Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bá Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký [百丈清規證義記] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Bá Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký [百丈清規證義記] »» Bản Việt dịch quyển số 1


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký

Kinh này có 9 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 |
Việt dịch: Thích Bảo Lạc

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

1.1 Lời Tựa Đầu Tiên
Lời Tựa Đầu Tiên Cuốn Bách Trượng
Thanh Quy Hàn Lâm Học Sĩ Dương Ức Khai Quốc Hầu Thuật
Bách Trượng Đại Trí thiền sư ứng dụng thiền từ Thiếu Thất (Đạt Ma) đến Tào Khê (Lục Tổ) tới lúc đó phần nhiều Ngài ở chùa luật tông. Tuy sinh hoạt nơi biệt viện nhưng đối với những việc thuyết pháp, trụ trì… chưa đúng Qui Tắc nên Ngài thường ôm hoài bão muốn chấn chỉnh; bèn cho rằng đạo của Phật Tổ là muốn giữ nguyên không bị biến thái, đâu có phải cùng hành như phái A Cấp Ma Giáo ư? Hoặc nói các Kinh Du Già, Anh Lạc là giới luật Đại thừa cớ sao y cứ vào đó chứ?
Ngài nói: Tông của ta không hạn cuộc Đại - Tiểu thừa; không khác Tiểu hay Đại thừa mà đem chiết trung chỗ sâu rộng lập ra qui tắc, miển sao cho thích hợp. Như thế ngài có sáng kiến lập thiền riêng là ở phàm mà vẫn đầy đủ đạo nhãn, có đức đáng tôn gọi là trưởng lão. Bên Ấn Độ vị trưởng lão đạo cao hạ lạp thâm niên được gọi là A Xà Lê, là vị thầy Giáo Thọ chính ngạch. Vị thầy ở nơi phương trượng như căn nhà nhỏ của Duy Ma Cật, không phải chỉ riêng phòng ngủ mà nơi đó còn là điện thờ nữa. Ở trước là Thọ Pháp đường tiêu biểu Phật Tổ quen thuộc mà đương thời tỏ lòng tôn kính. Nơi qui tụ đồ chúng không cần nhiều hay ít, cao hay thấp mà hể người đã vào tăng viện rồi đều căn cứ tuổi hạ mà sắp xếp, đặt giường theo dãy dài có hộc tủ, giá móc đồ đạc. Khi ngủ hẳn cần mền gối, nằm phải nghiêng bên phải theo thế kiết tường. Do vì hành giả ngồi thiền lâu chỉ cần chỗ đặt lưng xuống nghỉ phải đủ phép oai nghi. Trừ nhập thất, làm việc chung, học tập không phân trên dưới, không theo tiêu chuẩn, nhưng hể người đã nhập chúng (tăng viện) rồi thì sáng phải tham thiền, công phu, làm việc, tối tùng chúng tụng kinh, học tập, hội họp…
Bậc trưởng lão thăng tòa thuyết pháp, chủ sự làm việc chúng, lớp lang thứ tự, chủ khách thăm hỏi nhau. Xiển dương tông yếu là biểu hiện y pháp thực hành.
Ngày hai buổi cháo cơm tùy nghi thích hợp, cần kiệm miển sao cho dòng pháp mạch lưu thông. Công tác tập thể dưới trên đều góp sức, cắt đặt 10 việc xá (phòng) mỗi việc cử một người lãnh đạo trông coi chúng làm việc, làm cho mọi việc đều chu toàn. Nếu có ai giả dạng trá hình trà trộn trong chúng thanh tịnh, gây động chúng; liền phải cho Duy Na kiểm tra đưa ra giữa chúng xử phạt hay tẩn xuất ra khỏi viện, cốt giữ cho chúng được thanh tịnh. Nếu như có người phạm lỗi phải họp chúng bàn thảo hình phạt phải thích đáng rồi cho ra khỏi chùa như hình thức tẩn xuất, làm cho đương sự hổ trẽn. Hình phạt này có 4 điểm lợi:
1- Giữ cho trong chúng thanh tịnh làm cho người tin kính,
2- Không làm mất thể cách vị tăng để tuân lời Phật dạy,
3- Không làm quấy nhiễu cửa chùa, dè dặt đến cửa quan,
4- Không tiết lộ ra ngoài để giữ gìn tông phong.
Chúng cùng ở chung, thánh phàm cho rõ ràng. Ngay như khi Phật còn tại thế mà bọn lục quần Tỳ kheo còn quấy phá; huống chi ngày nay thuộc đời mạt pháp, đâu thể hoàn toàn không lỗi lầm được! Khi thấy một vị tăng phạm lỗi liền đem ra khiển trách (chỉ lỗi), còn hơn là chẳng biết để chúng coi thường làm hại giáo pháp, gây tổn thương cho đạo không nhỏ vậy.
Ngày nay thiền môn như ít đề phòng chỗ phương hại nên theo Thanh Quy tòng lâm của Bách Trượng có phân định từng mục, từng phần các việc hẳn hoi. Vã lại, luật pháp để phòng gian, không phải là để cho bậc hiền sĩ, thà có tư cách không phạm lỗi hơn là phạm mà không giáo hóa. Đại Trí thiền sư lập Thanh Quy- duy trì Phật pháp- thật lợi ích biết bao nhiêu! Đây là qui tắc duy nhất trong thiền môn được xem là xưa nhất. Đại cương của thanh qui định nơi Thanh Quy thứ mục rất thứ tự rõ ràng, lượng được chỗ yếu chỉ san định lại làm đèn sáng cho lớp đàn em.
Nhân đây mà viết lời tựa này.
1.2 Nguyên Tựa Thanh Quy Chứng Nghĩa
Quốc gia (chính phủ) trị dân có luật và lệ, Phật Tổ dạy chúng tăng có giới luật và Thanh Quy. Đạo Phật cũng như đạo Nho có luật; chỉ có điều Phật nói luật nhưng không nói thừa.
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch. Ngài vâng sắc chỉ của vua soạn ra Thanh Quy để ngăn trừ lỗi phạm của hàng tăng đương thời mà lưu lại tới đời Đường (618-907). Vào đời nhà Lương thiền nói riêng và Phật giáo nói chung chưa lớn mạnh, đến đời Đường giáo pháp Thiền có thể nói rất là cực thịnh. Ngài Bách Trượng sưu tập lại thành sách nên đặc biệt đề tên Ngài làm tên sách.
Toàn bộ gồm có 9 chương: chúc quốc gia hùng mạnh, dân tộc phú cường, báo đáp thâm ân như cha mẹ, sư trưởng, ân vua và ân Tam Bảo. Uống nước phải nhớ nguồn; những ngày vía Phật, Bồ Tát, những ngày giỗ kỵ chư Tổ sư tiền bối dày công xây nền đạo. Chương Trụ Trì có những công việc thiết yếu cần hành xử thích hợp như hai dãy Đông-Tây liêu chúng, các ban chức sự, pháp lục hòa sống giữa chúng. An cư kiết hạ, tuổi đạo (hạ lạp) và chương cuối cùng là pháp khí dùng trong chùa như chuông, trống, vân bảng, khánh, linh v.v… đều đưa vào Thanh Quy làm hiệu lệnh cho nhân thiên để lưu truyền rộng rãi.
Lành thay! Bậc sư biểu chỉ Bách Trượng Đại Trí là một người tiêu biểu nổi bật. Sách “Bổn Sơn Các ký” ghi rằng: “Đạo của Phật nhờ Đạt Ma mà sáng,việc của Phật nhờ Bách Trượng mà hoàn bị” Dù đời có lắm thiên sai vạn biệt, những hơn thua, bỉ thử, một mặt buông một mặt níu bất nhất. Văn phong có làm phật lòng một số người, nhưng không thể không mỗ xẻ phân tích để cho thật lợi ích nhiều người. Cho chí những đề cương, tiết mục lớn chưa từng thiếu trong Thanh Quy này. Tiếc thay việc lưu truyền đã lâu nên chân ngụy xen tạp khó phân. Cũng vì Phật Pháp đang trong buổi suy vi, giới luật như bị lơ là bỏ phế. Ôi, Thanh Quy đây ở vào lợi thế cao vút như thế- cứu nguy của thời đại- nên gấp phổ biến sách này vậy.
Ở đây tôi (Tỳ kheo Nghi Nhuận) tham khảo nhiều sách, chỉ có cuốn này là quá tuyệt, thấy các chương mục cũng giống như trong Đại Tạng Kinh và gần giống như mục lục cuốn “Liệt Tổ đề cương”, văn gọn mà lại trong sáng, nghĩa rõ ràng lại thâm sâu. Nghĩa lý đầy đủ nên có thể nói là sách khá hoàn bị. Hễ nghiên đọc dù kẻ căn sắc bén hay chậm lụt gì đều được lợi cả, nên không gian hay thời gian không còn là vấn đề nữa. Song sợ kẻ sơ tâm chưa am tường nên dẫn lời bậc cổ đức thành văn giải sơ lược để chứng minh đó, cốt để nêu lên yếu nghĩa càng làm cho thêm rõ ràng, gọi là Bách Trượng Tòng Lâm Thanh Quy chứng nghĩa ký làm duyên khởi cho cuốn sách.
Muốn tường tận ý nghĩa mong cho bậc thức giả đọc nội dung sách và cũng mong được chư vị tiếp tay lưu hành rộng rãi. Mấy lời sơ lược cẩn bạch cùng chư phương hiền giả liễu tri.
Đạo Quang năm thứ ba, nhằm năm Quí Mùi nhân ngày lễ Tự Tứ giải hạ, tại tệ liêu thư phòng chùa Chân Tịch- Cổ Hàng.
Cẩn bạch.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận
1.3 Tựa Khắc In Lại Thanh Quy Chứng Nghĩa
Thanh Quy một quyển tương truyền là của thiền sư Bách Trượng Hoài Hải lấy bản nguyên thủy của ngài Pháp Vân đời Lương, phụng sắc chỉ vua soạn ra mà tham khảo, sửa đổi đem khắc in lại.
Ngài vốn người Mân Trung (Phúc kiến) xã Phước Châu, huyện Trường Lạc, là con của giòng họ Vương. Từ nhỏ đã có chí xuất gia tự cạo tóc, cho tới lúc đắc pháp (gặp thầy ấn chứng). Ngài ẩn tu nơi núi non, tiếng đồn ra nên mới dốc lòng đi khắp bốn phương cầu học, đặc biệt lưu tâm tới luật tắc thiền. Lớn tuổi, ngài trụ tích ở chùa Thọ Thánh thiền tự thuộc Bách Trượng sơn tại Hồng Châu. Do qui tắc cũ ngài Pháp Vân soạn chưa hết bèn cố công đọc lại luật tạng rút tỉa góp nhặt những tinh yếu soạn lại để chứng minh cho người sau hiểu rõ yếu nghĩa mô phạm trong Phật giáo và đạo giáo. Người học đạo cố chấp nên đặt tin tưởng nơi một cuốn sách. Rất tiếc là sách ấy ở Triết giang nhưng bị thất lạc, tăng sa môn Mân (Phúc kiến) suốt đời lại không thấy được mà chỉ nghe được vài chương thiếu khuyết sai lầm quá nhiều, bèn muốn gởi mua một cuốn khác giá trị để đối chiếu khắc bản in lại nhưng ở Tây Hồ qua cuộc binh biến trước đó các bản kinh cũ bị thiêu rụi sạch.
Ôi! Khuôn phép người trước đây sao mà mai một đến thế? Vì chỗ lo sợ đó nên không quản vất vả nhiều cách sưu tầm hỏi thăm may mắn gặp được đúng cuốn sách muốn tìm ở chùa Mã Não. Vui mừng khôn tả cầm sách đến thương lượng các pháp lữ là Thiên Thành, Từ Thủ, Từ Định và Chiếu Nhân, cả bốn vị đều rất lấy làm phấn khởi vui mừng việc này vô kể. Nhân đó cùng quyên góp thiền sinh chúng thường trụ thuộc các sơn môn; đọc kỹ lại rồi cho khắc in để lưu thông rộng rãi.
Ước nguyện chân thành là vâng giữ làm đúng qui tắc mong không phụ chí nguyện tu hành đạo xuất thế mà như tôi đã lược thuật ở phần duyên khởi để ghi lại sơ lược.
Quang tự năm thứ tư ngày tốt tháng quế năm Mậu Dần,
viết tại Thiền Thất Long Đàm.
Tỳ Kheo Giám Viện Càn Đà
1.4 Lời Bạt
Bách Trượng thiền sư viết Thanh Quy gồm 9 chương mà phần luận thuật đều mô tả qui tắc thuần túy, lại được tỳ kheo Nghi Nhuận về sau dẫn thêm sự tích xưa thành lời giải thích bằng yếu nghĩa câu văn chứng minh rõ ràng khiến người học lớp sau một khi xem là thấy rõ như xem chỉ bàn tay, đó là công dụng của cuốn sách dạy cho ta vậy. Nên suy nghĩ tới lời Phật dạy: Thuyết pháp là đàm KHÔNG, nhưng trước hết nếu không từ thật lo công phu thì đạt đến không môn trong tương lai do đâu ngộ được? Cho nên hễ có đạo ắt có việc mà trong Thanh Quy đã đề cập. Đã có công hành trì hẳn có quả thực tế liền theo sau, cho dù siêu phàm nhập thánh cũng không phụ chí người học hạnh xuất thế.
Người xưa nói rằng: “Ngộ được khổ ở trong khổ mới là người đáng bậc thượng nhơn; vị tỳ kheo một bát cơm nguyên chẳng làm tự nhiên có được”. Mong cùng nhau tham cứu cùng với đại chúng sách tấn tu tập vậy.
Chùa Hoa Lâm tại Lãnh Nam, kính đề lời bạt.
Hậu học Khoáng Nhàn
1.5 Thanh Quy Thiền Môn
Thanh Quy Thiền Môn do Tổ Bách Trượng soạn toàn quyển (bộ) gồm 9 chương
1. Chúc nước giàu dân mạnh
2. Báo ân: đáp đền những ân đức cao trọng
3. Báo bổn (báo gốc): uống nước nhớ nguồn những ngày lễ vía Phật, Bồ Tát
4. Ân đức Tổ xây nền đạo
5. Vai trò trụ trì
6. Hai dãy Đông – Tây liêu chúng
7. Giữ phép lục hòa trong chúng
8. Kiết hạ an cư
9. Pháp khí, Hiệu lịnh trong chùa.
Phàm Lệ
Xác minh Thanh Quy cần có 13 điều như sau:
1- Thanh Quy từ đời Đường (thế kỷ 8) đến nay, thời gian đã lâu trên hơn 1200 năm. Tăng tôi liệt nêu điểm đặc thù của cổ kim, phong tục có khác nhau Nam-Bắc, do chưa thể thích hợp thời cơ; phép tắc có thêm bớt; hành theo gốc chung bắt nguồn từ đó. Nhưng các sách lưu hành hiện nay nếu không mắc phải lỗi quá rườm rà, cũng rơi nhằm chỗ quá giản lược. Quá rườm rà thì không hợp chỗ tịnh tu, quá giản lược lại không đáp ứng được việc thực hành. Duy chỉ có sách này không rườm rà cũng không quá giản lược mà ở bậc trung. Văn các nghi hàm đủ mà lý rõ ràng dễ dàng cho việc hành trì; lại rất thích hợp thời nghi đáng làm kim chỉ nam.
2- Từ Ngài Bách Trượng đến nay qua nhiều thời đại, lâu dài Thanh Quy nguyên gốc không có để khảo chứng mà bản còn lưu hành hiện nay phần nhiều do sự tích hậu thế. Tưởng cũng nên biết bản gốc viết tay do Bách Trượng hiệu đính đã bị thất truyền từ lâu. Nhưng không thể cho rằng sách này không phải do chính tay Bách Trượng hiệu đính mà không chỉ dẫn đúng, chính xác. Người nào tham cứu những việc cận đại hẳn thấy liên hệ tri thức lâu đời, tùy thời gian tùy nơi chốn mà việc trở nên dễ nhận biết. Bởi vì lễ tùy nghi có thay đổi mà dung thông để được lợi ích chung. Người xưa nói rằng: lời nói không có cũ mới hễ hợp lý là hơn; chỉ e người đọc thấy những việc cận đại nghi cho rằng không phải nguyên bản của Bách Trượng mà sanh tâm khinh thường mới đặc biệt nêu lên điểm này.
3- Thanh Quy nguyên gốc gồm có 9 chương, nay y theo đó liệt nêu các quyển. Chỉ có một phần Thủy Lục, nguyên ở chương Trú Trì, do văn quá dài nên nay in ở một cuốn riêng.
4- Các danh từ của Thanh Quy có cả cổ kim lẫn lộn. Như cổ gọi đầu thủ, nay gọi là Thủ tòa hoặc gọi là Tòa nguyên. Cổ xưng Giám tự, nay gọi là Giám viện; thậm chí thư trạng nay đổi gọi là thư ký hay tăng đường nay đổi thành thiền đường; cho dù đổi tên mà không đổi ý nghĩa. Vã lại, trong những điều quy định trước có mà nay không như điểm trà, xạ hương v.v…; trước không mà nay có như kỵ tổ thêm Bách Trượng, Thủy lục thêm Vân Sái… và không có ngay cả việc như xin lửa v.v…
5- Thanh Quy lưu truyền đã lâu không sao khỏi lấy giả truyền giả, như chữ chấp trong từ chấp sự, khảo rộng trong tự điển (Phật) không có chữ cho chức đó. Bởi vì chấp có nghĩa là chấp trì; người nắm giữ việc mà nhờ người làm, tuy nêu các chức của người giữ chức đó, nhưng do chấp là chức nên rốt cuộc thành gượng ép. Ngoài ra, như sai lầm về 3 y, như cúng thí thực v.v… nên ở đây cần phải đính chính sửa đổi.
6- Tập trung nghĩa không chẳng đầy đủ nhưng văn có lược rõ như nghi chúc diên có nêu rõ nơi chương đầu, lược bớt ở tiết bốn chúc thọ dịp Tết Nguyên Đán; lược bỏ những ngày sóc vọng (rằm, mồng một). Ngoài ra, những việc hằng ngày không thể nêu lên hết được. Nên nói rằng sách không thể nói hết lời, lời không thể hết ý mà chỉ do người khéo lãnh hội mà đạt được.
7- Phật sự ở tòng lâm tuy nhiều song không ngoài 4 việc:
a- Chỉ
b- Trì (chỉ tức ngăn dứt ác; trì là giữ giới, trì giới)
c- Tác trì (giữ các oai nghi tế hạnh)
d- Tụng niệm (làm cho pháp âm lan rộng);
Thuyết pháp (chuyển pháp luân hay truyền bá giáo pháp khắp nơi, làm tỏ rõ đệ nhứt nghĩa) hoặc chỉ do một việc, hai việc hay kiêm cả ba; hoặc do một mà hàm đủ cả bốn, chỉ do nơi vị Trụ Trì tùy nghi thiết đặt, đôi đàng hòa hài sao cho được lợi lạc. Quy tắc cổ không thấy xuất hiện đời nay.
8- Sách này từ ngài Phương Trượng cho đến ban chấp sự không một người nào chẳng đọc qua, mà với kẻ mới học thật là cần thiết để việc hành trì được thuần thục; chẳng nên gặp việc không nghi. Vã nhờ đó hành giả mới có thể thúc liễm hình nghi, huân tập tâm thức; hiện tại không buông lung gây thêm lầm lỗi, mai hậu mới xứng đáng bậc thầy mô phạm làm lợi ích không nhỏ vậy. Nên xem thêm sách Thành Nghi Nhơn Phụng cho đầy đủ hơn.
9- Sách này, ba hạng căn đều được lợi, người lợi độn căn đều thấm nhuần một lần đọc qua dường như văn dễ hiểu, đọc kỹ lại đến lần thứ ba, thứ tư nghĩa lý thâm sâu khó lường. Kẻ thô tâm hời hợt trong sách khó mong nuốt trôi. Trong tập này đối với chỗ nghĩa sâu khó hiểu thời dẫn chứng nghĩa rõ ràng dễ hiểu để tiện cho người sơ cơ lãnh hội.
10- Phần chứng nghĩa hoặc theo văn giải thích hoặc mượn sự rõ lý, như Nguyệt Kỵ, Tịnh Đầu v.v… hay bổ sung thêm nghĩa hoặc suy rộng diễn sâu cho người đọc đều phải lưu tâm chú ý.
11- Chứng nghĩa tuy do người chấp bút (Nghi Nhuận), nhưng lời dẫn phần nhiều do từ bậc cổ đức tức đem cổ so kim cho người dễ sanh lòng tin. Dẫn giải có chứng cứ như từ nhân vật nào, sách nào hẳn có nêu rõ danh mục. Nếu trích chương đoạn lấy y nghĩa mà không ghi rõ danh mục tức là thất sách, đâu dám lấy đó làm hay đẹp.
12- Tập trung tất cả văn chú giải, tưởng chừng như chẳng phải Bách Trượng trước thuật; cho nên sách của Ngài hoặc có trích dẫn hay không, nhưng với hàng Thích tử, không nên lấy lời phù phiếm làm công khóa để phân tâm tu tập mà căn cứ vào việc, mệnh lệnh không thể không tin tưởng nơi sự thích đáng. Cho nên ở đây vẫn chiếu theo nguyên bản ghi ra để người sử dụng thấy được sự thật; lại cũng đâu dám quá lời cho là tri thức nhưng cũng phải bổ khuyết thêm một ít.
13- Trừ Thanh Quy ngoài tạng bản ra, sách khắc in gần đây, thậm chí việc sao chép lại hoặc do không để ý làm sai lạc, hoặc do tự ý thêm bớt đem giả truyền giả, dần dần làm mất nguyên bản làm cho sự liên hệ di ngôn của lão Tổ về Quy tắc tòng lâm thật chẳng còn tinh tế. Nghi Nhuận tỳ kheo tôi có được bản văn này đem đối chiếu với tạng bản chừng như rập khuôn đại bộ không khác biệt. Nhân đó suy ra, đây là sách quí nên gấp phải lưu truyền rộng không để bị thất thoát mai một. Mỗi tắc một thuyết như dưới đây để chứng minh lời nói trên đây, mong người đọc giở sách đọc kỹ hẳn rõ, không còn nghi ngờ gì nữa. Ngưỡng mong các bậc cao minh kỳ túc bổ chính chỗ sai sót lỗi lầm, được vậy xin dám khắc cốt ghi tâm. Mong thay! Cũng mong các bậc thiện trí thức hiểu sâu ý Tổ, khéo thích hợp tùy nghi mà hiệu chính chỗ sai sót thì thật là vạn hạnh!
1.6 Tán
Tây Phương văn tự vốn toàn vô,
Hoài Hải Thiền Sư bậc phạm mô ,
Một quyển Thanh Quy như gậy hét,
Còn hơn hậu thế lập phù đồ .
Sáu thời lễ tụng ngọn đèn chăm ,
Tinh tấn cần tu mô phạm Tăng,
Thanh Quy không dụng như khuôn thước,
Nam thiền đảo ngược pháp Huệ Năng .
Đầu non Bách Trượng nhụy đơm hoa,
Tích xưa phòng xá của Duy Ma ,
Xuất gia vui đạo nhàn thanh tịnh,
Nên biết thiền môn sự sự đa.
Bến thanh đây dõi bước dò tầm,
Người tìm thoạt chứng ngộ thiền tâm,
Cành Nam, hướng Bắc phơ phơ động,
Bên tai đồng vọng pháp phạm âm .
Nam Huân – Tử Hư cư sĩ tại Nam Hải
1.7 Thanh Quy Tòng Lâm Nguyên Nghĩa Của Tổ Bách Trượng
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa, Chùa Chân Tịch
tại Cổ Hàng
Trụ Trì Diệu Vĩnh giảo chính, Chùa Giới Châu
tại Việt Thành
Đây là Thanh Quy chứng nghĩa, trước hết nói rõ 5 trùng nguyên nghĩa:
1- Lấy nhơn dụ - pháp làm danh
2- Quyền - thật - tướng làm thể
3- Giữ luật lệ nội hộ làm tông
4- Y pháp rõ sự làm dụng
5- Lấy sữa đặc bơ và dụng là giáo tướng.
1.7.1 Lấy nhơn – dụ - pháp làm danh
Trước tiên về nhơn dụ - pháp làm danh. Giải Nhơn vật là Bách Trượng hai chữ. Nhơn tức là Ngài Bách Trượng – tên bổn sơn mà nhiều người quen gọi là Đại Hùng Sơn, đường Long Hưng cách Quận Trị 300 dặm tại Hồng Châu, nay thuộc phủ Nam Xương, huyện Phụng Tân. Ngài là Hoài Hải đại sư, họ Vương ở thôn Trường Lạc, xã Phước Châu. Năm 20 tuổi Ngài thế phát xuất gia với Hòa Thượng Huệ Chiếu ở Tây Sơn, thọ Tỳ kheo giới với Pháp Triêu luật sư ở Hoành Sơn, đắc pháp với Mã Tổ Đại Tịch thiền sư ở Giang Tây; nhưng thuộc đời Chánh tông thứ 2 thiền phái Nam Nhạc. Ngài trụ ở núi Nam Nhạc này, Chùa Đại Trí Thọ Thánh Thiền Tự và phát huy thiền tông rất mạnh, chuyên hành trì giới luật nghiêm minh, thường dùng Chùa Lương Triều Quang Trạch làm đạo tràng vân tập chúng tăng, tận lực lập tăng chế, cho trùng tuyên luật tạng tham bác rộng, phân tích chi li, lập quy chế; công việc làm thích hợp thời cơ. Ngoài ra, chính Ngài lấy mình làm gương mẫu như mỗi ngày ra sức làm việc làm chỉ nam cho chúng. Chúng khuyến thỉnh thôi làm việc, Ngài bảo:
- “Ta không có đức nên dùng sức người”.
Chúng bèn thôi không khuyên nữa. Ngài liền nhịn ăn và nêu rõ mục tiêu: “một ngày không làm là một ngày không ăn”, nay còn truyền rộng trong đời. Ngài viên tịch vào ngày 17 tháng giêng năm Nguyên Hòa thứ 9, thọ 95 tuổi. Đến năm Nguyên Hòa thứ 13 cải táng mộ Ngài tại núi này.
Vào niên hiệu Trường Khánh nguyên niên, Vua sắc phong Ngài là Đại Trí thiền sư và hiệu tháp là Đại Bảo Thắng Luân, và Thanh Quy Ngài được lưu hành rộng rãi. Vào đời nhà Tống (tk10) niên hiệu Đại Quang nguyên niên, được Vua phong thêm hiệu Giác Chiếu và tháp hiệu là Huệ Tụ. In khắc lại Thanh Quy vào đời Nguyên, niên hiệu Nguyên Thống năm thứ 3, Vua sắc phong Ngài là Hoằng Tông Diệu Hạnh thiền sư hiệu Tăng Đức Huy; và cho trùng tu lại Thanh Quy lưu hành chốn tòng lâm.
Xưa Tư Mã đầu đà thường lại núi Bách Trượng toản ký, trong có bậc pháp vương cư trú, làm thầy tiêu biểu trong thiên hạ, thật là ứng hợp vậy. Y cứ theo bản đồ, Bách Trượng là tên núi mà Bách Trượng nói đây thuộc về Hồng Châu vậy. Lại từ đời Đường trở đi Bách Trượng là tên người, nhưng làm nổi bật một số người trước tác. Ở đây xưng là Hoài Hải Lão Tổ Bách Trượng, đó là đã giải lược về người xong.
Tiếp đây giải thích Dụ: Hai từ tòng lâm là Dụ; tòng lâm là một nơi thảo mộc đan xen dụ cho tăng phường, nơi chúng tăng cư trú, chỗ một số tịnh hạnh nhơn tu hành, điểm phát xuất gieo mầm đạo hướng đến Thánh quả, đem lại lợi lạc cho quần sanh. Lại theo nghĩa này có đầy đủ trong các kinh luật, như Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Ly thế nhàn có bài kệ thế này:
Bồ Tát Diệu Pháp Thọ
Trực tâm đất phát sanh
Tín căn từ bi hạnh
Trí huệ ấy là thân
Phương tiện chính cành nhánh
Năm độ thêm sung thạnh
Lá định, hoa thần thông
Nhứt thiết trí quả lành.
Ngoài ra, Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Thảo dụ cũng dùng thảo mộc tòng lâm để dụ người tùy cơ thọ sự giáo hóa. Cũng như trong luật có nêu rõ: phàm từ 4 vị tăng trở lên cho đến trăm ngàn vị cùng ở chung một nơi là đúng pháp biện sự, như nước với sữa hòa hợp gọi là tòng lâm. Suy rộng tiếng Tỳ Kheo mà xưng là Bí Sô, theo Tây Vức (Ấn Độ) gọi là cỏ có 5 đức:
1- Tánh mềm mại dụ cho đức định của vị tăng nhiếp phục được thân tâm không để thô lậu.
2- Như vải đan bện với nhau dụ huệ đức của vị tăng trong việc truyền pháp độ người như gấm bền không đứt.
3- Hương phảng phất bay dụ giới đức; hương giới thoảng mùi thơm làm cho mọi người nể trọng.
4- Hay trị lành bịnh đau nhức dụ đức giải thoát, có thể đoạn dứt phiền não làm cho mầm độc hại không khởi.
5- Không phản lại ánh sáng mặt trời, dụ đức giải thoát tri kiến; thường hướng tuệ quang Phật nhựt tỏa chiếu, giải thoát mọi tà kiến, tà nghiệp, cho nên Tỳ Kheo xưng Bí Sô là vậy.
Căn cứ hai thí dụ thảo mộc trên cho thấy làm vị tăng hoàn toàn nương vào sự tu tập làm gốc, cho nên nói rằng, trụ trì có đạo đức, tòng lâm ngày càng hưng thạnh; thiếu đạo đức tòng lâm càng thêm nguy khốn. Chúng tăng đủ 5 đức có quy củ thật xứng đáng; không quy tắc là hoàn toàn hỏng bét. Song quy tắc tòng lâm đâu phải dễ duy trì mà Tỳ Kheo cũng đâu có dễ xưng gọi được! Trên đây là giải thích dụ xong.
Tiếp theo giải thích Pháp: Hai chữ Thanh Quy là Pháp. Trước hết dựa vào sự giải thích có nghĩa là gạn cho lắng sạch, mô phạm thanh bạch, trải ra hằng ngày mà xiển dương giáo pháp Phật đà. Lại Thanh Quy chế định theo pháp có từng phẩm mục. Dựa theo cuốn 10 thuộc Hữu Bộ có đề cập 101 pháp Yết Ma, đức Phật dạy: “Vả như gặp việc mình tự ra trước chúng sám hối; không lừa dối, không che đậy. Như đối với một việc thuận theo là không thanh tịnh; ngược lại là thanh tịnh. Đây là việc bất tịnh đều không nên làm. Nếu như một việc thuận là thanh tịnh, ngược lại là không thanh tịnh. Đây là việc tịnh nên thuận theo mà làm”.
Luật Tứ Phần ghi: “Như Phật chế định không nên từ khước; không phải Phật chế thời không được chế”. Lời này dựa theo Thanh Quy Tổ Bách Trượng nhắc lại ý đó.
Ngoài ra, Kinh Phạm Võng ghi: “Lúc mời tăng phước điền cầu nguyện nên vào hàng tăng phường hỏi vị Tri sự xem, nay tôi (con) muốn thỉnh Tăng cầu nguyện.”
Thầy Trị sự đáp rằng: “Cứ theo thứ tự mời thỉnh. Như thế là mời được 10 phương các bậc hiền thánh tăng.”
Ngoài ra, luật Tứ Phần cuốn 10 mục Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề ghi rằng: “Bạch Đại Đức, nay vì Ngài nên có người gởi chiếc y giá trị này Thầy nên nhận cho”.
Vị Tỳ Kheo đó nên đáp: “Kia nhờ nói lời như thế, tôi không nên nhận y giá trị này. Nếu tôi cần y hợp thời thanh tịnh mới thọ”.
Vị Tỳ Kheo kia thay lời người ấy hỏi rằng: “Bạch Đại Đức, có người giúp việc không?”
Vị Tỳ Kheo cần y nên đáp rằng : “Có, hoặc người trong tăng già lam (chùa viện) hay là Ưu Bà Tắc. Vị Tỳ Kheo chấp sự này thường vì các Tỳ kheo mà làm việc đó.”
Lại như Kinh Dược Sư ghi rằng: “Có người tuy chẳng phá giới nhưng lại phá phép tắc”.
Nên biết Thanh Quy tòng lâm hồi Phật tại thế đã có rồi. Khi Phật giáo vào Trung quốc, từ đời Hán Minh Đế (thế kỷ thứ 1 Tây lịch) trở đi, nơi chúng tăng cư trú đông gọi là tòng lâm. Theo đúng giới luật hành trì là Thanh Quy vậy. Đến đời nhà Đường (thế kỷ thứ 7) thời kỳ Ngài Bách Trượng, Thanh Quy lưu hành tại Trung quốc đã hơn 600 năm rồi. Lâu ngày con người sanh tệ nên Tổ mới đề ra pháp này, ngỏ hầu gia tâm chấn chỉnh để lưu đức cho hậu thế. Kinh Hoa Nghiêm phẩm Hồi Hướng ghi rằng: “Bồ Tát lấy pháp thí làm đầu để nẩy sanh các thiện pháp thanh tịnh; gìn giữ đạt đến nhứt thiết trí”, đó là ý của Lão Tổ vậy.
Kế dựa theo lý giải thích: giới châu của Ngài Diệu Vĩnh giải chữ Thanh Quy như sau: như tâm ta vốn đầy đủ cái diệu đạo viên mãn. Luận tâm vốn viên minh; chỉ do mê, ngộ có khác; qua lại 10 cõi mà có khác biệt y-chánh báo, song pháp tánh vốn đồng và đầy đủ vậy. Nhưng tâm chuẩn mực của ta đầy đủ tất cả, hàm 10 cõi y chánh báo không thừa, là đồng nhau vậy; do cơ cảm mê ngộ nhân quả không sai lầm, là quy vậy. Thành sự lý vạn pháp nhưng không lệch, không lệch là trung vậy. Không dư thừa là giả vậy; không khác ấy là không vậy; không là giả, giả là trung, là 3 pháp quán tâm ta đó. Ba pháp quán đó có thể là dụng của quy tắc, KHÔNG chiếu chân dứt bợn trần, giả chiếu tục lồng trong vạn hữu, trung chiếu cả hai mà, không trụ ở hai. Chân là nhất chân, hết thảy chân, không tục không trung mà chẳng phải chân. Tục là nhất tục, hết thảy tục, không chân, không trung mà chẳng phải tục. Trung là nhất trung, hết thảy trung, không tục, không chân mà chẳng phải trung. Chân ấy, tục ấy, trung ấy tức là 3 đế nơi tâm ta. Ba đế ấy nương vào thể của phép tắc, do đấy bản thể khó mất, cho nên lấy pháp làm chuẩn đích. Đối với Phật giáo là luật tắc, Nho giáo là luật lệ, còn Tổ Bách Trượng gọi đó là Thanh Quy vậy. Tuy nhập thế - xuất thế không đồng, dù dứt ác sanh thiện tuy khác tên mà đồng nghĩa vậy. Đây gọi Thanh Quy là pháp như trên đã giải xong.
Đi vào phần chi tiết hẳn thấy rộng hơn như sau đây: qui định giải thích dụ cong ngay thành vuông vức, nay dựa trí đại chúng như cỏ do hộ trì giới luật trình bày. Lấy Kinh Kim Quang Minh giải thích làm thí dụ: Quy tức là pháp vậy.
1.7.2 Quyền - Thật - Tướng Làm Thể
Sách Trì Pháp Tụ ghi rằng, đạo vốn thật tế nhưng lễ, nhạc, pháp chế là quyền của chế hóa vậy. Không quyền thì giáo không lập mà đạo cũng không hành được. Khổng Tử viết bộ Xuân Thu, trước thuật sách Lễ Ký… là hoàn bị quyền pháp chế (pháp định). Muốn không dùng lời chỉ còn một cách là quán thông để hiển tỏ cái thật của tánh giác, tức hồng ân chư Phật rõ suốt ba cõi.
Pháp biến hóa một khi phát chiếu tự giác sinh hiện lượng thánh trí. Dùng khai – giá – trì - phạm của quyền - thật tướng làm hiển phát sự tin hiểu là thể dụng của hành chứng được nhất như.
Như hội Linh Sơn có số chúng đông đến trăm vạn người mà có được sự hòa hài không trái chống nhau, chẳng làm mất thanh danh như nước hòa với sữa, nên mới có câu rằng: “không trị mà chẳng loạn; không nói mà tự tin, nhìn kim tướng Phật mà cảm hóa, và chẳng cần đợi phủ dụ, khuyến cáo, răn dè mà vẫn tự răn dè vậy.” Và những người hành thiện, tránh ác mà làm phép tắc của luật nghi như mái che, đòn chống, hẳn không lưu lại gì nơi Niết Bàn cả.
Phật cố xoay mệnh lệnh bảo rằng:
- “Tỳ Kheo các con vào lúc sau khi Ta diệt độ, các con phải tôn trọng Ba La Đề Mộc Xoa (giới luật) là Thầy của các con; vương pháp ấy giáo hóa cả đại thiên mà chở che cho mai hậu.” Bậc trí chẳng vượt qua đó! Lý - Sự không hai là lời dạy bất nhị rất sáng tỏ vậy.
Vào thời kỳ chánh pháp giáo pháp mới bắt đầu khởi sắc; lúc đó Phật pháp hưng thạnh, mọi lễ nghi phép tắc đều còn hòa hưỡn.
Từ Ngài Đạt Ma trở về sau mới truyền riêng tâm yếu, người thực chứng nhiều, nhưng trong số chẳng phải không có kẻ phù hư, đến phải rơi vào số không! Như lấy dung nghi tướng bề ngoài đo đạc là không đủ làm thước đo phẩm hạnh, là không đúng trình độ; không rõ phép quyền đến thật, thật ở đâu? Không cần Quyền đúng là bậc đại trí đáng làm mẫu mực; Dụng để tán thán luật tắc; Kỹ cương giềng mối ở Lan nhã vắng lặng, là long tượng dũng mãnh, không tin sao? Lý không ngoài sự mà việc Phật nơi Không môn (cửa Thiền) không bỏ một pháp. Nên lấy quyền - thật tướng làm Thể vậy.
1.7.3 Trì luật giữ nội hộ làm Tông
Cho dù Tiểu Thừa hay Đại Thừa đều phải hành trì giới luật. Một lời xấu ác đã phát ra, ngưng làm tức gìn giữ, đây cũng chính là Thanh Quy vậy. Chốn Thiền môn có điều luật cấm lỗi, ngăn quấy v.v... là để giữ luật, dứt ác. Mỗi mỗi nghi tiết như tham thiền, niệm Phật v.v... là giữ luật hành trì. Cả hai điều dứt và làm đây phù hợp với giới luật.
Ngoài ra, lấy đức cảm hóa người làm cho họ phát tâm tin Phật pháp. Trong lo việc duy trì chánh pháp, luôn đem pháp truyền bá sâu rộng, làm cho bánh xe pháp lưu chuyển mãi không ngừng, như vậy để lợi mình và lợi người: Đây gọi là giữ luật bên trong làm Tông vậy. Nếu người không giữ giới luật, không theo đúng Thanh Quy chính là ác ma tự phá diệt Phật pháp.
Kinh Phạm Võng ghi: “Phật pháp chẳng phải ngoại đạo, thiên ma phá được, như sư tử chỉ có vi trùng bên trong mới ăn thịt nó; giáo pháp của Phật cũng thế, chỉ đệ tử Phật mới tiêu diệt được mà thôi.”
Kinh Lăng Nghiêm ghi rằng: “Thế nào là kẻ tặc? Kẻ mượn chiếc áo ta, bán đứng Như Lai, tạo đủ ác nghiệp lại cho là Phật Pháp, hủy báng người xuất gia thọ giới tỳ kheo, làm người truyền đạo, do đó làm cho vô số chúng sanh lầm phải đọa vào địa ngục Vô gián.” Do chỗ tệ hại đó, khi Phật sắp nhập Niết Bàn, luôn nhắc nhở chư Tỳ kheo giữ giới luật; lại quở trách người phá giới. Người giữ đúng luật là người thật sự giữ giới mà ở đây gọi là Thanh Quy, nghĩa thật là nghiêm túc, nên lấy việc trì giới luật bên trong làm tông vậy.
1.7.4 Y pháp luận sự làm dụng
Y pháp luận sự làm dụng có hai việc:
1- Việc thường xảy ra như ngày Tết, lễ Thanh Minh, cho chí lễ Phật Đản, ngày giỗ Tổ v.v.. có ấn định thời gian tổ chức.
2- Việc bất thường như lễ Khánh Chúc, cầu thọ, nhậm chức trú trì, lui về Phương Trượng v.v... Việc trước việc sau có tổ chức hay không, không nhất định.
Như vậy, việc tuy nhiều mà ở đây chỉ nêu có 2 cũng đủ, gọi sự để làm rõ lý, vì rõ lý mới dễ giáo hóa. Nhưng việc thường gặp trở ngại phải biết khéo léo quyền biến để sự giáo hóa mới chu toàn. Xưa nay chư tăng cần phải biết rõ nghĩa này không nên bỏ bê không làm sai nghi cách (quy tắc). Người co cụm do hoặc cố chấp không hiểu biết đến đổi cách ngăn khó thực hành, nhắc tới Thanh Quy là bịnh, không sai lầm sao! Phép tắc đạo dần dần suy rồi đưa tới chỗ tệ hại ấy.
Trước hết phải đề xướng ý nghĩa luật cho thấm nhuần mà không ngại chỗ quê hèn, lấy đây làm sách tấn vậy. Vã nên y pháp luận sự mới thấy rõ việc đổi ma thành Phật, chuyển tà thành chánh, trừ gian manh đem an lạc tới mọi người, chỉnh đốn lễ nghi, trưởng dưỡng đạo đức, làm cho tòng lâm hưng thạnh. Giáo hóa chúng sanh không bỏ sót một ai, mới gọi là mạng mạch tăng bảo, nếu không giới luật, Thanh Quy thì không thể nào tồn tại được lâu dài, phải tin như thế.
1.7.5 Lấy Sữa Đặc - Dụng Làm Giáo Tướng
Ngài Thiên Thai trí giả trích dẫn Kinh Niết Bàn nói rằng: “từ bò mà có sữa cho đến bơ” 5 vị để luận một đời giáo hóa của Như Lai chia làm 5 thời:
1- “Thời thuyết Kinh Hoa Nghiêm dụ như sữa,
2- Thời nói Kinh A Hàm dụ như sữa đặc,
3- Thời nói Kinh Phương Đẳng dụ váng sữa sống,
4- Thời nói Kinh Bát Nhã dụ như váng sữa chín,
5- Thời nói Kinh Pháp Hoa, Niết Bàn dụ như bơ.”
Thanh Quy này cũng mượn dùng ví dụ của Kinh trên. Phân định sữa – bơ đều là Dụng của 5 thời Phật thuyết giáo. Kinh Phạm Võng và Kinh Hoa Nghiêm nói đồng thời, chỗ thô chỗ diệu dung hợp, mảy may tinh tế không chi chẳng phải nhứt chân pháp giới; có nghĩa là lời lẽ răn đời, tư cách, nghề nghiệp v.v.. đều hợp với chánh pháp. Nay với Thanh Quy này, nghĩa tuân thủ Kinh Phạm Võng để cho kẻ thượng căn hành trì; lý-sự vô ngại, nơi nào cũng viên mãn đặc trưng như vị sữa. Đến như Kinh A Hàm tuy chuyên về pháp sanh diệt Tứ Đế , nhưng quy định của Tiểu Thừa là ngộ vô sanh, vô tác; còn lý của Đại Thừa khởi từ bơ cũng phát xuất do váng mà váng sữa do sữa đặc mà có. Thanh Quy đây so với Kinh A Hàm tức nằm trong phạm vi Tiểu Thừa, khiến cho nó cũng đóng vai trò dây mực, có nền móng chớ để hư hỏng, như người có 2 tay, hai chân không thiếu lại mặc áo quần đẹp càng xinh; như bức họa khéo pha chế màu không kém làm cho màu sắc trở nên nổi bật, mới có thể so sánh sữa đặc. Cho nên lấy sữa đặc dùng làm giáo tướng.
Trước đây Ngài Tông Hy nói rằng, các lệ chốn thiền môn, dù không phân thành 2 hình thức giới luật và con nhà mô phạm, nhưng phải có một mẫu mực qui định. Như vậy, trong việc thọ dụng người tu tự nhiên có tư cách thanh cao khác thường; còn kẻ gặp việc xây mặt vào vách, là làm mất cái thể con người vậy. Vì thế, người xuất gia phải trải qua các tòng lâm, đến tham học phương xa.
Người đầy đủ kiến văn hiểu biết hẳn làm tai mắt (lãnh đạo) tức chuẩn mực để nhờ đó trang nghiêm chùa viện, thiết lập đạo tràng hoằng pháp, tức làm Phật sự ở thiền môn; thiếu một không được, như Bồ Tát đủ ba tụ giới Thanh Văn bảy thiên luật . Đâu còn niềm vui nào hơn của đạo pháp nữa. Đúng là tùy căn cơ mà lập giáo, kẻ hậu học sơ cơ phải thật khéo léo tham vấn bậc trưởng thượng thương xót chỉ dẫn.
2. Chương một: Chúc Diên – Chúc Quốc Vương
Lời thuật nói rằng, con người quí ở cái đạo sáng nên từ xưa các bậc Thánh đế tôn sùng lời dạy của các Thánh nhân Tây phương; chẳng lấy cái lễ thường đối đãi ta mà tôn thờ cái đạo các Ngài. Đã được triều đình ưu đãi đến thế, lại đặc miễn thuế má sưu dịch, làm cho dân an cư mà hết lòng với đạo. Ân vua rộng lớn không thể dùng lời tả hết được, làm tăng ắt phải ngộ Phật tánh, nghiêm giữ giới luật. Nhiều người chẳng có ý cậy nhờ vào Triều đình thịnh vượng mà lại sớm tối chúc diên, mong ân Phật từ bi gia hộ, lòng trời soi chiếu cho quân vương chăn dân lấy đức lành cảm hóa. Xây đời lấy nhân làm ranh vực. Ngõ hầu ngưỡng vọng báo đền ân trong muôn một nên thấy những việc hằng ngày, kính cẩn ghi chép ra để mà duy trì các phép tắc vậy.
2.1 Lập nghi chúc Thánh.
Vâng mệnh thiết các lễ chư Thánh
Kinh Kim Cang Vô Lượng Thọ có ghi rằng, việc sở trường sở đoản tùy theo, tăng không ngoa ngụy dối gian chứng tỏ lòng cung kính. Trước tiên việc lập đàn có 3 mục: phòng khách chuẩn bị giấy mực các thứ, phòng thư ký, vị tri khách (tiếp khách - tiếp tân) đến tiếp xúc lễ một lễ bạch rằng:
- Thưa… ngày đó, tháng… năm đó có lễ thánh tiết, xin cảm phiền Đại Đức… cho vài lời sơ lược. (Nếu thư ký không có mặt, Thầy Phó thay thế, trong trường hợp cả hai đều vắng, nên dùng phần sau đây đáp sơ). Thư ký đúng phép tắc bạch xong, đều giản đơn đem trình cho vị Trụ trì xem qua rồi đích thân tới phòng khách thưa thỉnh: lễ một lạy, đáp lời thỉnh cầu… Thầy tri khách dùng giấy vàng viết chữ và các chi tiết liên hệ vào tờ sớ. Lập đàn trước hết là phòng khách, mời vị Duy Na (thủ chuông) cùng chư tăng tụng kinh cầu nguyện. Kế đến linh động sắp xếp trình cho Trụ Trì xem xét xong; mời Trụ Trì lên Phật điện hướng dẫn chúng tụng kinh chúc Thánh. Nên sửa soạn chánh điện, quét dọn sạch sẽ hẳn thiết lập Kim Cang Vô Lượng Thọ đạo tràng, thiết trí cho thật trang nghiêm, treo các liễn trướng… ghi rõ ngày… tháng… năm… cung chúc thánh đản vạn thọ hiệp cùng đại chúng bổn viện vân tập Phật điện, tụng các thần chú, niệm danh hiệu Phật Dược Sư, phục nguyện... Phật nhựt soi tỏ, Thánh thọ vô ngần v.v...
Mời cho được 20 vị tăng tụng kinh, tối thiểu cũng phải 10 vị mỗi ngày. Chương trình gồm có thuyết pháp, tọa thiền hay niệm Phật, cúng ngọ, bái sám, tụng kinh… tùy nghi cho thích hợp.
Có thể đọc lòng sớ như sau:
Sớ rằng: cảnh vận rộng khai, thánh nhân tạo dựng mà có vạn vật; hồng ân lợi nhuần một nhân vật nhưng triệu người được nhờ; thọ mạng vô cùng, trời đất khó đo lường được chỗ cao dày, chiếu soi sáng tỏ. Mặt trời mặt trăng khó dụ ánh quang rực rỡ; vốn biết rằng có tán dương cũng khó tận mà muốn báo đáp cũng vô cùng. Chỉ bày hun đúc người tài đức biết trọng 4 ân hết lòng trung tín, tâm thành kính chúc. Nay tại Châu Diêm Phù Đề trong bốn châu …quốc, …. tỉnh, ….quận …phố khu…, …đường, chùa (tên chùa). Hôm nay là ngày… tháng… năm… nhân dịp lễ Khánh tiết, bổn tự thiết lễ nghi diên hoàn bị, kiền thỉnh đại đức chúng tăng vân tập bảo điện, lập Kim Cang Vô Lượng Thọ đạo tràng. Vài ba ngày nên thỉnh tăng luân phiên tụng kinh Hoa Nghiêm (Kinh Đại Phật đảnh vạn hạnh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Phương quảng Viên Giác tu đa la liễu nghĩa, Kinh Kim Cang Bát Nhã ba la mật, Kinh Nhân Vương hộ quốc bát nhã, Từ Bi đạo tràng Sám Pháp, Lương Hoàng Sám pháp…) trong mỗi Kinh tụng thêm các bài thần chú mật ngôn, tụng danh hiệu Phật, kỳ cầu hồng ân, phụng vì khánh chúc: trên hoàng thượng thánh thọ vạn tuế vạn vạn tuế.
Lại nguyện: sao Xu cao chiếu sáng lòe, long tượng hòa hài, lưới trời lồng lộng; núi sông bao dung lượng thánh hàm tàng 3000 hoa tạng thế giới, lợi ích thấm nhuần bất tận; ngưỡng cầu: thần long che chở, sao tinh chiếu dọi thiên hạ thái bình, 4 mùa an ổn, quốc dân hòa lạc mà đất nước cường thịnh.
Phật nhật sáng soi
Long thiên chiêu cảm
Xin chí thành dâng sớ tỏ bày.
Ngày…tháng…năm…
Trú trì: Sa môn (tên) cung đọc xong.
(Nếu có viên chức chính quyền dự, mời chủ trì mỗi vị nên biên tên họ đầy đủ. Sớ này ghi chữ rõ ràng, ở đầu tờ sớ thêm vào 4 chữ lớn: Vạn Thọ Vô Cương. Cũng như đọc sớ phải nhằm ngày lễ chánh. Đàn tràng cúng trước giờ ngọ và đại chúng cùng tụng kinh).
Đọc: Nam mô vô lượng thọ Phật (xong rồi đốt sớ).
Thọ mạng vô lường
- Xe vàng và xe pháp cùng chuyển bánh, phước vượt khỏi 3 kỳ
- Thuấn nhựt và Phật nhựt cùng sáng lạn, thọ mạng kéo dài ức kiếp.
Khắp nơi đồng mừng
- Một nhân vật tự tại như mây kéo qua mặt trời, sao vằng vặc rạng chiếu cùng biển đất
- Thọ mạng vô lường như rồng ôm bản đồ, phượng xây lầu gác, quốc gia bền vững
Ngưỡng xem Bắc Cực
- Tám tờ biểu dâng vua, đồng quay về giáo hóa
- Muôn dân triều cống, người người đồng hưởng an lạc thái bình.
(Những câu trên viết treo nơi hàng ba trước chánh điện).
- Chứng nghĩa ghi rằng: thánh tiết hay còn gọi là vạn thọ tiết hoặc xưng là thiên thọ. Vì đây là ngày (giai tiết) của Thánh nhân đản sanh. Sách Trung Phong ghi rằng, chỉ trồng cây sanh giữa đất trời mà không chăm tưới bón, chỉ giòng họ Thích ta mới được thấm đến như thế! Sao không lấy đó làm bằng. Cô lập, hư, mềm, yếu mà không tự đứng được. Nói cô lập là một mình xa cách người thân, không kinh doanh như người đời, hư là sống nhờ đàn việt không cày sâu cuốc bẩm. Nói mềm là làm cho tâm lắng chìm vắng lặng, giữ phép tắc nội quy, nói yếu là giữ gìn chân tánh, không cạnh tranh hơn thiệt. Mình chưa là thánh nhân nên đừng quên lời Phật dạy: cong rủ giữ vẽ ngoài thì vườn tăng đủ tươi. Há dám tự xưng tăng mà không lấn đoạt nơi tay người khác ư? Do vậy, chúng ta an ổn nhàn lạc, một giờ, một khắc hàm dung ân đức bậc thánh. Dù nhờ trời che đất chở cũng không thí dụ hết được. Phải quyết lòng cầu pháp, trọn đời buộc ràng với đạo, cho chí tan thân mất mạng cũng không đủ đền đáp một phần trong muôn một. Đâu lại thong dong biếng lười sa đọa, để lần lửa qua ngày mà đắm chìm trong lạc dục ư? Cho nên, ngày lễ thánh hợp như pháp thiết lễ cúng bái, tụng kinh để báo đáp ân quốc vương.
2.2 Ngày lễ chánh, sáng sớm chúc:
Đúng ngày lễ: thời khóa công phu sáng: đốt hương, thị giả cầm hương chờ, đủ đồ pháp khí tang, linh, khánh, đại chúng tể tựu đầy đủ; vị Trụ Trì niệm hương, cắm hương lên lư. Thầy Duy Na (thủ chuông) tán bài:
Lư vàng hương đốt thơm lừng,
Khói xông ngào ngạt khắp cùng 10 phương,
Thành tâm hiến cúng pháp vương,
Nguyện vì chúc thọ quân vương,
Đất bền, trời vững an khương thái hòa.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Sau khi tán xong, đại chúng đồng niệm Chú Thánh Vô Lượng Thọ Quang Minh (3 lần).
Thầy Duy Na xướng: “Dược Sư Như Lai”; đại chúng cùng hòa theo: “Dược Sư Như Lai”.
Thầy Duyệt Chúng xướng: “Pháp Vương vạn tuế”; đại chúng đều niệm lớn: “Dược Sư Như Lai”.
Thầy Duy Na xướng: “Pháp Vương vạn tuế”; đại chúng cùng niệm lớn: “Dược Sư Như Lai”.
Thầy Trụ trì xướng sớ; thầy Duy Na quỳ sau hay bên cạnh đọc sớ, sớ rằng:
Bậc Đại giác Thế Tôn,
Ứng hiện nơi trời tây,
Tâm dung tợ hư không,
Đức trùm cõi sa giới,
Một trong bốn thiên hạ,
Cõi Nam Thiệm Bộ Châu.
….quốc,…tỉnh,…phủ,…huyện, …chùa
Sa môn tên.
Hôm nay ngày… tháng…năm… nhằm ngày lễ Thánh tiết giờ thiêng, hiện tại tăng chúng tề tựu tại đại hùng bảo điện (chánh điện), phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng danh thánh hiệu, nguyện cầu hồng ân gia bị. Nay đương vì thánh vương kỳ cầu: vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế…
Duy Na đọc tiếp:
Cầu nguyện quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, văn võ bá quan đều được nhuần ân đức, lộc vị hiển vinh. Lại nguyện: mưa hòa gió thuận, lúa thóc được mùa, tám phương ca tụng đạo quân vương, bốn biển vui vầy cảm hóa đạo nhiệm. Ngưỡng mong đại chúng đồng niệm: Kim Cang Vô Lượng Thọ: Hộ quốc nhơn vương Bồ Tát Ma Ha Tát.
Tiếp theo tụng Kinh Lăng Nghiêm.
Nam mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần). Đọc xong 5 đệ, tiếp đọc chú đại bi, 10 bài chú khác, Bát Nhã xong đọc: Thượng lai hiện tiền thanh tịnh chúng…
Kế tán Phật Dược Sư:
Phật Dược Sư phóng tỏa hào quang,
Sáng rực rỡ nghiêm trang khó lường,
Bao nhiêu hạnh nguyện lợi hữu tình,
Mỗi mong được an tường thỏa mãn.
Nam mô đông phương thế giới, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
Đứng lên đi nhiễu Phật đồng niệm: Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (3 vòng xong, chủ lễ xướng, đại chúng đảnh lễ):
Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (12 lạy)
Nam mô Nhựt Quang biến chiếu Bồ Tát
Nam mô Nguyệt Quang biến chiếu Bồ Tát
Nam mô Dược Sư Hải Hội Phật Bồ Tát (mỗi hiệu 1 lạy).
Đại chúng về Tổ Đường, tác bạch cảm tạ, đảnh lễ v.v.. Ngày này chúng luân phiên tụng niệm, cúng ngọ, thọ trai quá đường, kinh hành niệm Phật v.v..
Chứng nghĩa ghi: Thanh Quy là chiếc mũ đội đầu, chúc Thánh là khâm tuân lời Phật dạy, báo đáp ân tổ quốc. Y cứ Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán, Phật dạy ân tổ quốc có 10 đức. Nay tăng chúng chúng ta cùng ở thời thanh bình thạnh trị, may mắn gặp được bậc minh quân, ân vua như mặt trời mặt trăng sáng tỏa, đức như trời đất chở che. Nói chung vua có 10 ân đức cần phải giữ gìn: 1) Kính tôn Tam Bảo, tuân lời Phật phó chúc (quốc vương) 2) Kiến lập chùa viện làm đạo tràng duy trì Phật pháp 3) Ấn hành kinh tạng để Phật pháp tồn tại 4) Cấp giới điệp tăng già, học hỏi không ngừng 5) Miễn trừ tăng tịch cho việc xuất gia được tiện 6) Ban cho nguời bảo hộ trang nghiêm chốn già lam 7) Truy phong bậc cổ đức, tôn trọng người chân tu 8) Hàng năm ban tặng tiền hoa quả, nhang đèn cúng Phật để tạo phước lâu dài 9) Riêng đặt chức quan cho tăng, người đời không hỗ danh tăng già 10) Không bắt tăng sĩ làm lao động mà cho họ yên tâm hành đạo.
Mười ân đức của quốc vương như thế đó phải biết để mà đền đáp hợp tình hợp lý.
Phật dạy: Ta có ngũ nhãn thấy rõ biết các quốc vương ba đời đều do đời quá khứ thân cận hầu hạ 500 đức Phật nên đời này được làm vua. Thế nên, các bậc thánh nhân, La Hán mong sanh vào nước của các vua đó làm nhiều việc lợi ích. Ta phái 5 vị Bồ Tát đại lực, 5 đại sĩ, 5000 vua đại thần tới ủng hộ vua các nước đó. Vì thế, nay ta đem Tam Bảo giao cho các vị quốc vương v.v… Như Kinh Đại Niết Bàn và các Kinh nói rõ, đều có lời Phật dạy vua giữ ngoại hộ, nên nêu ở đầu vậy.
2.3 Cử hành ngày chúc thánh hoàn mãn
Đại chúng nên tụng kinh, lễ lạy hồng danh sám hối để tiêu trừ nghiệp trước, cầu nguyện nhà nhà an lạc, quốc vương sống lâu để trăm họ được nhờ ơn phước như biển không bao giờ cạn; như sư tử trong hang sanh sản sư tử con rồi chui ra khỏi hang núi, là tốt là điềm lành trải khắp 9 phương, cỏ cây, côn trùng đều nhờ ân hưởng. Cúi đầu lễ lạy là việc khó nghĩ bàn. Ví như các vì sao vây xung quanh trăng sáng, nên nay tuyên dương pháp vi diệu trong đệ nhứt nghĩa chân thật.
Chúc diên công đức hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Cầu khắp chúng sanh nghiệp nặng sâu
Sớm sanh Tây Phương Tịnh Độ mau
Mười phương ba đời chư Phật thảy
Tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.
Tiếp theo: nghi chúc thọ Hoàng Hậu (lược bỏ phần này vì ngày nay không còn thích hợp).
2.4 Nghi thức nhận sắc chỉ vua ban
Nên tổ chức tiếp rước sắc chỉ long trọng, Trụ Trì suất tăng chúng ra xa chùa 5 dặm rước sắc chỉ trên long xa vào chùa, tăng chúng đứng 2 bên nghiêm chỉnh. Trong chùa thiết bàn riêng để sắc chỉ lúc thỉnh tới, chuông trống Bát Nhã trổi lên khi đoàn rước tới nơi. Tất cả đồng quỳ chở kiệu đi qua, mọi người đứng dậy theo sau kiệu. Kiệu đặt giữa điện, chư tăng đứng hai bên.
Tri khách xướng: “Hoàng ân ngự giá sơn môn”.
Đại chúng đảnh lễ ba lạy, vạn tuế.. lễ xong, thư ký cầm tờ chỉ quỳ gối hướng phía đông tuyên đọc xong để lại khay nơi kiệu. Vị Trụ Trì tới trước kiệu dâng hương lễ 3 lạy xong cùng đại chúng lạy tạ 9 lạy. Chuông trống bát nhã trổi 3 hồi, chư tăng tụng: Nam mô Vô Lượng Thọ Phật.
Thỉnh sắc chỉ để vào lầu kinh các. Duy Na xướng:
Thiên long thánh chủ giúp đời châu viên
Ân vua sâu nặng khó thể nêu danh
Báo đáp giữ nơi tâm
Chúng tăng lòng thành
Đội ân đức nào quên!
Nam mô Kiết Tường Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
* Bốn ngày chay bảo hộ sanh mạng mỗi tháng, mồng 1, mồng 8, 15, 30 là 4 ngày chay để bảo hộ sanh mạng. Tại chùa, 2 ngày rằm, mồng một là những ngày Bố Tát, tụng luật Tứ phần giới bổn hoặc Kinh Phạm Võng Bồ Tát giới (tụng thay đồi: nửa tháng tụng luật Tỳ kheo, nửa tháng tụng BồTát giới Phạm Võng Kinh).
Chứng nghĩa ghi: bốn ngày chay là để hộ mạng, khởi đầu từ đời Tùy niên hiệu Khai Hoàng thứ ba, ban ra cho dân chúng mỗi năm 3 tháng là tháng giêng, tháng 5 và tháng 9 cùng với 4 ngày chay tịnh, 6 hay 10 ngày chay. Tại các chùa có thiết lập đạo tràng cầu thọ mạng, không giết hại sanh mạng loài vật. Trong Kinh có dẫn câu chuyện Tỳ Sa môn thiên vương, mỗi năm đi tuần thú bốn châu lớn, vào các tháng giêng, tháng 5 và tháng 9 đến châu phía Nam nên cấm sát sanh. Nhưng các phiên trấn đời Đường mỗi khi nhậm chức ắt sắc cho dân chúng phải sát hại cho bữa đại yến linh đình. Cho nên chọn lấy tháng giêng, tháng 5, tháng 9 không nhậm chức, để cấm giết hại. Ngày nay lầm ngày kỵ là không đúng; vào 4 ngày chay nên tụng kinh chú, bái sám cũng như vâng lời Phật dạy, khiến cho mọi người hiểu rõ ý nghĩa như thế. Chiếu từ tâm chất có tội thì sửa đổi, không tội được miễn trừ, không phải chỉ lo tụng kinh mà đủ báo ân đâu! Niệm tụng giải thích để báo ân dù chưa hiểu nghĩa, vẫn giữ được lễ. Ngày nay nếu bỏ hết không thực hành thật là sai lầm vậy. Dựa theo Tục Cao Tăng truyện và Vân Lâu Sùng hành lục, Tỳ Kheo Thích Tăng Vân ở chùa Bảo Minh ham đắm cái danh diễn giảng mà ngày rằm tháng tư nhân lúc tụng giới, thưa đại chúng rằng: “gìới để cho người, người tụng đắc giới, cần gì nhọc tới số đông, có thể làm cho một vị tăng hiểu nghĩa khiến lớp sau tỏ ngộ”. Chúng không dám phản đối bèn bỏ tụng giới. Ngày rằm tháng 7 chúng làm lễ tự tứ bổng Vân vắng mặt, 4 thầy đi tìm bèn gặp ở trong khu nghĩa địa hoang, thân thể đầy máu me. Họ hỏi nguyên nhân được cho hay có một người rất mạnh cầm thanh đao dài gọi lớn tiếng hỏi Tăng Vân: “Đây là người gì? Dám bỏ tụng giới, dối xưng là hiểu nghĩa”, rồi dùng dao dí vào thân tôi, đau buốt không chịu nổi. Nhân đó tìm trở lại chùa, khẩn cầu sám hối trải qua 10 năm, rất chí thành tha thiết theo nghi thức tụng giới. Ngày lâm chung có hương lạ phảng phất khắp phòng rồi an tường ra đi. Lúc đó niên hiệu Hàm Gia làm cho đời luôn nhắc tới. Ngài Vân Thê Liên Trì nói rằng: “Thời nay còn kinh luận mà xem thường giới luật, hai nghìn năm sau, nửa tháng tụng giới một lần lại không muốn làm. Tôi không lường được! Hưng vong sa đọa ở trong chùa con người do chưa tin mà ra. Quả báo hiển nhiên mà ngài Tăng Vân trưng dẫn, mong lấy đó suy nghĩ.”
Hết quyển nhứt.

« Kinh này có tổng cộng 9 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 44.221.81.212 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập