DARA_ DARA DARA _ DARÀYA DARÀYA _ HÙMÏ PHATÏ
_ Án. Phộc nhật-la cốt-lỗ đà, ma hạ phộc la, tỷ hạ la tỷ hạ la, mãn đà mãn đà , hồng phán tra
OMÏ _VAJRA KRODHA MAHÀ BALA_ VIHÀRA VIHÀRA _ BANDHA BANDHA _ HÙMÏ PHATÏ
_ Án. Phộc nhật-la cốt-lỗ đà , ma hạ phộc la, ca la ca la, thân na thân na, hồng phán tra
Trừ Diệt Chư Chướng Mật Ngôn:
OMÏ _ VAJRA KRODHA MAHÀ BALA_ KARA KARA _ CCHINDHA CCHINDHA _ HÙMÏ PHATÏ
_ Án. Phộc nhật-la cốt-lỗ đà, ma hạ phộc la, khắc kha khắc kha, nẵng xá dã nẵng xá dã, tát lật-phộc chỉ la-vĩ sương, hồng phán tra
OMÏ _ VAJRA KRODHA MAHÀ BALA_ KHADGA KHADGA _ NA’SÀYA NA’SÀYA _ SARVA KÌLA VISÏÀMÏ HÙMÏ PHATÏ
_ Án. Phộc nhật-la cốt-lỗ đà, ma hạ phộc la, đà ca đà ca, nhạ la nhạ la, hồng phán tra
OMÏ _ VAJRA KRODHA MAHÀ BALA_ DHAKA DHAKA _ JARA JARA _ HÙMÏ PHATÏ
_ Án. Phộc nhật-la cốt-lỗ đà , ma hạ phộc la, a ca lật-sái dã, a ca lật-sái dã, hồng phán tra
OMÏ _ VAJRA KRODHA MAHÀ BALA _ AKARSÏÀYA AKARSÏÀYA _ HÙMÏ PHATÏ
_ Án. Phộc nhật-la cốt lỗ đà, tất-đam phách dã, tất-đam phách dã, mô hạ dã mô hạ dã, hồng phán tra
OMÏ _ VAJRA KRODHA _ STAMÏBHÀYA STAMÏBHÀYA _ MOHÀYA MOHÀYA _ HÙMÏ PHATÏ
_ Án. Phộc nhật-la cốt-lỗ đà, ma hạ phộc la, nhập-phộc la nhập-phộc la, bát-la nhập-phộc la, bát-la nhập-phộc la, nễ tỳ-dạ nễ tỳ-dạ, nễ ba dã nễ ba dã, hồng phán tra
OMÏ _ VAJRA KRODHA MAHÀ BALA _ JVALA JVALA _ PRAJVALA PRAJVALA _ ADITYA ADITYA _ DIPÀYA DIPÀYA _ HÙMÏ PHATÏ
_ Án. Phộc nhật-la cốt-lỗ đà, ma hạ ma la, đát tra đát tra, đát noa dã đát noa dã, hồng phán tra
OMÏ _ VAJRA KRODHA MAHÀ BALA _ TATÏTÏA TATÏTÏA _ TATÏTÏÀYA TATÏTÏÀYA _ HÙMÏ PHATÏ
_ Án. Phộc nhật-la cốt-lỗ đà, ma hạ phộc la, hạ nẵng hạ nẵng, đà la dã đà la dã, bát tra bát tra, bát tra dã bát tra dã, mô hạ dã mô hạ dã, hồng phán tra
OMÏ _ VAJRA KRODHA MAHÀ BALA _ HANA HANA _ DARÀYA DARÀYA _ PATÏTÏA PATÏTÏA _ PATÏTÏÀYA PATÏTÏÀYA _ MOHÀYA MOHÀYA _ HÙMÏ PHATÏ
_ Án. Tôn phách, ninh tốn phách, hồng, ngật-lị hạ-noa, ngật-lị hạ-noa, hồng. Ngật-lị hạ-noa, bá dã hộc. Bà nga vãn, vĩ nễ-dã la nhạ, hồng phán tra, sa-phộc hạ
OMÏ _ SUMÏBHA NISUMÏBHA HÙMÏ _ GRÏHNÏA GRÏHNÏA HÙMÏ _ GRÏHNÏA APAYA HOHÏ _ BHAGAVAN VIDYARÀJA _ HÙMÏ PHATÏ _ SVÀHÀ
62 vị Trì Kim Cương đó ở tất cả Thời, mật làm Hộ Trì. Nếu có người thọ trì , đọc tụng Đà La Ni này cho đến Thiên Hỏa ( Lửa Trời ) vẫn có thể chế phục được, người chết sống lại, hay chống được Oan Ma, cầu xin con đều được.
Nếu hay chia bày Đất ấy. Lấy một bụm nước, dùng Đà La Ni chú vào thì hay giải được độc của tất cả rắn, rết… Người mang thai đều được an ổn, xa lìa các khổ não, tất cả chỗ làm đều được thành tựu, tất cả Chân Ngôn cũng được thành tựu. Nếu có người hay thọ trì Kinh này sẽ được đại an lạc.
Bấy giờ I Xá Nẵng Bộ Đa Chủ ( I’sana Bhùtàdhipati ) , vô số câu đê Thiên Chúng đem các Chúng Đẳng tự vây quanh mình ở trong Mạn Noa La ấy, khởi đỉnh lễ dưới chân Kim Cương Thủ Bồ Tát rồi bạch với Kim Cương Thủ Bồ Tát rằng:” Thánh Giả ! Nay hãy vì chúng tôi mà nói Đại Lực Bất Không Thành Tựu Vô Lượng Dũng Mãnh Lực Đà La Ni này . Chúng tôi rất yêu thích, cho đến Phạm Vương ( Bràhma Ràja ). Đế Thích Thiên ( Indra Deva ). A Tu La ( Asura ) cung kính lễ bái. Dược Xoa ( Yaksïa ), Lạc Khất-Xoa ( Ràksïasa ) , Phệ Đát Noa (Vetadïa) , Ca Tra Bố Đát Nẵng ( Katïaputana ) , Ổ nẵng-Ma ( Unma ) đều khiến bị khủng bố, hoặc đánh hoặc giết, điều phục chúng ấy. Khiến cho Chìa khóa khóa Môn Quan (cửa nẻo ) đều hư rới không dư sót. Mạn Noa La Chủ ấy hay làm xong tất cả mọi loại sự nghiệp”
Lúc đó Chúng Đẳng ấy xưng dương tán thán Bộ Đa Chủ rằng:” Lành thay ! Lành thay Bộ Đa Chủ ! Ông hay vì các chúng sinh mà hỏi Đức Như Lai Trì Kim Cương như vậy”
Bấy giờ Đức Thế Tôn Kim Cương Thủ dùng chày Kim Cương ném bánh xe Tự Tại ( Tự Tại Luân ) . Thời Kim Cương ấy mau chóng giáng xuống trụ trong hoa sen Kim Cương, liền nhập vào Du Già Quán. Tất cả Mạn Noa La Chúng nhìn thấy vị Đại Phẫn Nộ , tồn thân có rắn độc quấn. Nếu muốn nhiếp phục tất cả Ma Chúng trong Mạn Noa La ấy thì nên vào Tam Ma Địa này. Ấy là vào Nhất Thiết Chúng Sinh Đại Bi Tam Ma Địa , Quang Diễm Phổ Chiếu Tam Ma Địa, Kiến Pháp ái Lạc Tam Ma Địa, Hiện Nhất Thiết Ma Vương Quốc Thổ Tam Ma Địa, Ấn Tướng Tam Ma Địa, Hiện Nhất Thiết Chúng Sinh Quốc Thổ Tam Ma Địa, Bất Động Tam Ma Địa, Pháp Aùi Tam Ma Địa, Nhất Thiết Pháp Hiện Tiền Tam Ma Địa, Đại Lực Tam Ma Địa.
Nhập vào Tam Ma Địa của nhóm như vậy. Lúc muốn nhập vào sẽ có vô số câu chi na dữu đa trăm ngàn Ma Vương tự sinh khủng bố, tự nhìn thấy mình bị Đại Lực Minh Vương ( Mahà Bala Vidyaràja ) cột trói. Chúng Ma ấy liền lớn tiếng khóc lóc giống như bị Kiếp Hỏa đến thiêu đốt, tự thân mệnh không thể chạy thốt. Chúng ấy liền đến nơi Kim Cương Thủ Bồ Tát ngự, báo với Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:” Thánh Giả ! Nguyện xin Ngài hãy nhìn vào mà thương xót cứu hộ cho con. Hỡi Đấng Thế Tôn ! Con rất đau khổ ! Đại Lực Minh Vương đã cột trói con, dùng roi đánh đập rất đau đớn khiến cho mất mạng trong phút chốc. Nguyện xin hãy cứu giúp ! “
Khi đó Kim Cương Thủ Bồ Tát từ Tam Ma Địa ấy đứng dậy bảo với tất cả 4 Chúng Đẳng trong Mạn Noa La rằng:” Đây là Thắng Đại Phước Đại Uy Đức Đại Phẫn Nộ. Như thị ! Như thị Thế Tôn ! Đây là Đại Phước, là Đại Uy Đức, là Đại Phẫn Nộ’
PHẬT THUYẾT XUẤT SINH NHẤT THIẾT NHƯ LAI PHÁP NHÃN BIẾN CHIẾU ĐẠI LỰC MINH VƯƠNG KINH
QUYỂN THƯỢNG ( Hết )

« Kinh này có tổng cộng 2 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Một trăm truyện tích nhân duyên (Trăm bài kinh Phật)


Sống và chết theo quan niệm Phật giáo


Những tâm tình cô đơn


Công đức phóng sinh

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.137.220.120 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập