Người Cư Sĩ          [ Trở Về         [ Trang Chủ  ]

Phật Giáo Tại Mông Cổ

Thích Nguyên Tạng


Mông cổ (Mongolia), một quốc gia Cộng hòa nằm phía Ðông trung tâm Châu Á, xứ sở này gồm hầu hết các vùng cao nguyên với sa mạc Gobi ở phía Nam, một quần hồ lớn phía Tây Bắc và núi Altai, Khangai ở phía Tây. Ngôn ngữ: tiếng Mông Cổ (Khalkha). Tiền tệ: tugrik. Thủ đô: Ulan Bator. Diện tích: 1.565.000 Km2. Dân số: 2.190.000 người. Tuổi thọ trung bình: 62,5 tuổi. Tôn giáo: Phật giáo là quốc giáo, hai tôn giáo nhỏ khác là Thiên chúa giáo và Hồi giáo.

Mông Cổ là một quốc gia thừa kế "Vương quốc những đồng cỏ" của Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan, 1162-1227). Ðộc Lập năm 1911 và theo chế độ Cộng Sản vào năm 1924, có quan hệ mật thiết với Liên Xô (cũ). Từ năm 1989, tiến trình dân chủ hóa đã bắt đầu và đưa tới sự cải tổ sâu rộng về các mặt kinh tế và chính trị. Các ngành kinh tế chính: công, nông nghiệp. Tài nguyên khoáng sản có: than đá, than nâu, dầu mỏ, vàng, bạc, chì, thạch cao.... Ngành chăn nuôi: cừu, lừa, lạc đà. Các ngành công nghiệp có: khai thác than, chế biến thực phẩm, sản xuất len. Thu nhập bình quân đầu người: 803 đô la.

Theo nhà nghiên cứu sử học người Anh Andrew Skilton (1), Phật giáo được truyền vào Mông Cổ từ Ấn Ðộ, Trung Á và Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ 4 trước Tây Lịch bằng con đường tơ lụa (Silk Road) qua các nhà buôn người Ấn Ðộ. Từ đó PG dần dà phát triển đến thế kỷ thứ 13 sau Tây lịch với nhiều đợt truyền giáo của Phật Giáo Tây Tạng và Phật Giáo Trung Hoa. Tuy nhiên, PG Tây Tạng chiếm ưu thế và ảnh hưởng mạnh mẽ vào đời sống của người dân Mông Cổ. Ðỉnh cao của sự ảnh hưởng này là Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thứ 4 là người Mông Cổ. Trước khi PG được truyền vào Mông Cổ, tôn giáo bản địa là Shamartistic, một tôn giáo chịu ảnh hưởng từ truyền thống tâm linh của người Ba Tư.

Thời kỳ hưng thịnh của Phật Giáo Mông Cổ:

PG Mông Cổ trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm, trôi nổi theo vận nước, thời kỳ thứ nhất xảy ra vào thế kỷ thứ 13 theo sau các cuộc xâm lăng của Mông Cổ trên khắp Á Châu. Kết quả của sự mở rộng bờ cõi này đã mang về Mông Cổ các truyền thống văn hóa và tôn giáo từ ngoại quốc, trong số đó, Phật giáo Tây Tạng (tông phái Thích Ca - Sakya Order) chiếm phần ưu thế, được người dân Mông Cổ ưa chuộng và ảnh hưởng mạnh mẽ vào đời sống của người dân. Trong số những Hoàng đế Mông Cổ thời bấy giờ có Kublai Khan (Hốt Tất Liệt, 1216-94) là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, là người kế thừa và hoàn thành việc chinh phục hoàn toàn Trung Hoa bằng cách lật đổ triều đại nhà Tống (1279) và lập nên triều Nguyên (Yuan, 1279-1368). Kublai Khan là người ngưỡng mộ và quy y theo Ðạo Phật, đặc biệt ông từng tham dự lễ điểm đạo quan trọng về pháp tu Mật tông Kalachakra ( phép tu luyện thiền định của Phật giáo và được liệt vào hàng cao nhất trong cách luyện về Mật giáo Yoga) và ông là người có công lao trong việc khuyến khích và bảo trợ công việc phiên dịch Kinh điển sang tiếng Mông Cổ.

Thời kỳ Phật giáo hưng thạnh thứ hai bắt đầu từ triều đại của Hoàng đế Altan Khan (1507-83), khi Mông Cổ có cuộc tiếp xúc mới với Tây Tạng, chính vì thế mà phái Hoàng Giáo (Gelugpa)  của Tây Tạng được chính thức truyền vào Mông Cổ và phát triển rất nhanh trên đất nước Mông Cổ qua sự bảo trợ của hoàng đế Altan Khan. Trong thời điểm ấy, một sự kiện quan trọng xảy ra cho Phật giáo Tây Tạng là sau cuộc chinh phục hoàn toàn Tây Tạng vào 1614, để lấy lòng dân, triều đình Mông Cổ đã ban hành một pháp lệnh rằng Ðức Ðạt Lai Lạt Ma của phái Hoàng Giáo là vị “đế sư”, đứng đầu ở thủ đô Lhasa, có quyền quản lý thế quyền và giáo quyền ở Tây Tạng.

Cả dân tộc Tây Tạng lẫn Mông Cổ đều tin tưởng rằng Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokitesvara), nên việc điều hành chính trị và tôn giáo ở Tây Tạng được người dân tin tưởng vào khả năng của vị tái sinh và được thừa nhận là Dalai Lama.

Thời kỳ thứ ba, dưới triều đại nhà Thanh (1662-1911), là triều đại ủng hôï Phật giáo ở Trung quốc, khi họ xâm chiếm Nội Mông (Inner Mongolia) họ có những ưu đãi cho Phật giáo, nhiều tông phái của Phật giáo Trung Quốc cũng được truyền vào Mông Cổ. Từ năm 1622 đến năm 1749, có nhiều Kinh điển được dịch từ tiếng Trung Hoa sang tiếng Mông Cổ.

Thời kỳ suy đồi của PG Mông Cổ:

Thế kỷ 20, Mông Cổ chịu nhiều đau khổ vì chiến tranh, xung đột chính trị từ các cường quốc bên ngoài, sau Trung quốc (1912), Nhật Bản đánh chiếm vào Manchuria vào năm 1931, và sau thế chiến thứ 2 vào năm 1945, Hồng quân của Liên Xô bắt đầu cuộc giải phóng cho Mông Cổ. Và từ ấy trở đi, với chính sách không khoan nhượng tôn giáo của chính quyền Xô Viết, có 20 ngàn tăng ni và cư sĩ Phật tử trí thức bị giết, 40 ngàn người khác bị tống giam, thanh thiếu niên dưới 18 tuổi không được xuất gia, hơn 800 tự viện bị phá hủy hoàn toàn trên khắp Mông Cổ.
Từ năm 1989 đến nay, quốc gia Mông Cổ trở nên độc lập, các rào cản về sinh hoạt tín ngưỡng được tháo bỏ, các hoạt động của Phật giáo đã từng bước trở lại bình thường, có hơn 160 ngôi Tu Viện được xây dựng hoặc mở cửa trở lại và rất nhiều người xuất gia tu học và làm công tác truyền giáo.

Hai sự kiện nổi bật trong thế kỷ 20 của Phật Giáo Mông Cổ:

Ðiều đáng chú ý trong thế kỷ 20, tại Mông Cổ có Hội Phật giáo thế giới ra đời là Hội Phật Giáo Châu Á vì Hòa Bình (Asian Buddhist Conference for Peace) được thành lập vào năm 1970 và đặt trụ sở trung ương tại thủ đô Ulan Bator, các quốc gia thành viên của Hội này gồm có : Tây Tạng, Mông Cổ, Ấn Ðộ, Nga, Tích Lan, Việt Nam, Nhật Bản, Campuchia, Thái Lan, Bangladesh,  Triều Tiên, Hồng Kông, Lào, Nepan, Singpapore, Thái Lan, Ðài Loan... Người đồng sáng lập Hội này là vị trụ trì Chùa Gandatechebling, Hòa thượng Khambo Lama Gambojav (1901-1980), người Mông Cổ. Ngài sinh năm 1901, xuất gia năm 9 tuổi, một người lầu thông Kinh điển và trở thành nhà lãnh đạo Phật Giáo Mông Cổ trong thời hiện đại. Ngài là người có công gìn giữ các Tàng Kinh Cát của Mông Cổ trong thời gian chiến tranh của Mông Cổ. Ngài là giáo sư triết học thuộc đại học quốc gia Mông Cổ. Vì hiểu được sự thống khổ của chiến tranh, nên Ngài đã kêu gọi chính quyền Xô Viết cho thành lập Hội ABCP để vận đôïng các cường quốc trên thế giới bãi bỏ vũ khí hạt nhân nguyeân tử, loại vũ khí giết người hàng loạt, và kết quả Hội ABCP đã thành lập và hoạt động như ước nguyện của Ngài. Hội ABCP cũng cho ra một tờ đặc san  Buddhist for peace ( Phật giáo vì hòa bình) bằng tiếng Anh, để phổ biến roäng rãi lời dạy của Phật về hòa bình và dân chủ.
Sự kiện thứ hai là Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã viếng thăm Mông Cổ vào năm 1982 và ngài đã truyền dạy pháp tu Mật tông Yamantaka  cho 140 vị Lạt Ma Mông Cổ tại Chùa Gandatechebling. Trong dịp này một buổi thuyết giảng quần chúng, có trên 20 ngàn Phật tử tại gia đến tham dự. Lần viếng thăm gần đây nhất là năm 1995, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã truyền dạy pháp Mật tông Kalachakra cho nhiều ngàn Taêng tín đồ, đây là lễ điểm đạo đầu tiên xảy ra kể từ năm 1934 tại Mông Cổ.

Phiên dịch Kinh Ðiển ở Mông Cổ:

Ðỉnh cao của nền Phật học Mông Cổ là Tam Tạng Kinh Ðiển PG (Tipitaka) đạ được dịch sang tiếng Mông Cổ. Bản dịch  Ðại Tạng Cam Thù (Kanjur)  gồm 108 quyển được phiên dịch từ Tạng ngữ (Tibetan) vào năm 1628-1629 và bản sớ giải của bộ Ðại Tạng này gồm 220 quyển từ các vị học giả Ấn-Tạng cũng đã hoàn thành việc chuyễn ngữ. Một vài phần của Cam Thù, như bộ Bodhisaryvatara (Nhập Bồ Ðề Hạnh Luận) được dịch thẳng từ bản tiếng Sanskrit.
Ngoài bản dịch quan trọng trên, Phật giáo Mông cổ còn có nhiều nhà Phật học nổi tiếng khác như Khaikha Zaya Pandit Lubsangperenici (1642-1775); Sumbo Khampo Ishbaljir (1794-1788); Agvandandar Ikharamba (1758-1830); Lubsangdagva Darjaa (1734-1803); Agvankhaidub (1779-1838); Avanbaldan (1797-1864); Chakhor Bebshi Lubsang Chultem (1740-1810), những tác phẩm của họ được vieát bằng cả tiếng Mông Cổ và tiếng Tây Tạng về các lĩnh vực triết học và sử học PG và được phổ biến rộng rãi ở Tây Tạng và Mông Cổ.

Về mặt nghiên cứu Phật học, Phật học viện Gandatechebling được xây dựng năm 1838 vaø được xem là một trường Ðại học Phật giáo ở Mông Cổ thời bấy giờ, là nơi đào tạo tăng tài cho Mông Cổ. Từ thế kỷ thứ 17, trường này đã đào tạo hơn 200 nhà Phật học Mông cổ để nghiên cứu và sáng tác nhiều tác phaåm tiêu biểu bao gồm 93 học giả về nghi lễ, 53 vị nghiên cứu về triết học, 8 vị về logic học, 11 vị về văn học, 12 vị về triết học, 7 vị về sử học, 12 vị về thiên văn học PG, và 12 vị về dược học và có 40 từ điển Tạng, Moâng, Ấn ngữ cũng được ấn hành.

Một số địa chỉ cần thiết để liên lạc với các tổ chức Phật Giáo tại Mông Cổ hiện nay:

Asian Buddhist Conference for Peace
C/o Gandan Thekchenling Monastery
Ulaanbaatar
Mongolia
Secretary: Bulgan
Tel: 360 0690

Dashi Choiling Monastery
PO Box 363
Ulaanbaatar 20
Mongolia
Tel: 97611 350 007
Fax: 97611 352 006
Trụ Trì : Ven Dambajav
Deputy Head Abbot: Ch Tsedendamba

Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Phật Giáo
C/o The Research Centre for Buddhist Culture
Mongolian National University
PO Box 46 / 386
Ulaanbaatar
Mongolia

Hội Pháp Luân
Dharma Wheel Association
 Mongolian National University
Ulaanbaatar
Mongolia
Head: Dr N Dorjgotov
Email: zaanhuu@magicnet.mn

Viện Triết Học Ðông Phương
Institute of Oriental Philosphy
Ulaanbaatar
Mongolia
Head: Dr Sarantuya
Tel: 97611 361 461

Tugs Bayasgalant Buddhist Centre
Ulaanbaatar
Mongolia
Head: Gantamur Natsagdorj
Tel: 97611 364 111

 World Fellowship Buddhists Youth
(Mongolian Regional Center)
PO Box 233, Ulaanbaatar 20, Mongolia
Tel: (976 1) 352 006
Fax: (976 1) 352 006
President: Ven. Tsedendamba
Email: galsanbat@yahoo.com
Affilliation: World Fellowship of Buddhists (Youth)

Zanabazar Buddhist University
Gandanthekchenling Monastery
Ulaanbaatar
Mongolia
Tel: 97611 360164

Zanabazar Mongolian Institute of Buddhist Art
Gandan Thekchenling Monastery
Ulaanbaatar
Mongolia
Head: Ven Purevbat
Tel: 97611 363 831

Lời kết, nhìn chung, sau gần một thế kỷ dậm chân tại chỗ, nay Phật giáo Mông cổ đang dần dà ổn định lại các sinh hoạt truyền thống. Ngày nay đất nước Mông Cổ đang ở trong một giai đoạn khó khăn sau khi giành lại được quyền độc lập. Họ phải làm lại từ đầu. Mông cổ vẫn phải chịu sự dẫn dắt về Kinh tế của Nga ( Russia) và hiện còn mắc nợ Nga khoảng 6 tỷ đô la.  Xứ sở này cũng đang đối diện với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và mọi thử thách trong công cuộcï phục hưng văn hóa và tôn giáo. Tuy nhiên, người Mông cổ vẫn có một niềm lạc quan về tương lai với niềm an ủi vì rằng trí tuệ và lòng từ bi vô biên đang ẩn tàng trong giáo lý của Ðạo Phật, và chính hai yếu tố này sẽ giúp cho Mông cổ thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Như người Tây Tạng, Phật giáo là máu, là thịt, là hơi thở của người Mông Cổ.  Sự phục hưng lại sức mạnh của Phật giáo là việc làm tất yếu và phải xaûy ra để mang lại nền hòa bình và thạnh trị cho đất nước này.

Tài liệu tham khảo :

-  Tibetan Bullertin, October-December 1998.
- George Wehrfritz, Disrupting the faith , Newsweek, January 13, 1997.
- Andrew Skilton (1994), A Concise History of Buddhism, Windhorse Publications.
- Nagendra Kr. Singh (Ed, 1998), International Encyclopaedia of Buddhism, Vol.47, Anmol Publications Pvt.Ltd, New Delhi, India.
________________________

(1) P193. Andrew Skilton (1994), A Concise History of Buddhism, Windhorse Publications
(2) Là một trong những tông phái Phật giáo lớn của PG Tây Tạng, các phái khác là Phái Hồng giáo (Nyingma); Phái Bạch giáo (Kagyudpa); Phái Thích Ca (Sakya); Phái Ca Ðương (Kadampa).
(3) Yamantaka :Trì Minh Kim Cương, hóa thân của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, vị minh vương hàng phục diệm ma, giải trừ trói buộc của chúng sinh
(4) Kanjur: Cam Thù [một trong 2 bộ Ðại Tạng Kinh Ðiển của Tây Tạng: Cam Thù & Ðan Thù (One of the two Great Sutra Canons in Tibet: Kanjur and Tanjur)]



 [ Trở Về ]